Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân lớp trung cấp lý luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.94 KB, 12 trang )

Câu 1: Phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?
Trả lời
* Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN:
Thứ nhất: Nội dung kinh tế: Giai cấp công nhân trở thành lực lượng sản xuất cơ bản và
là giai cấp quyết định tồn tại xã hội hiện đại và qua đó tạo cơ sở vật chất cho sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội. Nội dung này là yếu tố xâu xa nhất khẳng khẳng định sự cần thiết của sứ mệnh
lịch sử của GCCN đối với quá trình phát triển văn minh của nhân loại.
Thứ hai: Nội dung chính trị: Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản giai cấp công nhân
cùng với nhân dân lao động tiến hành đấu tranh chính quyền, xác lập, bảo vệ và phát triển chế
độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ ba: Nội dung văn hóa tư tưởng: GCCN đấu tranh với hệ tư tưởng phi vô sản, xác lập
địa vị thống trị của hệ tư tưởng GCCN, xây dựng nền văn hóa và con người mới.
Tóm lại, Sứ mệnh lịch sử của GCCN có ba nội dung chính trong đó nội dung thứ nhất là
tiền đề cho các nội dung tiếp theo và nội dung thứ hai là nội dung cơ bản có tính quyết định bởi
vì nó quyết định việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên thực tế, đồng thời khẳng định
chiến thắng của chủ nghĩa xã hội đối với CNTB.
* Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã hội khách quan của nó
quy định:
- Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân ra
đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất của
lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết
định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội
xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giai
cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong thời đại ngày nay.
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên
buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị
thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động. Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa,
thì người chủ của nó (người vô sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh;
số phận của nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường làm
thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và


ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa
giai cấp công nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong
xã hội tư bản chủ nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện sinh hoạt
khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể giải phóng mình bằng cách giải phóng toàn thể
nhân loại khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng
xích và được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở thành giai
cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là
khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới.
Đó là khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả
năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống
chủ nghĩa đế quốc.
-1-

1


Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập
với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn
và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp”.
* Liên hệ GCCN ở sơn la
10 năm qua, thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 05.4.2006 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh (khoá XII) về “Xây dựng đội ngũ công nhân, lao động Sơn La thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, chất lượng đội ngũ cán bộ doanh nghiệp và công nhân, lao
động được nâng lên rõ rệt. Trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề, làm chủ khoa
học công nghệ và vị thế, vai trò của giai cấp công nhân lao động ngày càng được khẳng định,
góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Theo tổng hợp, đến nay, tổng số công nhân, viên chức, lao động trên địa bàn tỉnh ta có

trên 85 ngàn người (bao gồm cả cán bộ, công nhân, viên chức, lao động của các tập đoàn, tổng
công ty Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh, tăng gần 25.000 so với năm 2006)...., có trên 40.000
công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, y tế, giáo dục..., gần
30.000 công nhân, lao động làm việc ở các thành phần kinh tế.... Để xây dựng đội ngũ công
nhân, lao động Sơn La, cấp ủy, chính quyền, tổ chức công đoàn và các đoàn thể đã chú trọng
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” để mỗi cán bộ, đảng viên và công nhân, lao động ngày càng nhận thức sâu sắc
về bản chất, vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động, trọng tâm là
phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Thi đua phục vụ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn”, “Cả nước chung tay cùng thuỷ điện Sơn La”,
“Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”. Tổ chức nhiều hội thi, hội diễn, giao lưu văn hóa, văn
nghệ, thể dục thể thao, tôn vinh, biểu dương các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong công nhân, viên
chức, lao động.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ doanh nghiệp và công nhân, lao động trong những
năm qua ở tỉnh ta luôn được quan tâm về mọi mặt, vừa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và
chất lượng. Tỉnh ta đã ban hành các cơ chế chính sách thu hút các doanh nghiệp đầu tư, mở
rộng sản xuất, kinh doanh, thu hút lao động tại địa phương, nhất là lao động nữ, lao động nông
thôn; chính sách về công tác đào tạo, quy hoạch, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng đội ngũ công nhân,
lao động; hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho công nhân lao động, khuyến khích các doanh nghiệp
đào tạo nghề cho công nhân lao động... Đến nay, số lao động của tỉnh trong độ tuổi là 753.130
người, chiếm 65% dân số; số lao động qua đào tạo giai đoạn 2006 - 2016 là 168.572 người,
chiếm 22,3% số lao động trong độ tuổi; trong đó, lao động nữ có 72.486 người, chiếm 43% số
lao động được học nghề, lao động là người dân tộc thiểu số có 128.299 người, chiếm 82% số
lao động được học nghề... Trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề của đội ngũ công
nhân, lao động từng bước được nâng lên, 90,6% tốt nghiệp trung học phổ thông, 5,9% có trình
độ sơ cấp, 25,1% trung cấp, 14,4% có trình độ đại học. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc
làm cho công nhân, lao động có những chuyển biến tích cực; các cơ sở dạy nghề được quan tâm

đầu tư về cơ sở vật chất, phát triển mạnh về số lượng và qui mô, đội ngũ giáo viên, giảng viên
từng bước được chuẩn hóa..., góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho công nhân, lao động
trong tỉnh.
Bên cạnh đó, công tác phát triển đảng, xây dựng tổ chức công đoàn được quan tâm. 10
năm qua, đã có 692 công nhân, lao động trực tiếp sản xuất, kinh doanh được kết nạp Đảng. Các
cấp công đoàn đẩy mạnh đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
-2-

2


động, nhất là tổ chức công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp tư nhân. Trong 10 năm, đã đào tạo
bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ và nghiệp vụ công tác
công đoàn cho 7.046 cán bộ công đoàn các cấp; kết nạp được 12.201 đoàn viên, thành lập mới
530 công đoàn cơ sở, tỷ lệ công đoàn cơ sở đạt tiêu chuẩn vững mạnh, vững mạnh xuất sắc
hàng năm đạt trên 90%; duy trì và phát triển các mô hình câu lạc bộ nữ công trong công nhân,
viên chức, lao động. Chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động;
giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến người lao động, thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở. Các hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, từ thiện được triển khai có hiệu
quả, đã vận động được hàng tỷ đồng để giúp đỡ công nhân, viên chức, lao động có hoàn cảnh
khó khăn; giải ngân 6.720 triệu đồng của 82 dự án, cho 682 công nhân, viên chức, lao động vay
vốn, tạo việc làm cho 729 lao động; xây dựng quĩ xã hội từ thiện đạt gần 4,5 tỷ đồng; cho 317
lượt nữ công nhân, viên chức, lao động có hoàn cảnh khó khăn vay trên 3,2 tỷ đồng từ nguồn
quĩ “Vì nữ công nhân, viên chức, lao động nghèo”....
Qua 10 năm, thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Xây dựng đội
ngũ công nhân, lao động Sơn La thời kỳ CNH, HĐH đất nước”, đã đạt được kết quả rõ rệt.
Những kinh nghiệm được rút ra, đó là: Xây dựng đội ngũ công nhân, lao động trong thời kỳ
CNH, HĐH là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; các cấp uỷ phải xây dựng kế hoạch,
chương trình hành động cụ thể, tăng cường sự lãnh đạo đối với hoạt động của tổ chức công
đoàn. Nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý Nhà nước trong xây dựng và thực hiện chính

sách đối với công nhân, lao động; chú trọng ưu tiên các chính sách về giáo dục, bồi dưỡng, đào
tạo, tạo việc làm, bảo trợ xã hội cho công nhân, người lao động; tập trung giải quyết kịp thời
những vấn đề bức xúc của công nhân, như việc làm, thu nhập, nhà ở, bảo hiểm xã hội... Chăm
lo xây dựng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn, nhất là cán bộ công đoàn
cơ sở có trình độ, năng lực, tâm huyết; chú trọng công tác phát triển đảng trong công nhân,
thành lập tổ chức đảng và tổ chức chính trị-xã hội trong các loại hình doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp tư nhân; thường xuyên giám sát, kiểm tra, đôn đốc thực hiện, định kỳ tổ chức sơ
kết, tổng kết rút kinh nghiệm để tháo gỡ khó khăn, đề ra nhiệm vụ để xây dựng đội ngũ công
nhân, lao động ngày càng đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ mới.
Trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đội ngũ công nhân, lao động
càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển. Với sự quan tâm của cả hệ thống chính trị,
đội ngũ công nhân, lao động tiếp tục được tạo điều kiện về mọi mặt để có nhiều cơ hội được
học tập, nâng cao kiến thức, cống hiến và phát huy tài năng trên nhiều lĩnh vực... đóng góp
nhiều hơn nữa cho sự phát triển của tỉnh.
Câu 2: Đồng chí hãy chứng minh những mặt thuận lợi và hạn chế của GCCN Việt Nam
trước những yêu cầu đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức?
Trả lời
Giai cấp CN VN là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người
lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và
dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
Giai cấp CN nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông
qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản VN; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến;
giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp CN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
-3-

3



Qua hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình CNH-HĐH đất nước, giai cấp CN nước ta
đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa đạng về cơ cấu, chất lượng
được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận CN trí thức; đang tiếp tục phát huy
vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản VN, giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNHHĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng
cốt trong liên minh giai cấp CN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp CN đã đóng góp trực tiếp, to lớn vào quá
trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác, giai cấp
CN nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai cấp CN
ngày càng được cải thiện.
* Tuy nhiên, giai cấp công nhân nước ta còn những hạn chế là:
- Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công
nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công
nhân từ nông dân chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, một bộ phận công nhân chậm
thích nghi với cơ chế thị trường.
- Ðịa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ. Giai cấp công nhân còn hạn chế
về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân
không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên và
cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn
đấu vào Ðảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội.
- Tuy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của giai cấp
công nhân ngày càng được cải thiện; nhưng lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng
chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính
mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc,

đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
=> Tình hình trên bắt nguồn từ các nguyên nhân:
- Quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội theo đường lối của Ðảng đã mở ra một giai đoạn
lịch sử mới trong sự phát triển giai cấp công nhân. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, phát huy nguồn lực của các thành phần kinh tế, với những đổi mới tư duy
mạnh mẽ, đã tạo ra môi trường mới và điều kiện to lớn trong giải quyết việc làm, nâng cao
trình độ nghề nghiệp và cải thiện đời sống cho công nhân. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém
trong phát triển kinh tế - xã hội cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống và tư
tưởng của công nhân.
- Ðảng có chú trọng xây dựng giai cấp công nhân, nhưng quan tâm chưa đầy đủ, chưa ngang
tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ mới. Từ sau Ðại hội VII, Ban Chấp
hành Trung ương và Bộ Chính trị chưa có nghị quyết, chỉ thị chuyên đề về xây dựng giai cấp
công nhân; nhiều khó khăn, hạn chế của giai cấp công nhân chưa được quan tâm khắc phục kịp
thời; chưa chú trọng công tác giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị cho giai
-4-

4


cấp công nhân; tổ chức cơ sở đảng tại các doanh nghiệp ngoài nhà nước rất thiếu và yếu; tỷ lệ
đảng viên và lãnh đạo các cấp xuất thân từ công nhân rất thấp; còn ít quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân; tôn vinh, động viên, khen thưởng công nhân
còn ít; đời sống của một bộ phận công nhân quá khó khăn; công tác nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn về giai cấp công nhân chưa được quan tâm và đầu tư thỏa đáng, dẫn đến còn tình
trạng nhìn nhận chưa đúng mức về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật xây dựng giai cấp công nhân, nhưng những
chính sách, pháp luật này còn nhiều hạn chế, bất cập. Có nhiều biểu hiện thiên về coi trọng

việc thu hút đầu tư và vai trò của người sử dụng lao động, e ngại ảnh hưởng đến môi trường
đầu tư, nên chưa thực sự quan tâm thích đáng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của công nhân; tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với giai cấp công nhân
còn nhiều thiếu sót, thiếu chế tài cần thiết và xử lý không nghiêm những tổ chức, cá nhân vi
phạm.
- Tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác có nhiều đóng góp tích cực vào việc
xây dựng giai cấp công nhân, nhưng hiệu quả chưa cao, còn nhiều yếu kém. Công đoàn chưa
phát huy tốt vai trò là một tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân, chưa đủ sức đóng
vai trò là chỗ dựa vững chắc của công nhân tại doanh nghiệp; điều kiện hoạt động lại rất khó
khăn, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Công tác Ðoàn và phong trào thanh niên
công nhân chủ yếu mới dừng lại ở khu vực doanh nghiệp nhà nước.
- Bản thân giai cấp công nhân đã có nhiều nỗ lực vươn lên, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Các doanh nghiệp và người sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế đóng góp tích cực
vào tạo việc làm và thu nhập cho công nhân; nhưng không ít trường hợp còn vi phạm chính
sách, pháp luật đối với người lao động, nhất là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Câu 3: Bằng lí luận và thực tiễn đồng chí hãy chứng minh luận điểm sau: Giai cấp công
nhân...là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là ĐCSVN. Giai cấp đại
diện cho PTSX tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Trả lời
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, giai cấp công nhân Việt Nam
(GCCNVN) là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta đã xác định vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCNVN là
giai cấp lãnh đạo cách mạng, nòng cốt trong khối liên minh công - nông. Trong công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta xác định sứ mệnh lịch sử to lớn của giai cấp công nhân: Là
giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng
đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Sau 30 năm đất nước đổi mới, GCCNVN có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và
chất lượng, có mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, sử dụng và vận hành
những công cụ, phương tiện sản xuất hiện đại nhất, quyết định phương hướng phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Với đội ngũ công nhân chiếm khoảng 13,5% dân số và 26,46% lực lượng lao
động xã hội, nhưng hằng năm đã tạo ra trên 40% giá trị tổng sản phẩm xã hội, đóng góp lớn cho
ngân sách nhà nước (trên 60%). Phần lớn công nhân, lao động (CNLÐ) tuyệt đối tin tưởng vào
-5-

5


sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước; nêu cao ý chí tự lực, tự
cường, say mê lao động sáng tạo, chịu khó học hỏi, từng bước làm chủ kỹ thuật và công nghệ
cao, bước đầu hình thành đội ngũ công nhân trí thức. Giai cấp công nhân là cơ sở chính trị - xã
hội vững chắc của Ðảng và Nhà nước, nền tảng của khối liên minh công nhân - nông dân - trí
thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay, đội ngũ CNLÐ
nước ta đang đứng trước những khó khăn, thách thức mới, đó là: Trình độ học vấn, chuyên
môn, khả năng nghề nghiệp nhìn chung còn thấp so với yêu cầu; mất cân đối trong cơ cấu lao
động - kỹ thuật, thừa lao động giản đơn, thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao, thiếu các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; phân bố công nhân lao động
giữa các ngành nghề, các vùng miền chưa hợp lý; ý thức học tập nâng cao trình độ lý luận chính
trị, chuyên môn, nghề nghiệp nhìn chung không cao; CNLĐ chưa ý thức đầy đủ yêu cầu của
cạnh tranh quốc tế để có giải pháp tích cực, chủ động hội nhập; lòng say mê nghề nghiệp, ý
thức tổ chức, kỷ luật, tác phong công nghiệp, vai trò làm chủ còn hạn chế… Bên cạnh đó,
những vấn đề bức xúc về nhà ở, việc làm, đời sống vật chất, tinh thần còn khó khăn; tình trạng
chậm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế vẫn xảy ra ở một số doanh nghiệp; tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp còn xảy ra nghiêm trọng; tình trạng vi phạm kỷ luật lao động còn khá phổ
biến; tranh chấp lao động tập thể và đình công vẫn diễn ra phức tạp…Đây là những thách thức
lớn đối với bản thân giai cấp công nhân nói riêng và đối với đất nước ta nói chung.

Trong xu hướng phát triển hiện nay, GCCNVN đang có nhiều biến động sâu sắc cả về số
lượng, chất lượng, cả về thành phần và cơ cấu. Theo đó, trình độ và năng lực sẽ ngày càng cao
hơn; tỷ lệ công nhân trong doanh nghiệp nhà nước có xu thế giảm, còn trong các thành phần
kinh tế khác ngày càng tăng nhanh; xu hướng thay đổi nơi làm việc sẽ nhiều hơn; sự di chuyển
và biến động công nhân giữa các ngành nghề, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sẽ
diễn ra thường xuyên; vai trò quan trọng của GCCN trong phát triển lực lượng sản xuất và đóng
góp chủ yếu vào thu nhập quốc dân ở nước ta ngày càng khẳng định...
Để nâng cao vị thế và phát huy vai trò của GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước và hội nhập quốc tế, nhất là khi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được ký kết
và thực hiện; đòi hỏi cấp ủy, chính quyền, tổ chức đoàn thể, nhất tổ chức công đoàn các cấp cần
tiếp tục nhận thức và quán triệt đầy đủ những quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng
GCCNVN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã được nêu lên trong Cương lĩnh (bổ sung,
phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6
(khóa X) về “Tiếp tục xây dựng GCCNVN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Trước mắt,
cần tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả một số giải pháp cơ bản là:
(1) Coi trọng hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống
GCCN, truyền thống cách mạng của Đảng…, nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp, ý thức tổ chức
kỷ luật, tác phong công nghiệp, sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật cho công nhân lao
động.
(2) Đẩy mạnh và không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả công tác đào tạo, đào tạo lại bằng
nhiều hình thức phù hợp (tập trung, tại chức, đào tạo ngay trong quá trình sản xuất, kinh doanh).
Tập trung nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần cho GCCN; tạo môi trường thuận lợi để GCCN phát huy hết khả năng của mình. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật lao động, xử lý nghiêm những
vi phạm để quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động được bảo đảm.
(3) Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công đoàn để công đoàn có điều kiện
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Chú trọng bồi dưỡng phát triển Đảng trong công
nhân, lao động; đào tạo bồi dưỡng những cán bộ trẻ có trình độ, năng lực xuất thân từ thành
-6-


6


phần công nhân; tuyên truyền, vận động, thuyết phục, khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ủng hộ, tạo điều kiện để
thành lập các cơ sở đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp... Nhà nước cần
tạo điều kiện và phối hợp chặt chẽ với công đoàn để tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu
nước, trọng tâm là phong trào lao động giỏi, lao động sáng tạo, phong trào học tập nâng cao
trình độ trong công nhân, viên chức, người lao động, nhằm khơi dậy mọi tiềm năng của GCCN
trong giai đoạn mới.
(4) Đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về GCCN, hướng vào
giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra; qua đó cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để đề
ra chủ trương, giải pháp xây dựng GCCN trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN,
đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
(5) Nhiệm vụ xây dựng GCCN không ngừng lớn mạnh cần gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và chăm lo xây dựng GCCN; đảm bảo
hài hòa lợi ích giữa công nhân với người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, vì lợi ích chung của toàn dân tộc.
Nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1/5, chúng ta ghi nhận, tri ân những cống hiến, đóng
góp to lớn của GCCNVN và tổ chức công đoàn; tôn vinh các tập thể, cá nhân điển hình trong
công nhân, viên chức, người lao động; qua đó cổ vũ, động viên GCCN tiếp tục phát huy vị thế,
vai trò và truyền thống vẻ vang của mình, có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta.
Câu 4: Vì sao trong thời kì quá độ lên CNXH phải thực hiện liên minh C-N-TT ?Liên
Hệ thực trạng khối liên minh C-N-TT tại địa phương đồng chí?
Trả lời:
Liên minh công - nông - tri thức là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác, của đội ngũ công nhân,
nông dân và đội ngũ tri thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực lượng và cả khối

liên minh; đồng thời góp phần thực hiện lợi ích chung của dân tộc, của sự nghiệp xây dựng xã
hội chủ nghĩa.
* Tính tất yếu của liên minh C-N-TT trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thể hiện
ở chỗ:
Một là, xét dưới góc độ kinh tế - kĩ thuật và phân công lao động: Do sự phân công lao
động xã hội còn rõ dệt giữa công nghiệp, nông nghiệp và khoa học công nghệ cũng như giữa
công nhân, nông dân và tri thức. Ngày nay trong xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đòi hỏi
các dân tộc phát triển theo định hướng XHCN phải có một nền kinh tế công nông nghiệp hiện
đại với khoa học và công nghệ tiên tiến. Do đó rất cần có liên minh vững chắc Công - nông - tri
thức nhằm vượt qua những thách thức, tận dụng được những thời cơ để phát triển.
Hai là, về góc độ chính trị xã hội: Trong thời kì quá độ lên CNXH, liên minh công nông-tri thức nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới dưới
sự lãnh đạo của đảng. Nói cách khác thực hiện liên minh công - nông - tri thức nhằm tập hợp
lực lượng tiến hành cách mạng. Liên minh công nông tri thức xuất phát từ yêu cầu củng cố và
tăng cường vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Liên minh còn xuất phát từ sự thống nhất
giữa mục tiêu, lí tưởng của giai cấp công nhân và nhu cầu giải phóng quần chúng của giai cấp
lao động.
* Tầm quan trọng của liên minh C-N-TT trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
-7-

7


Liên minh công- nông- tri thức là vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản nói chung và
của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng, nó mang tính cơ bản vừa trước mắt vừa lâu
dài và quyết định đến sự thành bại của cách mạng, sự thắng lợi cảu công cuộc xây dựng xã hội
mới.
Liên minh là cơ sở chính trị xã hội tin cậy để đảm bảo trong thực tế sự lãnh đạo của đảng
cộng sản đối với toàn xã hội để xây dựng được nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân vì nhân dân quản lí mọi mặt phát triển đời sống xã hội. Liên minh tạo ra động lực sức
mạnh tổng hợp cho sự phát triển xã hội.

Công nhân, nông dân và tri thức đều là những giai tầng của những người lao động, có
nhiều nhu cầu cơ bản, thống nhất cho nên họ dễ đồng cảm đi đến đoàn kết hợp tác vì sự phát
triển nói chung và lợi ích của mình nói riêng.
* Liên hệ thực trạng khối liên minh C-N-TT tại địa phương đồng chí?
- Công nhân :
+ Một bộ phận trong giai cấp chưa có trình độ chính trị, phẩm chất giai cấp giảm, kỷ luật lao
động, tác phong công nghiệp kém
+ Một bộ phận công nhân bị thoái hoá và tha hoá nghiêm trọng về lao động, phẩm chất giai cấp
và lối sống
+ Vấn đề lớn nhất nổi lên trong các năm qua là, giai cấp công nhân chưa thể đóng vai trò chủ
đạo trong đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, phân phối
+ Trình độ văn hoá, tay nghề thấp và không đồng đều, mất cân đối giữa các bộ phận công nhân
+ Sự mất cân đối về cơ cấu đội ngũ công nhân giữa các thành phần, ngành kinh tế, trên các địa
bàn dân cư, giữa số lượng và chất lượng.
- Nông dân :
+ Tiến trình công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chủ yếu làm giảm tỷ lệ giai cấp nông dân
trong xã hội, số lượng nông dân giảm đi, số hộ và lao động thuần nông giảm, tỷ lệ nông dân tập
thể giảm đi rất nhiều
+ Tình trạng một bộ phận nông dân rời khỏi đất canh tác, bỏ nghề truyền thống trong khi có ít
cơ hội để chuyển sang những nghề phi nông nghiệp, và trở thành giai cấp khác.
+ Do sự phát triển của kinh tế đất nước nhiều tư liệu sản xuất nông nghiệp bị mất đi đặc biệt là
đất đai canh tác bị thu hồi phục vụ cho công nghiệp nông dân bị mất đất
- Thực trạng khối liên minh C-N-TT tại địa phương :
- Sự liên kết liên minh còn chưa được vững chắc bền vững ở một số địa phương mang tính hình
thức không thực chất.
- Đôi khi có những xung đột mâu thuẫn không tránh khỏi giữa lợi ích của các giai cấp
Ví dụ: + việc tiêu thụ hàng hóa sản xuất ra không bán được hoặc quá rẻ
+ hay quan hệ lợi ích giữa nông dân sản xuất ở các vung nguyên liệu tập trung với các xí nghiệp
chế biến,
+ một số chính sách với nông nghiệp nông thôn còn chua hợp lý như đền bù đất đai, thuế , tín

dụng
+ Chênh lệch giữa giá cả hàng hó công nghiệp, dịch vụ với giá cả nông sản ngày càng tăng.
+ Chất lượng nông sản làm ra chưa đảm bảo yêu cầu của công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
+ Một bộ phận giai cấp công nhân chưa nhận thức rõ trách nhiệm của mình với sựng nghiệp
CNH-HĐH đất nước.
Ví dụ : Đối với nông dân trồng nhãn ở Sông Mã: Nhãn Sông Mã là loại hoa quả có chất lượng/
địa bàn Tỉnh, nhưng vẫn cong gặp nhiều khó khăn.
-8-

8


+ Đa số nông dân vẫn tiến hành chăm sóc, thu hoạch theo từng hộ gia đình, chưa có sự liên kết
để cùng tìm lối ra cho sản phẩm. Sản phẩm bán ra thị trường giá thấp.
+ Tỉnh chưa tìm đầu ra cho sản phẩm. Chưa khẳng định thương hiệu cho đặc sản của Tỉnh.
+ Đội ngũ trí thức chưa thực sự chú ý tới ứng dụng khoa học kỹ thuật, chuyển giao kỹ thuật
cho nông dân=> các mùa vụ năng suất không đều...
Câu 5: Phân tích những nội dung cơ bản của khối liên minh công - nông - tri thức trong
thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, để tăng cương khối liên minh C-N-TT ở địa phương
phải có những giải pháp gì ?
Trả lời:
- Nội dung chính trị: Nội dung chính trị của liên minh thực chất là sự đoàn kết cảu lực lượng
công nhân, nông dân, tri thức để thực hiện các nhiệm vụ chính trị nhằm bảo vệ độc lập dân tộc,
bảo vệ chế độ chính trị, để giữ vững định hướng đi lên XHCN
- Nd:
+ giữ vững lập trường chính trị tư tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời giữ vững vao trò
lãnh đạo của Đảng cộng sản của giai cấp cấp công nhân đối với khối liên minh, trong quá trình
xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ chính trị giữ vững độc lập và định hướng đi lên CNXH.
+ Từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN
+ Động viên các lực lượng trong khối liên minh gương mẫu chấp hành đường lối chính trị của

đảng, pháp luật và chính sách của nhà nước, sẵn sàng tham gia chiến đấu để bảo vệ thành quả
của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
+ Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại dưới mọi hình thức,
chống âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch và phản động.
- Nội dung kinh tế: Nội dung kinh tế của liên minh công-nông-tri thức thực chất là sự hợp tác
giữa họ để xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa mà ở thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là thực hiện đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức theo định hướng
XHCN.
- ND:
+ Xác định đúng tiềm lực kinh tế và nhu cầu kinh tế cảu công nhân, nông dân, tri thức và toàn
xã hội.
+ Tổ chức các hình thức giao lưu hợp tác liên kết kinh tế giữ công nghiệp, nông nghiệp, khoa
học và công nghệ, giữa các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế giữa trong
nước và quốc tế để phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống cho công nhân, nông dân,
tri thức và toàn xã hội.
+ Nâng cao hiệu quả chuyển giao và ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào quá
trình sản xuất kinh doanh nông nghiệp và công nghiệp, nhằm gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực kinh
tế cơ bản của quốc gia qua đó gắn bó chặc chẽ công nhân, nông dân, tri thức là cơ sở KT-KH
cho sự phát triển của quốc gia.
- Nội dung văn hóa - xã hội:Nội dung văn hóa - xã hội của liên minh thực chất là sự đoàn kết
hợp lực của công nhân, nông dân, tri thức nhằm xây dựng nền văn hóa mới vầ con người mới xã
hội chủ nghĩa.
Nội dung

-9-

9


+ Nội dung văn hóa - xã hội của liên minh đòi hỏi phải đảm bảo kết hợp giữa tăng trưởng kinh

tế và phát triển văn hóa tiến bộ và công bằng xã hội; Xây dựng nền văn hóa mới XHCN, bảo vệ
môi trường sinh thái, xây dựng nông thôn mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong đó
công nhân, nông dân, tri thức là nguồn lực quan trọng cơ bản của quốc gia.
+ Liên minh trên lĩnh vực văn hóa xã hội đòi hỏi phải thực hiện xóa đói giảm nghèo, thực hiện
tốt chính sách xã hội đối với công nhân, nông dân, tri thức; chăm sóc sức khỏe và nâng cao chất
lượng sống cho nhân dân. Nâng cao dân trí.
Liên hệ:
Một số giải pháp phát huy sức mạnh của liên minh công nông - trí thức trong khối đại đoàn
kết dân tộc:
Một là, tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các bộ phận trong khối liên
minh công - nông - trí thức.
Với giai cấp công nhân, đào tạo đội ngũ công nhân vững về tri thức nghề nghiệp, thành
thạo kỹ năng và thái độ lao động chuyên nghiệp, tích cực. Đây vừa là đòi hỏi khách quan của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa là đòi hỏi của quá trình hợp tác, phân công lao động
và các hiệp định thương mại khu vực, quốc tế. Gắn đào tạo nghề với việc mở rộng và phát triển
các ngành, nghề, lĩnh vực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập khu
vực, quốc tế, giáo dục văn hóa lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm nghề nghiệp và tác
phong công nghiệp.
Quan tâm cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân lao động.
Có quy định bảo đảm công bằng về tiền lương trong các thành phần kinh tế, bảo đảm giá trị tiền
lương thực tế để đủ cho cuộc sống của người lao động cùng con cái họ. Cải thiện môi trường
lao động, bảo hộ lao động, chăm lo sức khỏe thể chất và tinh thần của người công nhân, nhất là
xây dựng các thiết chế văn hóa, điều kiện nhà ở... tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tăng
cường quản lý, giám sát việc thực thi pháp luật, nhất là Luật Lao động, Luật Bảo hiểm, Luật
Thuế thu nhập cá nhân,... bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân lao động; giải
quyết các tranh chấp lao động trên cơ sở luật pháp quốc gia và quốc tế... để “bảo vệ quyền lợi,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân’’(13).
Đối với giai cấp nông dân, khẩn trương hoàn thiện cơ chế liên kết kinh tế trong việc sản
xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ hàng nông sản. Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam
đồng thời với việc bảo vệ thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ. Các chính sách hợp tác, hỗ trợ,

cung ứng dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn
phải được thực hiện đồng bộ, tích cực... bên cạnh các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục
cộng đồng. Nhà nước thống nhất quản lý và điều hành hệ thống dịch vụ phục vụ nông nghiệp,
nông dân, nông thôn thông qua hệ thống liên kết “Bốn nhà”. Có cơ chế, chính sách và cả cơ chế
giám sát để hệ thống vận hành một cách hiệu quả, bền vững, tạo cơ sở gắn kết các chủ thể lợi
ích và các chủ thể trong liên kết, như Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Hỗ trợ, khuyến
khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học
- công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng
cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch
vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin,... cải thiện chất lượng cuộc sống của dân
cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích
làm giàu hợp pháp”(14).
Với tầng lớp trí thức, thực hiện chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ phù
hợp, nhất là đội ngũ nghiên cứu, chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp, hình thành đội ngũ chuyên
gia chiến lược của đất nước đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ
- 10 -

10


tư. Quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, đáp ứng yêu cầu tiếp cận tri thức khoa học, công
nghệ tiên tiến của thời đại. Tạo cơ chế phù hợp để các nghiên cứu, ứng dụng nhanh chóng được
phổ biến rộng rãi, thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, đồng thời bảo đảm quyền sở hữu
trí tuệ đối với các sản phẩm đó. Quan trọng hơn, “Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong
hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng
lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những
cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước”(15).
Hai là, phát huy vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc
Đối với giai cấp công nhân, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị, giác ngộ giai

cấp, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần dân tộc. Trước mắt cần nâng cao sự hiểu biết về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên
quan đến lao động, việc làm, chính sách xã hội, những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường, thị
trường lao động, quan hệ lao động, hợp tác và cạnh tranh, hội nhập quốc tế theo cam kết của các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, những vấn đề về sở hữu trí tuệ, phá sản, bảo hiểm. Bồi
dưỡng tinh thần và ý chí lao động, thái độ đối với sức ép cạnh tranh trong thị trường lao động,
các kỹ năng giải quyết quan hệ lao động, đặc biệt là lao động gắn với yếu tố nước ngoài, trong
khu vực FDI.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp
trong các loại hình doanh nghiệp. Đổi mới hoạt động của tổ chức công đoàn, hướng về cơ sở,
nắm bắt kịp thời, thường xuyên nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng, hợp pháp của công
nhân và đấu tranh, bảo vệ lợi ích của họ. Đội ngũ cán bộ trong các tổ chức chính trị - xã hội của
công nhân phải thường xuyên nâng cao về trình độ, khoa học, công nghệ, pháp luật, ngoại ngữ,
tin học… đủ sức tham gia có hiệu quả vào quá trình tập hợp, thu hút quần chúng công nhân, tổ
chức hoạt động cũng như bảo vệ lợi ích người lao động, cả trong phạm vi quốc gia, khu vực và
quốc tế; phương pháp, kỹ năng tổ chức hoạt động phải đa dạng, linh hoạt, theo kịp với những
thay đổi về lao động, việc làm của giai cấp công nhân trong tình hình mới.
Đối với giai cấp nông dân, phải đặt vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ dân trí cho nông
dân lên hàng đầu. Nội dung giáo dục không chỉ giới hạn ở vấn đề chuyển giao khoa học, kỹ
thuật, công nghệ mới, mà sâu xa hơn là nền tảng tri thức, văn hóa, tư duy, nếp nghĩ, thói quen
của nông dân. Khắc phục tính manh mún, nhỏ lẻ trong tư duy của nông dân, thúc đẩy nông dân
tiếp cận với cái mới, khoa học, giúp họ thay đổi theo hướng chuyên nghiệp, văn minh trong sản
xuất, kinh doanh và tổ chức đời sống.
Ổn định và từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân và cư dân
nông thôn, khắc phục tình trạng “ly hương”, giảm sức ép về lao động mùa vụ ở các khu đô thị
lớn cũng như các vấn đề xã hội khác ở nông thôn và thành thị, xây dựng nhà nông chuyên
nghiệp với các mô hình hợp tác, liên kết phong phú, đa dạng. Điều này vừa góp phần phát triển
nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới; vừa góp phần hạn chế những vấn đề xã hội
có thể nảy sinh do sức ép về dân cư và các sinh hoạt khác.
Đối với đội ngũ trí thức, cần tạo điều kiện, môi trường dân chủ hơn nữa cho lao động

sáng tạo của trí thức. Tạo điều kiện tối đa cho sự khai mở sáng tạo về tri thức, học thuật, văn
hóa lắng nghe; cũng như tôn trọng sự khác biệt trong đối thoại, phản biện của trí thức. Đầu tư
cơ sở vật chất, kỹ thuật phù hợp với nhu cầu nghiên cứu, khảo nghiệm, thực nghiệm, trao đổi
học thuật và phát triển tri thức, để thực sự “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội
của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”(16).
Ba là, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh có thể ảnh hưởng tới khối liên minh.
- 11 -

11


Liên minh giai cấp bền vững phải dựa trên việc tôn trọng nhu cầu, lợi ích của chính bản
thân các chủ thể tham gia liên minh. Vì vậy, vấn đề cơ bản và xuyên suốt, vừa là nội dung, vừa
là nguyên tắc mang tính quy luật trong việc xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức là
phải xác định đúng các nhu cầu, phát hiện kịp thời các nhu cầu mới nảy sinh của công nhân,
nông dân, trí thức trong từng giai đoạn cụ thể; trên cơ sở những tiềm năng và thực trạng kinh tế
- xã hội từ đó có giải pháp để thỏa mãn các nhu cầu; xử lý đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn
nảy sinh giữa các giai cấp. Làm tốt điều này, sẽ củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho việc xây
dựng và phát triển xã hội, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

- 12 -

12



×