Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Chuyên đè xây dựng đảng PHẦN III 1 lý luận chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.12 KB, 22 trang )

PHẦN III.1
Bài 1:
Câu 1 – Tổ 1: Từ những yếu kém trong hệ thống chính trị, hãy chỉ ra những yếu kém trong HTCT nơi đồng
chí đang công tác? (Tự làm)
Câu 2- Tổ 1: Cần vận dụng nội dung, phương hướng hoàn thiện HTCT trong xây dựng , củng cố HTCT cơ
sở nơi đồng chí công tác như thế nào?
Theo quan điểm của Đại hội XII, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là xây dựng ba thành tố trụ
cột là Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội.
1. Những quan điểm cơ bản của Đại hội XII về xây dựng hệ thống chính trị
- Với tư cách là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh.
Đại hội XII xác định sáu nhiệm vụ trong nhiệm kỳ (2016-2020), trong đó nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên là “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”(2).
Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm đó, Đại hộiđề ra yêu cầu trước hết phải chú trọng xây dựng Đảng về chính trị,
bảo đảm sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp
với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng; tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Tập trung thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Đại hội XII đề ra chủ trương đổi mới bộ máy của Đảng theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với
trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát
quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ
chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu về phẩm chất và tài năng, cần có thiết chế và cơ chế thích hợp để
thực hiện hiệu quả công tác cán bộ, trực tiếp là công tác nhân sự. Đại hội XII chủ trương đổi mới bầu cử trong
Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng,
phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn
những hiện tượng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đoàn kết trong Đảng.


Với tư cách là một Đảng “đạo đức và văn minh”, để thuyết phục quần chúng nhân dân ủng hộ, hưởng ứng thực
hiện Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng, Đại hội XII chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác
dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối
với Đảng; đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có
trách nhiệm với dân. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm
trước nhân dân về những quyết định của mình. Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.
Xuất phát từ nhận thức tham nhũng, lãng phí là một trong những nguyên nhân căn bản làm giảm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước, Đại hội XII đề ra quyết
tâm:Kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi ích
nhóm”; chống đặc quyền, đặc lợi.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội, Đại hội XII đề ra yêu cầu Đổi mới phương
thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng. Trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm
-1-


quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy
cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”(3[1]).
Đảng cầm quyền là Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn bộ hệ thống chính trị, vì vậy phải đổi mới phương
thức lãnh đạo, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo trong hệ thống tổ chức của Đảng; đổi mới phương
pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan Đảng từ Trung ương tới cơ sở; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước
bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành
chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất
lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước
Đại hội XII nêu các phương hướng, nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà

nước. Trong đó, Đảng ta xác định: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị([1]4).
Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải
tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả
lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế.
Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà
nước pháp quyền XHCN.
Lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật theo các nguyên tắc được quy
định trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ
để nhân dân kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước.
Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà
nước là thống nhất.
Về vấn đề tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Quan điểm của Đảng là:
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, nhất
là hoạt động lập pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám
sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Đại hội XII đề ra yêu cầu chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, thông qua các biện pháp,
như: Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp
trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ, năng lực chuyên môn
phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và
ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế
kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ

quan hành chính.
Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và đội
ngũ cán bộ, công chức.
- Củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Hệ thống chính trị nước ta là một hình thức tổ chức thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân, là phương thức
quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ quan trọng
-2-


đó, ngoài việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước, cần phải tập trung xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Đại hội XII đề ra các phương hướng và nhiệm vụ:
Tiếp tục tăng cường củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân.
Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc trong tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động ngoại giao nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội; thực hiện tốt Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền.
2. Một số giải pháp xây dựng hệ thống chính trị theo quan điểm Đại hội XII của Đảng
Để thực hiện tốt quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, ngoài những
phương hướng và biện pháp chung được nêu trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XII, xuất phát từ thực tiễn, tác
giả đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Đảng trong hệ thống chính trị cần phải thể hiện đúng
quan điểm “ý Đảng, lòng dân”, nghĩa là phải tạo cơ chế để nhân dân được trực tiếp tham gia quy trình bầu,
chọn cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ cao cấp đứng đầu Nhà nước, Chính phủ và các tổ chức chính trị - xã hội.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc, “Muôn việc thành công hoặc thất bại,

đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Đảng với tư cách lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước và xã hội, là hạt
nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, nên chất lượng công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Đảng quyết
định chất lượng, hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta.
Để bầu, chọn cán bộ của hệ thống chính trị theo tiêu chuẩn “vì công tác, vì tài năng” mà lựa chọn, cắt cử cán bộ,
chứ không phải “vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang”, công tác nhân sự của Đảng cần phải có sự tham gia
của nhân dân. Cụ thể là: Đảng chỉ quyết định bổ nhiệm cán bộ, bố trí cán bộ trên cơ sở lá phiếu tín nhiệm của
nhân dân. Nếu công tác bổ nhiệm cán bộ, bố trí cán bộ khép kín trong tổ chức Đảng, nội bộ Đảng sẽ dễ bị nạn
“bè phái”, “nhóm lợi ích”, “thân thích” chi phối, rất khó tìm được người xứng đáng. Trên cơ sở quan điểm Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Đại hội XII, nếu Đảng biết dựa vào nhân
dân, Đảng sẽ“hiểu, đánh giá đúng cán bộ”. Bởi vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Dân chúng rất đông”, “Tai mắt
họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy” - Nhân dân là người nhìn thấu được phẩm chất, tài năng cũng như
những thói hư, tật xấu của những người lãnh đạo, quản lý họ. Nhân dân tham gia bầu, chọn cán bộ của hệ thống
chính trị thì sẽ hạn chế được nạn “bè phái”, “nhóm lợi ích”, “thân thích” và sẽ dễ dàng phát hiện được tham
nhũng, thoái hóa, biến chất, sẽ xây dựng được đội ngũ cán bộ tốt. Do đó, muốn xây dựng hệ thống chính trị
vững mạnh, hệ thống chính trị của dân, do dân, vì dân, thì phải tạo cơ chế để nhân dân được trực tiếp tham gia
quy trình bầu, chọn cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ cao cấp giữ vị trí đứng đầu.
Hai là,Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phải dựa vào dân để chống quan liêu, tham nhũng một cách
hiệu quả.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu Đảng thiếu sự gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng sẽ mất sáng
suốt, trở thành quan liêu, độc đoán chuyên quyền. Đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng phát
sinh, phát triển. Vì vậy, để chống quan liêu, tham nhũng một cách hiệu quả, Đảng phải gắn bó mật thiết với
nhân dân, phải dựa vào nhân dân. Mặt khác, nhân dân là nạn nhân trực tiếp của quan liêu, tham nhũng, do đó
nhân dân là lực lượng sáng suốt nhất, mạnh mẽ nhất, kiên quyết nhất trong cuộc chiến chống quan liêu, tham
nhũng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để phát huy được vai trò của nhân dân chống quan liêu, tham nhũng, Đảng, Nhà nước cần xây dựng cơ chế,
môi trường thuận lợi để nhân dân tham gia. Đó là cơ chế công khai, minh bạch các hoạt động của Đảng, Nhà
nước trên các lĩnh vực tổ chức, nhân sự, kinh tế, tài chính...; là cơ chế để những phản ánh của người dân được
-3-



tiếp nhận thuận lợi, và giải quyết kịp thời; là cơ chế để báo chí, truyền thông tham gia chống quan liêu, tham
nhũng; là cơ chế bảo vệ người dân chống quan liêu, tham nhũng...
Ba là, củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc phải bảo đảm Mặt trận
Tổ quốc là một liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, phải bảo đảm tính độc lập tương đối của Mặt trận Tổ
quốc trong quan hệ với các thành tố khác của hệ thống chính trị.
Do đặc thù quá trình hình thành quyền lực chính trị của Đảng gắn liền với quá trình giành độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay đều do Đảng xây
dựng và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một sự thuận lợi rất lớn cho thực hiện các nhiệm vụ chính trị
của Đảng. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có vấn đề đặt ra là các tổ chức này dễ trở thành “cánh tay nối dài của
Đảng” - trở thành cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, hành chính hóa chức năng, nhiệm vụ cơ bản trong quá trình
hoạt động, xa rời tính tự nguyện, dân chủ, hiệp thương, phối hợp hành động, cùng có lợi trong một mục tiêu
chung của các tổ chức chính trị - xã hội đúng nghĩa. Đây là một nguyên nhân lớn làm giảm sức mạnh và hiệu
quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc.
Để Mặt trận Tổ quốc hoàn thành tốt nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, tạo đồng thuận xã hội, phát huy
vai trò giám sát và phản biện xây dựng Đảng, Nhà nước, một mặt cần phải xây dựng những thiết chế, cơ chế cụ
thể để nhân dân trực tiếp bày tỏ ý kiến và nguyện vọng trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của bản thân, trong việc tham gia xây dựng, quản lý Nhà nước và xã hội. Mặt khác, trong quá trình củng cố tổ
chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc phải bảo đảm Mặt trận Tổ quốc là một
liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Mặt trận; bảo đảm tính độc lập tương đối của Mặt trận trong quan hệ với các thành tố khác của hệ thống
chính trị.
Thực hiện tốt các quan điểm của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị cùng các giải pháp cụ thể nêu trên, sẽ
thiết thực góp phần hoàn thành mục tiêu tổng quát trong 5 năm tới, được xác định trong Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng
nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới” (5).

Câu 3 - Tổ 1 : Nguyên tắc hoạt động của HTCT XHCN? Liên hệ?
Trả lời:
Theo quy định của Hiến pháp, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Vì vậy, Nhà nước ta tổ chức và hoạt động
trên nền tảng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân, bao gồm:
- Nguyên tắc chủ quyền Nhân dân: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ,
tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này phải bảo đảm cho Nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ chức
lập ra bộ máy nhà nước, tham gia đông đảo vào việc quản lý các công việc của Nhà nước và quyết định
những vấn đề trọng đại của đất nước; phải có cơ chế bảo đảm cho Nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác được trao cho
những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của Nhà nước.
- Nguyên tắc Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân
theo Hiến pháp và pháp luật: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng.
-4-


- Nguyên tắc Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng
Hiến pháp và pháp luật: Theo đó, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ quy định của Hiến
pháp và pháp luật; được làm tất cả những việc mà Hiến pháp và pháp luật cho phép làm; hoạt động trong
khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật; công cụ quản lý xã hội của Nhà nước chủ yếu bằng Hiến
pháp và pháp luật.
- Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước: Theo nguyên tắc
này, trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng

vạch ra đường lối chính trị, những chủ trương và phương hướng lớn, quyết định những vấn đề quan trọng về
tổ chức bộ máy, chỉ đạo quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để thông qua Nhà nước thể chế
hóa các chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật để áp dụng chung, thống nhất trên quy mô toàn xã
hội, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn các cơ
quan nhà nước hoạt động theo đúng đường lối của Đảng và đào tạo cán bộ tăng cường cho bộ máy nhà nước.
Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo tập trung,
thống nhất của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và các cơ quan nhà nước cấp trên với việc mở rộng dân
chủ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước ở địa phương và các cơ quan nhà nước cấp
dưới. Nguyên tắc này còn là cơ sở để phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, của tập thể
và đề cao trách nhiệm, ý thức kỷ luật của cán bộ, công chức nhà nước.
- Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc: Theo đó, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng (về
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục), đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm
mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc,
phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát
triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.
- Nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất , có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp: Nguyên tắc này thể hiện bản chất thống nhất của
quyền lực Nhà nước là thuộc về Nhân dân nhưng có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (chỉ ra cấu trúc của quyền lực Nhà nước
bao gồm các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp).
Phần liên hệ: Các đ/c tự liên hệ theo chức năng của cơ quan mình.

Bài 2:
Câu 1 – Tổ 2: Đồng chí hiểu như thế nào là nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam?
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là
một quan điểm chỉ đạo thống nhất và xuyên suốt Đảng ta, Đến Đại hội XI, Đảng ta nhận định: Xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN tại Việt Nam là một tất yếu khách quan . Điều này cũng đã được Hiến pháp năm 1992 (bổ sung) nhận tại
Điều 2 : “Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.”. Bằng lý luận về nhà nước pháp luật, chúng ta cùng phân tích làm rõ thế nào là nhà nước pháp quyền VN xã hội

chủ nghĩa? Đồng thời thời xem xét thực tiễn để tìm hướng đi đúng nhằm xây dựng hoàn thiện NN VN XHCN.
Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa ViệtNam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
XHCN là một xã hội dược tổ chức trên cơ sở luật pháp. Luật pháp là cái thể hiện, là cái đảm bảo cho quyền làm
chủ của nhân dân lao động và là công cụ để quản lý xã hội. Nói Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền có nghĩa là nhà
nước hoạt động dựa trên cơ sở của pháp luật, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước chỉ được thực hiện thông qua pháp luật
và cũng bị hạn chế bởi chính pháp luật Nói cách khác, nguyên tắc của nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước và
công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật. Tính pháp quyền XHCN của nhà nước ta được thể hiện ở các
đặc trưng như sau :
- Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước trong đó quyền dân chủ, quyền tự do và lợi ích chính đáng của con
người, của công dân được nhà nước bảo đảm và bảo vệ.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp để điều chỉnh các lĩnh vực đời
sống kinh tế xã hội và pháp luật giữ vai trò tối cao. Nhà nước pháp quyền quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật,
dùng pháp luật làm công cụ điều tiết chủ yếu mối quan hệ giữa con người với con người, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là
quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ tiện lạm dụng từ phía cơ quan nhà nước,
cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là nhà
nước mà mọi tổ chức, kể cả tổ chức Đảng đều hoạt động dựa cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước
-5-


công dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều phải có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật. Tất cả mọi
người không loại trừ ai (kể cả những người ban hành pháp luật) cũng phải chịu sự chi phối của pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó xác định rõ trách nhiệm của cả hai bên: nhà nước và công dân
trên cơ sở pháp luật, quyền của nhà nước là nghĩa vụ của công dân, quyền của công dân là nghĩa vụ của nhà nước
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó quyền lực nhà nước được thực hiện theo cơ chế quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phù hợp giữa các cơ quan nhà nước trong vịêc thực hiện các quyền : hành pháp, lập
pháp và tư pháp.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước có những hình thức giám sát, kiểm tra, thanh tra, xét xử có hiệu quả việc thực
hiện pháp luật và có một hệ thống tài phán hoàn chỉnh (của cả cơ quan tư pháp và cơ quan hành chính).
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước CHXHCN Việt Namcòn là nhà nước

thống nhất của các dân tộc, dân chủ thực sự, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân.
Câu 2- Tổ 2: Theo đ/c cần vận dụng phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền trong xây dựng , củng cố
chính quyền địa phương cùng cấp như thế nào?
Từ thực tiễn trên, để cho NNPQ ở VN trở thành hiện thực, cần thực hiện các p/hướng XD NNPQ cơ bản sau:
Một là, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân: mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm
chủ của ND trong XD và quản lý NN. Đây là p/hướng vừa cơ bản, vừa cấp bách hàng đầu là nhằm giữ vững và phát
huy bản chất tốt đẹp của NN ta, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan liêu
sách nhiễu ND trong bộ máy NN. Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta. Mở rộng dân chủ phải đi đôi với
tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quyền lợi đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Hai là,Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
+cần tập trung xây dựng p/luật trong lĩnh vực kinh tế như hoàn thiện p/luật d/nghiệp,Luật đầu tư nước ngoài tại
VN, pháp luật về sở hữu…
+ Tập trung xây dựng p/luật trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, KH-CN
+Tập trung xây dựng p/luật trong lĩnh vực XH: trước hêt coi trọng hoàn thiện p/luật về chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe cho nhân dân, hoàn thiện về p.luật dân tộc và tôn giáo, hoàn thiện p.luật về báo chí và xuất bản, quan tâm việc xây
dựng và ban hành các văn bản quy phạm PL đảm bảo th/hiện các ch/sách công bằng XH về xóa đói, giảm nghèo về bảo
vệ người tiêu dung…
+ tập trung xây dựng p/luật trong lĩnh vực ANQP và trật tự an toàn XH: xây dựng hoàn thiện PL VỀ BẢO VỆ
biên giới, PL trong việc đ/tranh phòng chống tội phạm và vi phạm PL…
Ba là, Tiếp tục đổi mới, tổ chức, hoạt động của Quốc Hội:
Xây dựng Quốc hội đảm bảo thực hiện được vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và luật quy
định; bảo đảm hiệu lực, hiệu quả tính chuyên nghiệp, hiện đại, tính minh bạch, công khai trong tổ chức, hoạt động cảu
QH.Để thực hiện tốt nọi dung nêu trên cân thực hiện nhưng giải pháp sau đây:
+ Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện các chức năng của QH như lập pháp; đối nội và đối
ngoại; giám sát.
+Phát huy vai trò, trách nhiệm, năng lực, bản lĩnh và nghiệp vụ h/động đại biểu của đại biểu QH.
+ Tăng cường mqh giữa QH với nhân dân: QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân, có cơ chế phản ánh kịp
thời tâm tư nguyện vọng và ý chí của nhân dân với QH.
+ Tăng cường các đk về đội ngũ cán bộ tham mưu, giúp việc, bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, trụ sở làm việc
của QH, thong tin hiện đại,

Bốn là, đẩy mạnh cải cách nền hành chính NN. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của việc XD và hoàn thiện NN
trong những năm trước mắt, trong đó có yêu cầu là XD nếp sống và làm việc theo PL trong XH. Cải cách hành chính
phải được tiến hành trên cơ sở PL và tiến hành đồng bộ nhưng có bước đi thích hợp trên cả ba mặt: cải cách thể chế
hành chính; tổ chức bộ máy và XD, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức hành chính; cải cách tài chính công.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp. Các cơ quan tư pháp là các cơ quan giữ gìn
và bảo vệ PL mà trọng tâm là đối với tòa án ND các cấp. Vì thế toàn bộ hoạt động của nó là biểu hiệnđiển hình của việc
tuân thủ và thực hiện PL. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống PL; đổi mới tổ chức h/động của các cơ quan tư
pháp; Chấn chỉnh các tổ chức và các h/động bổ trợ tư pháp; đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ Cb tư pháp đáp ứng
về số lượng và chất lượng theo yêu cầu mới…
Sáu là,Xây dựng đội ngũ CB, công chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ
XHCN của dân , do dân, vì dân:
+Xây dựng và thực hiện tốt chiến lượt cán bộ
+Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng CB,CC nhằm nâng cao chất lượng về chuyên môn, nâng cao nhận thức
về trình độ lý luận chính trị Mác- Lê Nin.
+Đổi mới cơ chế đánh giá , tuyển dụng Cb, CC đảm bảo tính công khai, dân chủ
+Dổi mới chế độ chính sách tiền lương cho phù hợp với CB,CC.
-6-


+Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra , giám sát CB, CC
Bảy là, Đẩy mạnh hoạt động đấu tranh chống quan lieu và những biểu hiện tiêu cực khác trong bộ máy NN:
+Đánh gia đúng thực trạng tình hình về kết quả đấu tranh với các căn bệnh nêu trên
+ Những trường hợp vi phạm phải được xử lý nghiêm minh và phải được chuẩn mực đạo đức điều chỉnh.
+nhẬn thỨc đúng tẦm quan trỌng cỦa cuỘc đẤu tranh chỐng quan liêu, tham nhũng và nhỮng biỂu hiỆn
tiêu cỰc khác
+Cần phải xác định đúng quan điểm và thái độ trong đấu tranh
+Triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện để đ/tranh chống quan lieu, tham nhũng.
Tám là,Đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với NN trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN của
dân, do dân và vì dân:
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng NNPQ của dân, do dân và vì dân phải bao quát toàn bộ tổ

chức, hoạt động của NN và được thể hiện trên những nội dung sau:
Một là, Đường lối, chính sách của Đảng là định hướng chính trị và nội dung hoạt động của nhà nước
Hai là, Đảng xác định những quan điểm, phương hướng ,ndung cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện tổ chức
h/động của NN đáp ứng y/cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn
Ba là, Đảng lãnh đạo h/động bầu cử QH, HDND các cấp đảm bảo thật sự phát huy qyền làm chủ của nhân dân
trong việc lựa chọn các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan này.
Bốn là, Đảng lanh đạo công tác Ktra, thanh tra,gsat h/động của các cơ quan NN, CB,CC NN trong việc th/hiện
đường lối,ch/sách của Đảng và PL của NN.
Năm là,Đảng lãnh đạo h/động xây dựng PL và tổ chức th/hiện PL, tăng cường pháp chế trong đời sống XH và
h/động của NN, CB,CC NN
Sáu là, Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, CC đáp ứng y/cầu của sự nghiệp đổi mới và yêu cầu xây dựng
NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân
Tóm lại, trong công cuộc đổi mới của đất nước, XD NNPQ của dân, do dân, vì dân là yêu cầu khách quan của
sự nghiệp XD CNXH, và việc tiếp tục XD và hoàn thiện NNPQ là đòi hỏi khách quan và phù hợp với xu hướng chung
của thời đại. Vì vậy, trong đ/lối l/đạo của mình, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc đề ra đ/lối XD và hoàn thiện BMNNyếu tố trung tâm của HTCT. Để thực hiện mục tiêu đó, phải tăng cường hiệu lực của BMNN, mở rộng dân chủ XHCN,
phát huy quyền làm chủ của ndân trong XD và quản lý NN, đồng thời tăng cường sự l/đạo của Đảng trên mọi lĩnh
vực….
Với cương vị là một đảng viên, qua đây tôi nhận thức rằng, để góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
nam XHCN, thì cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ chính trị,
tích cực tuyên truyenf, vận động người thân, gia đình và nhân dân nâng cao nhận thức về nhà nước pháp quyền việt
Nam, chấp hành tốt các chủ trương chính sách pháp luật của nhà nước; các nội duy, qui định tại địa phương; tích cực
tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; phê phán với những biểu hiện tieu cực ở địa phương… góp
phần xây dựng hoàn thiện nhà nước PQ VN XHCN.
(Liên hệ :Với 08 nội dung, vận dụng cụ thể vào từng cấp, trong đó cấp nào cũng phải nói về: Phát huy dân
chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng, ban hành văn bản QPPL, văn bản quản lý nhà nước khác và tổ
chức thực hiện pháp luật; cải cách hành chính; Xây dựng đội ngũ cán bộ; Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng và những hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước; Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức
Đảng, cấp ủy đối với chính quyền (HDDND và UBND).
Cấp huyện bàn thêm về cải cách tư pháp;)


Bài 3
Câu 1 – Tổ 2: Những quy định có tính chất mới về tổ chức HĐND và UBND
Luật Tổ chức chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở sửa đổi toàn diện Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 cho phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013.
Ngày 19/6/2015 Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII với tỷ lệ phiếu tán thành là 85,22% đã thông
qua Luật tổ chức chính quyền địa phương (luật 2015). Luật này đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp
năm 2013 và các chủ trương, định hướng của Đảng về chính quyền địa phương; đồng thời kế thừa những nội
dung hợp lý và sửa đổi, bổ sung các bất cập, vướng mắc trong 12 năm thực hiện Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 (gọi là Luật 2003). Luật gồm 8 chương và 143 điều, tăng 2 chương và 3
điều so với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003.
Dưới đây là 10 điểm mới nổi bật của Luật Tổ chức chính quyền địa phương:
Thứ nhất, về đơn vị hành chính: Luật Tổ chức chính quyền địa phương xác định các đơn vị hành
chính gồm có tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố
-7-


thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; xã, phường, thị trấn và đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt. Như vậy,
so với Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã bổ sung thêm đơn
vị hành chính: thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Đây
là quy định nhằm cụ thể hóa Điều 110 Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, về tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính: Điều 4 Luật Tổ chức chính
quyền địa phương quy định cấp chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính gồm có
HĐND và UBND. Chính quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã.
Chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa phương ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn.
Như vậy, sau một thời gian dài thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị
quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã quy định cấp chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn
vị hành chính đều phải có HĐND và UBND. Ngoài ra, một trong những điểm mới nổi bật của Luật Tổ chức
chính quyền địa phương so với Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đó là có sự phân biệt giữa chính

quyền địa phương ở nông thôn và ở đô thị, phù hợp với đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư, kết cấu hạ tầng và
yêu cầu quản lý ở mỗi địa bàn.
Thứ ba, về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương:
- Đối với HĐND: Luật quy định rõ hơn về cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân tạo cơ sở pháp lý để
củng cố, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND các cấp. Về cơ cấu tổ chức
của HĐND, Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định HĐND thành phố trực thuộc trung ương được
thành lập thêm Ban đô thị vì đây là những đô thị tập trung, có quy mô lớn, mức độ đô thị hóa cao và có nhiều
điểm đặc thù khác với các địa bàn đô thị thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Về số lượng đại biểu HĐND thành phố
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh từ 95 đại biểu lên 105 đại biểu để phù hợp với quy mô dân số, đặc điểm,
tính chất của các đô thị lớn này (Điều 39). Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh, cấp huyện (số lượng là 2) và Phó
Chủ tịch HĐND cấp xã (số lượng là 1) hoạt động chuyên trách; Trưởng các Ban của HĐND cấp tỉnh, huyện
có thể hoạt động chuyên trách; Phó Trưởng Ban HĐND cấp tỉnh, cấp huyện hoạt động chuyên trách; Trưởng,
Phó Ban của HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm.
- Đối với UBND: Về cơ cấu tổ chức của UBND, nếu như trước đây, theo quy định của Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003, không phải người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn của UBND nào cũng
là ủy viên của UBND thì đến Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã mở rộng cơ cấu tổ chức UBND theo
đó tất cả người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn của UBND đều là ủy viên của UBND. Đây là quy định
nhằm phát huy trí tuệ tập thể của các thành viên UBND, tăng cường hiệu lực giám sát của HĐND đối với
UBND cùng cấp thông qua cơ chế lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND bầu.
Về số lượng Phó Chủ tịch UBND các cấp được quy định theo phân loại đơn vị hành chính, theo đó đối với
đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) có không quá 05 Phó Chủ tịch,
loại I có không quá 04 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có không quá 03 Phó Chủ tịch. Đối với đơn vị hành
chính cấp huyện loại I có không quá 03 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có không quá 02 Phó Chủ tịch.
- Đối với đơn vị hành chính cấp xã loại I có không quá 02 Phó Chủ tịch, loại II và loại III có 01 Phó
Chủ tịch. Ngoài ra, Luật còn bổ sung Điều 124 quy định về việc điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch
UBND cho phù hợp với quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Chính phủ.
Thứ tư, về việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính: Luật Tổ chức
chính quyền địa phương quy định khi có trên 50% tổng số cử tri trên địa bàn đồng ý với đề án thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính thì cơ quan xây dựng đề án mới được hoàn thiện đề án,

trình HĐND các cấp thông qua chủ trương. Luật còn bổ sung quy định về thẩm quyền đặt tên, đổi tên đơn vị
hành chính và giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính giữa các đơn vị hành chính.
Theo đó, Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính cấp tỉnh;
đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính cấp tỉnh; giải quyết tranh chấp liên quan đến địa giới đơn vị hành chính cấp
tỉnh. Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính cấp huyện, cấp xã; đặt tên, đổi tên đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; giải quyết tranh chấp liên quan
đến địa giới đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã.
-8-


Thứ năm, Về tiêu chí, tiêu chuẩn thành lập Ban dân tộc của Hội đồng nhân dân là vấn đề rất cụ thể,
liên quan đến việc bảo đảm thực hiện chính sách dân tộc chung của cả nước cũng như ở từng địa phương nơi
có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, cần phải được tiếp tục xem xét, cân nhắc kỹ thêm. Do đó, để có thời
gian nghiên cứu kỹ lưỡng, luật quy định Quốc hội giao Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể tiêu chí,
tiêu chuẩn thành lập Ban dân tộc của Hội đồng nhân dân.
Thứ sáu, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện có thể hoạt động chuyên trách, Phó
Trưởng Ban Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện hoạt động chuyên trách. Trưởng, Phó Ban của Hội đông
nhân dân cấp xã hoạt động kiêm nhiệm. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện (số lượng là 2)
và Phó Chủ tịch Hội động nhân dân cấp xã (số lượng là 1) hoạt động chuyên trách.
Về các Ban của Hội đồng nhân dân cấp xã, đây là quy định mới, gồm Ban pháp chế và Ban kinh tế xã hội, Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các thành viên khác của Ban của Hội đồng nhân dân hoạt động kiêm
nhiệm; Trưởng ban không nằm trong Thường trực Hội đồng nhân dân nên không dẫn đến tăng biên chế và bộ
máy ở cấp xã. Luật quy định Thường trực Hội đồng nhân dân phê chuẩn Ủy viên của các Ban của Hội đồng
nhân dân theo đề nghị của Trưởng ban; Hội đồng nhân dân chỉ tiến hành bầu Trưởng ban, Phó Trưởng
ban.Ban đô thị của Hội đồng nhân dân chỉ tổ chức ở thành phố trực thuộc trung ương vì đây là những đô thị
tập trung, có quy mô lớn, mức độ đô thị hóa cao và có nhiều điểm đặc thù khác với các địa bàn đô thị đơn lẻ
khác là thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Thứ bảy, Cơ cấu Thường trực HĐND tỉnh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng các Ban và Chánh
Văn phòng Hội đồng nhân dân; Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện gồm Chủ tịch, hai Phó Chủ tịch
và Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân.
Luật cũng quy định rõ cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương ở nông thôn và đô thị và hải đảo, vùng kinh tế

xã hội đặc biệt.
Thứ tám, về cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân: Một điểm mới đáng chú ý khác là luật đã bổ sung
những điểm mới nhằm quy định chi tiết hơn về số lượng, cơ cấu thành viên UBND, nguyên tắc hoạt động của
UBND; phiên họp UBND; phạm vi, trách nhiệm giải quyết công việc của các thành viên UBND. Theo đó, cơ
cấu tổ chức và hoạt động của UBND có những nội dung mới. Trong đó, nổi bật là việc quy định số lượng Phó
Chủ tịch UBND các cấp theo phân loại đơn vị hành chính. Cụ thể, đối với cấp tỉnh, thành phố Hà Nội và TP
Hồ Chí Minh có không quá 5 Phó Chủ tịch UBND; các thành phố trực thuộc Trung ương còn lại và các tỉnh
loại I có không quá 4 Phó Chủ tịch UBND; tỉnh loại II và loại III có không quá 3 Phó Chủ tịch UBND. Đối
với cấp huyện, loại I có không quá 3 Phó Chủ tịch UBND; loại II và loại III có không quá 2 Phó Chủ tịch
UBND.
Đối với cấp xã, loại I có không quá 2 Phó Chủ tịch UBND, loại II và loại III có 1 Phó Chủ tịch UBND. Theo
quy định của Luật, thì cơ cấu Ủy ban nhân dân bao gồm người đứng đầu của các cơ quan chuyên môn của Ủy
ban nhân dân nhằm phát huy trí tuệ tập thể của các thành viên Ủy ban ban nhân dân, tăng cường hiệu lực
giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân cùng cấp thông qua cơ chế lấy phiếu tín nhiệm, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu. Thành phần của Ủy ban nhân dân các
cấp gồm người đứng đầu các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân và quy định rõ 01 Ủy viên phụ trách
quân sự và 01 Ủy viên phụ trách công an để phụ trách về các lĩnh vực hoạt động quan trọng này ở địa
phương.
Thứ chín, Phân định thẩm quyền giữa trung ương, địa phương và giữa các cấp chính quyền.
Một trong những điểm mới của luật là phân định thẩm quyền giữa trung ương, địa phương và giữa các
cấp chính quyền nhằm cụ thể hóa Điều 112 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, để tạo cơ sở pháp lý cho việc phân
quyền, phân cấp, ủy quyền cho chính quyền địa phương, Luật năm 2015 đã quy định các nguyên tắc phân
định thẩm quyền, các trường hợp phân quyền, phân cấp, ủy quyền.
Cụ thể, có 6 nguyên tắc về phân định thẩm quyền gồm: Bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất về thể
chế, chính sách, chiến lược và quy hoạch đối với các ngành, lĩnh vực; bảo đảm tính thống nhất, thông suốt
của nền hành chính quốc gia. Phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương. Kết
hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân định rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa
chính quyền địa phương các cấp đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn lãnh thổ. Việc phân định
thẩm quyền phải phù hợp điều kiện, đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đặc thù của các ngành, lĩnh vực.
Công việc liên quan đến phạm vi từ hai đơn vị hành chính cùng cấp trở lên thì thuộc thẩm quyền giải quyết

-9-


của chính quyền cấp trên, trừ trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ có quy định khác. Nguyên tắc cuối cùng là chính quyền địa
phương được bảo đảm nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp.
Về phân quyền, Luật quy định việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy
định trong các luật; chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn được phân quyền. Về phân cấp, Luật quy định căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và
điều kiện, tình hình cụ thể khác của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền
phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường
xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác. Việc phân cấp phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước thực
hiện phân cấp.
Về ủy quyền, Luật quy định trong trường hợp cần thiết, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy
quyền bằng văn bản do UBND cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ,
quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể.
Thứ mười, Quy định nhiệm vụ, quyền hạn đặc trưng của chính quyền đô thị
Luật đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính theo
hướng chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh, giảm dần xuống cấp huyện đến cấp xã để tránh tình trạng dồn việc về cấp
cơ sở mà không tính đến khả năng đáp ứng của từng cấp chính quyền; nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền
địa phương ở địa bàn nông thôn tập trung thực hiện quản lý theo lãnh thổ; ở địa phương đô thị chú trọng thực
hiện quản lý theo ngành, lĩnh vực.
Luật quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương phải thực hiện như tổ chức và bảo
đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn; quyết định những vấn đề của địa phương trong phạm
vi được phân quyền, phân cấp; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy
quyền…
Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND trên các lĩnh vực nhằm thể hiện rõ sự gắn kết chặt
chẽ, thống nhất giữa hai thiết chế HĐND và UBND hợp thành chính quyền địa phương.
Đặc biệt, luật đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn đặc trưng của chính quyền đô thị nhằm thể hiện sự

khác biệt với chính quyền nông thôn. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở thành
phố, thị xã ngoài việc quyết định các vấn đề của địa phương như đối với địa bàn nông thôn, còn tập trung
quyết định các vấn đề quy hoạch phát triển đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, quản lý và tổ chức đời
sống dân cư đô thị…
Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương quận và phường đã được điều chỉnh cho
phù hợp vơi yêu cầu quản lý thống nhất, liên thông trong khu vực nội thành, nội thị tại các đô thị. Cụ thể, ngoài
việc thực hiện chức năng đại diện và giám sát theo quy định chung, tập trung thực hiện 2 nhóm nhiệm vụ liên
quan đến việc quyết định các vấn đề ở địa phương gồm: thông qua ngân sách quận, phường theo quy định của
Luật Ngân sách nhà nước và bầu nhân sự của HĐND, UBND cùng cấp.
Câu 2 – Tổ 3: Đánh giá (dự liệu) những quy định mới về tổ chức HĐND, ubnd tác động như thế nào
đến nâng cao năng lực hiệu quả của HĐND – UBND?
Trả lời:
Những điểm mới về cơ cấu tổ chức và hoạt động của HĐND, UBND quy định tại Luật tổ chức chính quyền
địa phương gồm:
a. Đối với HĐND, Luật quy định thay chức danh ủy viên thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện
bằng chức danh phó chủ tịch HĐND. Thực hiện quy định này, tại kỳ họp đầu tiên vừa qua, HĐND tỉnh khóa
XII đã bầu 2 phó chủ tịch HĐND tỉnh. HĐND các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh cũng đã bầu mỗi nơi 2
phó chủ tịch HĐND cấp mình. Vai trò của thường trực HĐND cũng được tăng cường với cơ cấu thường trực
HĐND tỉnh gồm chủ tịch, các phó chủ tịch, trưởng các ban và chánh văn phòng HĐND; thường trực HĐND
cấp huyện gồm chủ tịch, các phó chủ tịch và trưởng các ban của HĐND.
b. Đối với UBND, nổi bật là việc quy định số lượng phó chủ tịch UBND các cấp theo phân loại đơn
vị hành chính. Theo quy định này, Bình Định là tỉnh loại II, có không quá 3 phó chủ tịch UBND và tại kỳ họp
vừa qua, HĐND tỉnh khóa XII đã bầu 3 phó chủ tịch UBND tỉnh.
- 10 -


Một quy định mới nữa về cơ cấu tổ chức của UBND cấp tỉnh và huyện là, tất cả người đứng đầu của
các cơ quan chuyên môn của UBND đều là ủy viên UBND, ngoài ra còn có ủy viên phụ trách quân sự và ủy
viên phụ trách công an. Nhiệm kỳ 2016- 2021, số lượng ủy viên UBND tỉnh vừa được bầu là 21 người, gồm
19 ủy viên là người đứng đầu 19 cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, 1 ủy viên phụ trách quân sự và 1 ủy

viên phụ trách công an.
* Đánh giá về những tác động tích cực từ việc triển khai thực hiện Luật TCCQĐP đối với tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương tỉnh Bình Định?
- Luật TCCQĐP quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND trên các lĩnh vực, nhằm thể
hiện rõ sự gắn kết chặt chẽ, thống nhất giữa hai thiết chế HĐND và UBND hợp thành chính quyền địa
phương. Với những quy định rõ hơn về cơ cấu tổ chức của HĐND, tăng số lượng đại biểu chuyên trách,
HĐND các cấp sẽ được củng cố, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Tương tự, quy định mở rộng cơ cấu tổ chức của UBND cấp tỉnh và huyện là nhằm phát huy trí tuệ tập
thể của các thành viên UBND, tăng cường hiệu lực giám sát của HĐND đối với UBND cùng cấp thông qua
cơ chế lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.
Nói tóm lại, với việc quy định về đơn vị hành chính và tổ chức, hoạt động của chính quyền địa
phương ở các đơn vị hành chính, Luật TCCQĐP tạo cơ sở pháp lý để hoạch định chính sách phát triển KTXH; xây dựng tổ chức bộ máy, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức của chính quyền địa phương phù
hợp với từng loại đơn vị hành chính. Đồng thời, việc triển khai thực thi Luật TCCQĐP là nhằm đảm
bảo chính quyền địa phươngđược tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc: Tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; hiện đại, minh bạch, phục vụ
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.

Bài 5:
Câu 1 – Tổ 1: Tại sao nói luật Hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ thống PL VN?
Cách làm 1:
Trước hết, chính trong quy định của Hiến pháp đã khẳng định Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, vì những lý do
chủ yếu sau đây:
- Hiến pháp là văn bản duy nhất quy định về chủ quyền nhân dân, tổ chức quyền lực nhà nước; quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; là hình thức pháp lý thể hiện tập trung nhất hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc; ở từng giai đoạn phát triển, Hiến pháp còn là văn bản, là
phương tiện pháp lý thực hiện tư tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới hình thức
những quy phạm pháp luật.
- Về nội dung, đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội,
đó là những quan hệ xã hội cơ bản liên quan đến các lợi ích cơ bản của mọi giai cấp, mọi tầng lớp, mọi công

dân trong xã hội, như: chế độ chính trị; quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa,
giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường; quyền con người; tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Về mặt pháp lý, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất, phản ánh sâu sắc nhất quyền của Nhân dân
và mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân; Hiến pháp là nguồn, là căn cứ để ban hành luật, pháp lệnh, nghị
quyết và các văn bản khác thuộc hệ thống pháp luật: Tất cả các văn bản khác không được trái với Hiến pháp
mà phải phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp, được ban hành trên cơ sở quy định của Hiến pháp
và để thi hành Hiến pháp. Các điều ước quốc tế mà Nhà nước tham gia không được mâu thuẫn, đối lập với
quy định của Hiến pháp; khi có mâu thuẫn, đối lập với Hiến pháp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không
được tham gia ký kết, không phê chuẩn hoặc bản lưu đối với từng điều. Ngoài ra, tất cả các cơ quan nhà nước
phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn,
làm tròn các nghĩa vụ mà Hiến pháp quy định. “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách
nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (1). Tất cả các công dân có nghĩa vụ tuân theo
Hiến pháp, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Hiến pháp; “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và
bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (2). Đặc biêt, việc xây
dựng, thông qua, ban hành, sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo trình tự đặc biệt được quy định trong Hiến pháp.
- 11 -


Cách làm 2: Luật Hiến pháp là một ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng
thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng và được quy định tại Điều
146 Hiến pháp năm 1992: “Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi
văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến Pháp.”
Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất của nhà nước, do quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban
hành, xác định những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của nhà nước và xã hội, thể hiện tập trong ý chí của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, đo Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, Hiến Pháp vừa là bản tổng kết
thành quả của cách mạng, vừa đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn kế tiếp.
Không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều khẳng định vị trí “cơ bản nhất” của

Hiến pháp, là cơ sở cho tất cả các ngành luật khác và là văn bản khẳng định chủ quyền, độc lập của một dân tộc
với tất cả các quốc gia trên thế giới.
Tại sao hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam?
Trước hết, hiến pháp do Quốc hội ban hành với những trình tự, thủ tục xây dựng, sửa đổi và thông qua
đặc biệt so với các văn bản pháp luật khác. Điều 147 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Chỉ quốc hội mới có
quyền sửa đổi hiến pháp. Việc sửa đỏi hiến pháp phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu quốc hội
biểu quyết tán thành”. Chúng ta có thể hiểu rằng, chủ trương xây dựng, sửa đổi Hiến Pháp thường được biểu
thị bằng một nghị quyết của quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Việc xây dựng dự thảo Hiến Pháp
thường được tiến hành bởi một ủy ban (hoặc ban) dự thảo Hiên Pháp do quốc hội lập ra hàng chục người là
những nhân vật tiêu biểu, đại diện cho các tầng lớp nhân dân. Quá trình xây dựng dự thảo hiến pháp là quá trình
kết hợp hoạt động tích cực, liên tục của ủy ban dự thảo hiến pháp và sự tham gia đông đảo tự giác của nhiều
tầng lớp nhân dân. Việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân thường được tiến hành rộng rãi và có sự tham gia của
hàng chục triệu người, đơn cử cho luận điểm này là hiện nước ta dang tiến hành lấy ý kiên rộng rãi trong nhân
dân về chương trình dự thảo sửa đổi hiến pháp, và được đông đảo nhân dân trong cả nước tham gia, từ tất cả các
cấp các ngành, từ bà con vùng đồng bằng đến nhân dân vùng núi hải đảo, hay các cơ quan ban ngành đoàn thể..
và đã đạt được kết quả khả quan được dư luận đánh giá cao. Đặc biệt là riêng ở Hà Nội thì mỗi hộ gia đình được
cấp phát mỗi cuốn dự thảo sửa đổi Hiến Pháp. Đó là điểm tiến bộ thể hiện sự dân chủ của nhà nước ta hiện nay.
Hơn hết, việc thông qua hiến pháp thường được tiến hành tại một kỳ họp đặc biệt của Quốc Hội và phải được ít
nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc Hội biểu quyết tán thành (trong khi để thông qua các văn bản luật khác chỉ cần
trên ½ tổng số Đại biểu Quốc Hội biểu quyết tán thành). Sau khi được quốc hội chính thức thông qua, bản hiến
pháp có thể được đưa ra để trưng cầu ý kiến của nhân dân. Quá trình xây dựng, sửa đổi hiến pháp được sự quan
tâm và lãnh đạo của Đảng. thông thường, bộ chính trị ban chấp hành trung ương Đảng chỉ đạo trực tiếp việc xây
dựng, sửa đổi Hiến Pháp, cử cán bộ tha gia ủy ban dự thảo hiến pháp và cho ý kiến về bản dự thảo hiến pháp
trước khi trình quốc hội thông qua.
Thứ hai, Hiến Pháp là văn bản duy nhất quy định về việc tổ chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp
lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo. Ở từng giai đoạn phát triển, hiến pháp là văn
bản, là phương tiện pháp lý thể hiện tư tưởng của đảng dưới hình thức những quy phạm pháp luật. Chẳng hạn,
hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý cụ thể hóa những tư tưởng quan điểm của đại hội IV Đảng cộng sản việt nam
năm 1976; hiến pháp 1992 cụ thể hóa những quan điểm của các đại hội VI (1986), đại hội VII (1991), đại hội
XI (2001) của Đảng ta.

Thứ ba, hiến pháp có phạm vi điều chỉnh rất rộng, có tính chất bao quát tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Đó là những quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng nhất găn liền với việc xác định chế độ chính trị, chế độ
văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, chính sách quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, cơ cấu tổ chức, ác nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước… từ đó làm cơ sản nền tảng cho
việc ban hành các văn bản pháp luật khác.
Thức tư, hiến pháp không chỉ là bản tổng kết thành quả cách mạng mà còn đề ra phương hướng, nhiệm
vụ cho cách mạng trong giai đoạn tiếp theo. Điều đó thể hiện tính cương lĩnh của hiến pháp so với các văn bản
pháp luật khác. Hiến pháp hiện hành của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam tổng kết những thành
quả cách mạng mà đảng và nhân dân ta đã giành được trong công cuộc đổi mới, đồng thời vạch ra phương
- 12 -


hướng nhiệm vụ cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là “xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước
và bảo vệ vững chắc tổ quốc việt nam XHCN trong tình hình mới”.
Với vai trò, ỹ nghĩa to lớn như vậy chúng ta cần phải Bảo vệ hiến pháp, bảo vệ hiến pháp cũng chính là
bảo vệ nền văn hiến ngàn năm của nước ta, bảo vệ nền độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ quyền làm chủ vận mệnh đất nước của đồng bảo ta. Ngược lại nếu chúng ta không bảo vệ nó,
không hoàn thiện nó theo định hướng chung của dân tộc đất nước mà nghe theo bọn phản động xuyên tạc phá
hoại thì cũng chính đang tự hủy hoại đất nước mình, đang tự biến mình trở thành “con rối” của “thế lực hắc ám”
từ bên ngoài.
Hiện nay, nước ta đang tiến hành lấy ý kiến sửa đổi Hiến Pháp 1992. Bản Hiến pháp mới được sửa đổi
sẽ hứa hẹn nhiều điểm mới, phù hợp với tình hình của đất nước và xu thế của thời đại. Nhưng cần phải đảm bảo
những nguyên tắc trong việc lập hiến để đảm bảo quyền dân tộc cơ bản được giữ vững không bị xâm phạm,
quyền con người, quyền công dân được mở rộng nhưng phù hợp với văn hóa Á Đông.
Câu 2 – Tổ 2: Phân tích các nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình Việt Nam? Liên hệ thực
tế?
Trả lời
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người
không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với

người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan
tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật
thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người
mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia
đình.
* Liên hệ:
Câu 3 – Tổ 3: Quyền và nghĩa vụ của công dân theo hiến pháp năm 2013? Liên hệ thực tế?
Trả lời:
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, là hình thức Pháp luật cao nhất, Hiến pháp điều chỉnh những quan
hệ xã hội cơ bản, Chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa tư tưởng, an ninh quốc phòng, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công nhân cũng như quan hệ cơ bản khác.
Hiến pháp Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là đạo luật cơ bản, cao nhất của Nhà
Nước, Hiến pháp quy định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc, tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, thể chế hóa mối quan
hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Hiến pháp nước CHXHCNVN được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp
thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 gồm 11 chương, 120 điều.
Quyền cơ bản của công dân: Là quyền được ghi nhận trong Hiến pháp, nói đến sự đảm bảo của nhà
nước về những nhu cầu, đòi hỏi thiết yếu của công nhân.
Nhà nước tạo điều kiện đảm bảo công dân thực hiện quyền lợi của mình.
Nghĩa vụ cơ bản của công dân: Là sự đòi hỏi của nhà nước đối với công dân nhằm để tạo điều kiện cho việc
thực hiện quyền lợi.
Nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi trong Hiến pháp.
Quyền và nghĩa vụ của công dân nói đến mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân. Chỉ có những người
nào là công dân mới được hưởng các quyền và phải làm những nghĩa vụ cơ bản đó.
Các quyền và nghĩa vụ khác của công dân cũng được quy định trong hệ thống Pháp luật.
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định tại chương II, từ điều thứ 14

đến điều thứ 49.
* Quyền của công dân
Điều 14
- 13 -


1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Điều 19
Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái
luật.
Điều 20
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nàokhác xâm phạm thân thể,
sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.
3. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y
học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nàokhác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của
người được thử nghiệm.
Điều 21
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền
bảo vệ danh dự, uy tín của mình.
Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn.
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.
Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luậtthư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông
tin riêng tư của người khác.
Điều 22

1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp.
2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không
được người đó đồng ý.
3. Việc khám xét chỗ ở do luật định.
Điều 23
Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước.
Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.
Điều 24
1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình
đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộquyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp
luật.
Điều 25
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này do pháp luật quy định.
Điều 26
1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng
giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong
xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.
Điều 27
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào
Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.
Điều 28
- 14 -


1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà

nước về các vấn đề của cơ sở,địa phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp
nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Điều 29
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Điều 30
1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có
quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo
làm hại người khác.
Điều 33
Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Điều 34
Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội.
Điều 35
1. Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc.
2. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương,
chế độ nghỉ ngơi.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu.
Điều 36
1. Nam, nữcó quyền kết hôn, ly hôn.Hôn nhân theo nguyên tắctự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ
chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
2. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.
* Nghĩa vụ cơ bản của công dân
Điều 44
Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc.
Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.
Điều 45

1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
2. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Điều 46
Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.
Điều 47
Mọi người có nghĩa vụ nộpthuế theo luật định.
Điều 48
Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; được bảo hộ tính
mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam.
Điều 49
Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hòa bình hoặc vì sự
nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét cho cư trú.
Trên thực tế mọi quyền lợi của công dân đều được Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định
cụ thể trong Luật định như Luật bầu cử Quốc Hội, Luật Dân sự, Luật Kinh tế...mọi công dân Việt Nam đều
được pháp luật bảo hộ thực hiện mọi quyền lợi hợp pháp đồng thời quy định nghĩa vụ của công dân đối với
Nhà nước nhằm xay dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 2013 đã phản ánh được ý chí, nguyện vọng của
đông đảo các tầng lớp nhân dân; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ
ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh
- 15 -


tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Đặc biệt, việc hiến định quyền con người trong Hiến pháp là nền tảng pháp lý cao nhất để bảo đảm
quyền con người được hiện thực hóa đầy đủ trong thực tiễn.
Câu 4 – Tổ 4: Điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam? Liên hệ thực tế?
Trả lời:
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015, thay
thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có số lượng chương ít hơn 04

chương so với Luật hiện hành (9 chương), số lượng điều tăng lên 23 Điều (133 Điều). Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 đã có nhiều quy định mới và có những sửa đổi, bổ sung, trong đó có quy định về độ tuổi kết
hôn.
Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về độ tuổi kết hôn như sau:
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và
d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về điều kiện kết hôn đã có những điểm mới
so với quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, đó là:
Thứ nhất, Luật HNGĐ 2014 nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa bước qua tuổi 18 như
quy định tại Luật HNGĐ 2000.
Luật mới quy định tuổi kết hôn đối với nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên đối nữ và với nam là từ đủ 20 tuổi
trở lên. Sở dĩ có việc thay đổi này là vì nếu quy định tuổi kết hôn của nữ là vừa bước qua tuổi 18 thì quy định
này là không thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đó là, theo Bộ luật Dân sự người chưa
đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo
pháp luật đồng ý… Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy
đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không hợp lý,
thiếu đồng bộ và làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các giao dịch như quyền yêu cầu ly hôn
thì phải có người đại diện.
Thứ hai, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không cấm kết hôn cùng giới.
Về hôn nhân đồng giới, Luật HNGĐ 2000 quy định cấm kết hôn đồng giới, và vì cấm nên đi kèm sẽ có chế
tài, xử phạt.
Nay, theo luật mới, từ 1-1-2015, Luật HNGĐ 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng
giới tính” nhưng quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính-Khoản 2 Điều
8”. Như vậy những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có
tranh chấp xảy ra. Đây cũng được coi là một bước tiến nhỏ trong việc nhìn nhận hôn nhân giữa những người

cùng giới tính của nhà nước ta trong tình hình xã hội hiện nay.
* Liên hệ thực tế:
+ Thực trạng;
+ Nguyên nhân thực trạng;
+ Đề xuất giải pháp khắc phục.

Bài 6
Câu: 1- Tổ 3: Các hình thức dân chủ là gì? Các hình thức dân chủ đại diện?
Trả lời
Hình thức dân chủ là bộ các phương pháp, cách thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân
là chủ thể của quyền lực nhà nước và xã hội. Quyền lực nhà nước là loại vật chất đặc biệt khác với loại tài sản
khác, mỗi công dân không thể sử dụng nó theo ý chí và sở thích cá nhân. Bản chất của quyền lực là ý chí của
nhân dân về những vấn đề cơ bản chính yếu của tập thể, cộng đồng, giai cấp, dân tộc và của toàn xã hội. Bởi
- 16 -


vậy thực hiện quyền lực của nhân dân phải thông qua tổ chức bộ máy nhà nước và các thiết chế chính trị, xã
hội và các hình thức pháp lý nhất định. Thông qua đó, nhân dân được biểu thị ý chí của mình, được nhà nước
ghi nhận, cụ thể hóa đường lối, chính sách, pháp luật và kế hoạch để đưa ý chí đó thực thi trong cuộc sống.
Đồng thời, nhân dân, kiểm tra, giám sát quá trình thực thi quyền lực của mình. Để thực hiện một nền dân chủ
thực sự đòi hỏi phải không ngừng xây dựng hai hình thức dân chủ; đó là dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp.
Dân chủ đại diện là: hình thức mà qua đó nhân dân thực hiện sự “ủy quyền”, giao quyền lực của mình
cho người, tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu ra. Những người và tổ chức ấy đại diện cho nhân dân, thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân. Đây là hình thức dân chủ phổ biến trên thế giới hiện nay và được coi là khoa
học về tổ chức loa động quyền lực. Hình thức dân chủ đại diện chủ yếu là thực hiện quyền lực của nhân dân
thông qua nhà nước. Dân chủ, vì vậy luôn gắn với một chế độ nhà nước nhất định. Hình chính thể nhà nước
là thước đo của nền dân chủ, Hình thức chính thể ở Việt Nam là: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức”. Nhân dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất hoạt

động có nhiệm kỳ là 5 năm. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giwuax các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. “Nhà nước đảm
bỏa và phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Câu 2 – Tổ 3: Đ/c hãy liên hệ việc nhận thức, thực hiện quan điểm Đảng về xây dựng, ban hành, tổ chức
thực hiện quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở?
(Tự liên hệ)
Bài 7
Câu 1 – Tổ 4: Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh pháp luật mang tính giai cấp?
Trả lời:
Ta định nghĩa: “Pháp luật là hệ thống các qui tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện,
thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội”
1. Pháp luật ra đời cùng sự ra đời của nhà nước, gắn liền với nhà nước. Theo học thuyết Mác Lênin,
pháp luật chỉ ra đời, tồn tại trong xã hội có giai cấp, là sản phẩm của xã hội đó. Nói đến bản chất của pháp
luật trước hết phải nói đến tính giai cấp của nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính
giai cấp.
Sở dĩ nói pháp luật có tính giai cấp bởi: Khi xã hội có sự phân chia con người thành các giai cấp, các
lực lượng xã hội khác nhau thì bao giờ cũng có một giai cấp hay một lực lượng cầm quyền, lãnh đạo xã hội.
Ngay từ trong nguồn gốc ra đời, nhà nước và pháp luật là những hiện tượng không thể tách rời. Cùng với nhà
nước, pháp luật cũng là một công cụ nằm trong tay giai cấp hay lực lượng đó để thực hiện và bảo vệ quyền
quyền và địa vị thống trị cũng như lợi ích của lực lượng này. Nhà nước và pháp luật chỉ là sản phẩm của xã
hội có giai cấp.
Tính giai cấp của pháp luật được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu sau:
Pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trong xã hội. Theo nghĩa thông thường, ý chí
được hiểu là “Khả năng tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động của mình khắc phục khó
khăn nhằm đạt mục đích đó”
2 .Ý chí là khả năng đặc thù của loài người vì các loài động vật khác chỉ hành động theo bản năng mà
không có ý chí còn con người khi đã có khả năng nhận thức đầy đủ thì hành vi của họ luôn nhằm đạt tới một
mục đích nhất định. Các giai cấp thống trị lực lượng cầm quyền trong lịch sử đều theo đuổi mục đích củng cố

và bảo vệ quyền thống trị của mình, chúng tìm mọi cách để đạt mục đích đó. Một trong những cách hiệu quả
nhất là biến ý chí của chúng thành ý chí của nhà nước và từ ý chí của nhà nước sẽ thể hiện thành các qui định
cụ thể của pháp luật, tức là thành các quy tắc xử sự có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoăc thực hiện trong
toàn xã hội. C. Mác và Ănghen khi nghiên cứu về pháp luật tư sản đã đi đến kết luận: Pháp luật tư sản chẳng
qua chỉ là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung của nó là do điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết định.
- 17 -


3. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí
của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hoá thành ý chí của nhà nước. Ý chí đó được
cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật do nhà nước cơ quan có thêm quyền ban hành. Nhà nước ban hành và
đảm bảo cho pháp luật được thực hiện.
4. Pháp luật là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích của giai cấp thống trị. Mục đích của
pháp luật trước hết là nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Vì vậy pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng tới các quan
hệ xã hội phát triẻn theo một “trật tự” phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ củng cố địa vị của giai
cấp thống trị. Pháp luật là sự thể chế hoá nhằm bảo đảm thực hiện các mục tiêu, chính sách, đường lối chính
trị của lực lượng cầm quyền, giúp cho lực lượng này thực hiện được quyền lãnh đạo của nó đối với toàn xã
hội. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Câu 2 – Tổ 4: Nêu và phân tích cơ cấu các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam?
Trả lời:
Các ngành luật trong hệ thống pháp luật của nhà nước Việt Nam:
1. Luật Nhà nước (còn gọi là Hiến pháp – luật gốc)
Là ngành luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản về tổ
chức quyền lực Nhà nước về chế độ chính trị, về chế độ kinh tế, văn hoá-xã hội, chế độ bầu cử, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước trong bộ máy Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là ngành luật được coi là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp
luật Việt Nam. Tất cả các ngành luật khác đều được hình thành trên cơ sở những nguyên tắc của luật Nhà
nước và không trái với Hiến pháp.

2. Luật hành chính
Là ngành luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các Quốc hội xã hội hình thành
trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành điều hành của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá – xã hội.
3. Luật tài chính
Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập,
phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước. Bao gồm các chế định sau: luật ngân sách Nhà nước,
chế định thu, chi ngân sách Nhà nước, chế định về tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm thương mại, tín dụng và
thanh toán.
4. Luật đất đai
Là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội hình thành trong quá trình quản lý vag sử dụng đất đai, khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn
dân mà Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất, mặt khác cũng quy định chế độ quản lý, sử dụng đất đai, quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất.
5. Luật dân sự
Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản dưới hình thức hành
hoá tiền tệ và một số quan hệ nhân thân dựa trên nguyên tắc: tự định đoạt, bình đẳng quyền khởi tố dân sự và
trách nhiệm vật chất của các bên tham gia quan hệ đó. Nội dung luật dân sự bao gồm các chế định quy định
về: quyền sở hữu, hợp đồng dân sự, quyền thừa kế, quyền tác giả, quyết phát minh sáng chế.
6. Luật lao động
Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn
lương với người sử dụng lao động. Các quy phạm pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người
lao động và người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động góp phần
thúc đẩy sản xuất xã hội.
7. Luật hôn nhân và gia đình
Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản phát
sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ. Như điều kiện kết hôn, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, cha mẹ và con
cái. Nhằm mục đích đảm bảo hôn nhân tự do, tiến bộ, đảm bảo quyền bình đẳng nam nữ xây dựng gia đình
hạnh phúc, bảo vệ lợi ích của bà mẹ trẻ em, chăm sóc, giáo dục con cái.
8. Luật hình sự

- 18 -


Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật quy định hành vi nào là tội phạm, mục đích hình phạt,
điều kiện áp dụng hình phạt và mức độ hình phạt đối với người có hành vi phạm tội.
9. Luật tố tụng hình sự
Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc điều tra,
xét xử là kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử những vụ án hình sự.
10. Luật tố tụng dân sự
Là ngành luật bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa các cơ quan xét xử, viện
kiểm sát nhân dân các cấp, đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, xét xử
các vụ tranh chấp dân sự. Các quy phạm pháp luật của tố tụng dân sự quy định thẩm quyền, trình tự thủ tục
xét xử và những vấn đề khác nhằm giải quyết đúng đắn việc tranh chấp dân sự.
11. Luật kinh tế
Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật kinh tế là tổng thể các quy
phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của các loại doanh nghiệp ký kết hợp đồng kinh tế,
về phá sản doanh nghiệp, về giải quyết các tranh chấp kinh tế.
12. Luật quốc tế
Là tổng thể các quy phạm pháp luật được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa các quốc gia với nhau
nhằm điều chỉnh quan hệ giữa các nước trong quá trình đấu tranh và hợp tác lẫn nhau. Luật quốc tế bao gồm
hai bộ phận: Công pháp quốc tế và Tư pháp quốc tế.
Câu 3 – Tổ 4: Nêu và liên hệ vai trò của pháp luật đối với kinh tế?
Trả lời:
Pháp luật là một trong những yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội, nó luôn có quan hệ chặt chẽ với
kinh tế, chịu sự tác động của kinh tế, và cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế. Pháp luật quy định
và đảm bảo thực hiện việc xây dựng và phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sau đây tôi xin đi sâu phân tích để làm nổi bật vai trò
của pháp luật đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
1. Định nghĩa:

- Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể.
- Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mỗi quan hệ trong
quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích.
2. Vai trò của pháp luật đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Trong phát triển kinh tế thì hệ thống pháp luật về kinh tế luôn có vai trò vô cùng to lớn. Nhận thức
được tầm quan trọng này, từ cuối những năm 1980 đến nay, việc không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật,
đặc biệt là pháp luật về kinh tế luôn là mối quan tâm lớn, thường xuyên và là một trong những chủ trương
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định phải “đổi mới và hoàn
thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để phát huy tối đa mọi
nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu
khác nhau.
Vai trò của pháp luật đối với kinh tế được thể hiện như sau:
2.1. Pháp luật là một phương tiện để quản lý kinh tế, thực hiện các chính sách kinh tế, các mục
tiêu kinh tế.
+ Pháp luật là một phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, nhà nước không thể quản lý được nền
kinh tế phức tạp nếu như không dựa vào pháp luật. Điều 26 hiến pháp năm 1992 được sửa đổi , bổ xung năm
2001 quy định: “nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…”.
Chỉ có pháp luật với những thuộc tính đặc thù của mình mới có khả năng đảm bảo cho nhà nước thực hiện
được chức năng quản lý trong lĩnh vực kinh tế.
Thông qua pháp luật, nhà nước hoạch định các chính sách kinh tế, trật tự hoá các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các tổ chức và cá nhân, định hướng cho các quan hệ kinh tế phát triển theo những mục đích
mong muốn. chẳng hạn, chính sách kinh tế của nhà nước ta hiện nay được điều 15 hiến pháp năm 1992 sửa
- 19 -


đổi, bổ xung năm 2001 xác định là: nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội
lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
+ Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế

độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
Chính sách kinh tế của nhà nước ta luôn hướng tới mục đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy
mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế giới.
+ Thông qua pháp luật, nhà nước xác định các hình thức sở hữu trong xã hội từ đó tác động đến quan
hệ sở hữu, đặc biệt là đối với tư liệu sản xuất chủ yếu trong nền sản xuất xã hội, quy định các hình thức tổ
chức sản xuất, xác định các thành phần kinh tế, quy định địa vị pháp lý của các tổ chức, đơn vị kinh tế, chế độ
tài chính…đối với họ.
+ Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, chính sách tài
chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, cơ chế kinh tế, các phương pháp quản lý kinh tế…Xác định cơ chế quản lý
kinh tế trong mỗi thời kỳ phát triển. pháp luật cũng ghi nhận hoặc đưa ra những nguyên tắc phân phối sản
phẩm từ quá trình lao động sản xuất cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Cụ thể, kinh tế thị trường tạo ra của cải cho xã hội thông qua việc trao đổi.
Nhìn chung, các bên, vì mục đích riêng của mình, sẽ trao đổi hàng hoá và dịch vụ khi họ tin rằng việc
trao đổi hàng hoá và dịch vụ đó sẽ mang lại thêm lợi ích cho họ. Khi các bên đồng ý trao đổi, mỗi bên cần
những gì mà họ nhận được hơn là những gì họ bỏ ra để trao đổi . Qua đó, các bên đều mong muốn được lợi
hơn thông qua việc trao đổi. Nếu thị trường có thể vận hành một cách hoàn hảo, việc trao đổi không ngừng có
thể phân bổ mọi nguồn lực tới các bên cần nó nhất, thúc đẩy tính hiệu quả trong việc tạo ra của cải xã hội và
thỏa mãn mong muốn của mọi người.
Luật thương mại dành một phần rất lớn để thúc đẩy và bảo vệ cơ chế trao đổi thị trường nói trên. Bốn
nguyên tắc cơ bản sau chi phối hầu hết các qui định của luật thương mại.
Đó là:
- Quyền tự do hợp đồng. Quyền tự do của các bên trong việc quyết định có tham gia vào một giao dịch
cụ thể và đồng ý về các điều khoản của giao dịch đó hay không là nền tảng pháp lý của nền kinh tế thị trường.
Từng cá nhân có thể tham gia vào các mối quan hệ pháp lý một cách nhanh chóng và trực tiếp mà không có
bất kỳ sự can thiệp chính trị hay ngoại giao nào.
Do vậy, các bên có thể đưa ra các quyết định kinh tế tức thì, có liên quan trực tiếp đến sự thành công
của họ. Ngoài ra, các bên sẽ tự quyết định sự được mất trong phần lớn các cuộc thương lượng của họ (với
điều kiện là không bên nào bị ở vị thế quá bất lợi). Ngăn chặn sự gian lận và lạm quyền. Các quyết định của

thị trường không thể phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả trừ phi các quyết định đó là sản phẩm của
sự lựa chọn tự do và được thông tin.
Các giao dịch thương mại có sự gian lận hay cưỡng ép sẽ không có hiệu lực pháp luật. Những giao
dịch đó còn làm mất đi lòng tin của mọi người vào thị trường và hệ thống pháp luật. Giảm chi phí giao dịch.
Luật thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia và thực hiện các giao dịch với chi phí
thấp nhất cùng với hạn chế tối thiểu sự gian lận. Nếu chi phí thực hiện giao dịch cao thì các bên sẽ bỏ lỡ các
cơ hội có lợi.
Do vậy, các thủ tục cần thiết để xác lập một hợp đồng có hiệu lực, chẳng hạn như thủ tục chứng thực
của cơ quan công chứng trong một số hệ thống pháp lý, đã không còn nữa. Bảo vệ các mong muốn hợp lý.
Các bên tham gia các giao dịch thương mại thường dựa vào luật để bảo vệ các quyền của mình trong tương
lai.
Thường thì không thể hoặc không hiệu quả nếu các bên đồng thời ngừng việc thực hiện. Chẳng hạn,
một người thợ thủ công nhận làm đồ đạc đặt đóng giờ đây sẽ dựa vào luật để buộc người mua thực hiện nghĩa
vụ nhận đồ đạc và thanh toán tiền trong tương lai. Các quyền và nghĩa vụ đó có thể do luật áp dụng hay do
thoả thuận giữa các bên xác lập. Toà án nên thận trọng khi thi hành các điều khoản trong thoả thuận, mà
thông qua các điều khoản đó các bên đã thoả thuận bảo vệ mình trước những bất trắc trong tương lai.
- 20 -


2.2- Pháp luật góp phần tích cực vào việc sắp xếp, cơ cấu các ngành kinh tế, tác động đến sự tăng
trưởng và sự ổn định, cân đối của nền kinh tế.
Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, chinh sách tài
chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập, cơ chế kinh tế, các phương pháp quản lý kinh tế…, qua đó góp
phần tích cực vào việc sắp xếp, cơ cấu các ngành kinh tế, tác động đến sự tăng trưởng và sự ổn định, cân đối
của nền kinh tế.
2.3 - Pháp luật điều chỉnh các hợp đồng kinh tế, quy định trình tự và thủ tục giải quyết các tranh
chấp kinh tế.
Pháp luật điều chỉnh các hợp đồng kinh tế, quy định trình tự và thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh
tế để bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng của các chủ thể.
Nhờ các quy định đó mà nhà nước có thể tổ chức và quản ký được nền kinh tế, tạo điều kiện cho

nền kinh tế tăng trưởng trong sự ổn định, cân đối và điều tiết theo chiều hướng mà nó mong muốn.
+ Đối với các tổ chức, đơn vị kinh tế khi tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh đều phải dựa
trên những quy định của pháp luật. Pháp luật là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các hoạt động sản
xuất, kinh doanh
+ Đưa ra những biện pháp kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động kinh tế của các tổ chức và cá nhân
như chủ thể nào có thẩm quyền kiểm tra, giám sát? kiểm tra giám sát những hoạt động kinh tế gì? Đối với các
tổ chức đơn vị kinh tế nào? Quy định các biện pháp bảo vệ lợi ích của các chủ thể sản xuất kinh doanh, bảo
vệ lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của toàn xã hội.
Xử lý những hiện tượng tiêu cực trong quá trình hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế. Pháp luật
thường xác định chủ thể có thẩm quyền xử lý và các biện pháp mà họ có thể áp dụng để ngăn ngừa và trừng
phạt những hành vi vi phạm pháp luật, những hoạt động tiêu cực trong các hoạt động kinh tế.
3. Mối liên hệ giữa pháp luật với kinh tế ở Việt Nam.
Ở nước ta, Pháp luật nói chung, phấp luật về kinh tế nói riêng chưa được chú trọng đúng mức. Hệ
thống pháp luật không đồng bộ, nhiều văn bản pháp luật quan trọng, thiết yếu không được ban hành kịp thời
…dẫn đến các hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước chưa phù hợp, các hoạt động sản xuất kinh doanh,
phân phối gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế đất nước chậm phát triển, nhất là phát triển công nghiệp làm cho
chất lượng đời sống nhân dân chưa cao. Nhiều quy định của pháp luật được ban hành thể hiện sự chủ quan
duy ý chí không phù hợp so với điều kiện phát triển kinh tế đất nước dẫn đến các điều kiện kinh tế không đủ
khả năng bảo đảm cho các quy định thực hiện trên thực tế.
VD: Quy định việc phát triển nền kinh tế chỉ có hai thành phần: quốc doanh và tập thể theo cơ chế kế
hoạch hóa tập chung cao độ, quy định chế độ đi học và chữa bệnh không mất tiền…do đó không thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế mà trái lại, còn kìm hãm sự phát triển kinh tế, là cho nền kinh tế trì trệ, kém phát
triển. Bước vào thời kì đổi mới, pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng đã được chú trọng nhiều hơn.
Hệ thông pháp luật của đất nước đã trở nên đồng bộ, toàn diện, hoàn thiện hơn so với các giai đoạn trước,
nhiều văn bản pháp luật trong lĩnh vực kinh tế được ban hành đã pháp huy được vai trò của mình trong việc
ổn định kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đất nước. Với hệ thống pháp luật hoàn chỉnh
hơn , nền kinh tế nước ta có bước phát triển đáng kể, của cải, vật chất được tạo nên nhiều hơn, đời sống nhân
dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung,
pháp luật về nền kinh tế nói riêng vẫn còn bất cập cần được khắc phục tạo cơ sở cho nền kinh tế nước ta phát

triển như mong muốn. Từ sau công cuộc đổi mới trở lại đây, nhiều quy định của pháp luật đã được sửa đổi
theo hướng phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế nên đã thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế và cả xã
hội.
VD: quy định về việc phát triển nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà
nước, quy định về chế độ khoán sản phẩm trong nông nghiệp…
4. Tác động của pháp luật tới kinh tế Việt Nam.
4.1. Pháp luật có thể ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển kinh tế.
Pháp luật có tác dụng tạo lập môi trường pháp lý cho các hoạt động kinh tế của các tổ chức và cá nhân
được tiến hành thuận lợi, có trật tự và đạt hiệu quả kinh tế cao.Chẳng hạn, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội thì pháp luật phải thừa nhận các thành phần kinh tế khác như, tạo điều kiện cho chúng cùng tồn tại và
- 21 -


phát triển không nên loại trừ hay hạn chế chúng mà phải cố gắng kiểm soát chúng, định hướng điều tiết sự
phát triển của chúng. Điều này có ảnh hưởng rất lớn tới sự tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thu nhập quốc
dân và nâng cao đời sống nhân dân. “sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế chỉ có thể thực hiện và phát
huy đầy đủ nhất, có hiệu quả nhất khi được xác nhập giữa một hình thức pháp luật nhất định và được bảo đảm
thực hiện bởi một cơ chế pháp luật thích hợp”. Có thể nói, trong thời đại hiện nay pháp luật đã trở thành một
bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Thiếu pháp luật, nền kinh tế, nhất là nền kinh tế thị trường rất khó vận
hành hoặc vận hành không có hiệu quả, các hoạt động kinh tế sẽ trở nên hỗn loạn, không thể kiểm soát.
Những tác động tích cực của pháp luật đến sự phát triển kinh tế có thể được minh chứng bằng rất
nhiều các quy định của pháp luật Việt Nam thời kì đổi mới.
4.2.
Pháp luật có ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế
Khi pháp luật phản ánh không đúng, pháp luật xây dựng không phù hợp với các điều kiện, yêu cầu
của nền kinh tế, những quy định pháp luật quá cao hoặc quá thấp so với sự phát triển của kinh tế, thậm chí
còn có thể mang lại những tác hại nhất định cho nền kinh tế. Chẳng hạn nhìn thờ kì trước đây, một số quy
định của Hiến pháp Việt Nam năm 1980 cùng một số văn bản khác được ban hành trong thời kì này là quá
cao so với điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta lúc đó.
Vì vậy, chúng đã làm cho nền kinh tế nước ta phát triển chậm, đơiì sống nhân dân gặp nhiều khó

khăn; hay sự can thiệp quá sâu của pháp luật vào các hoạt động kinh tế đã làm cho các chủ thể kinh tế không
phát huy khả năng sang tạo, thiếu chủ động với những hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình , dẫn đến
năng suất lao động thấp, sản phẩm làm ra ít, cơ chế quản lý kinh tế xơ cứng; một số quy định pháp luật còn
cản trở những ý tưởng , những hành vi kinh doanh chính đáng mang lại lợi ích cho chủ thể kinh doanh và cho
toàn xã hội.
Như vậy, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và nền kinh tế Việt
Nam nói riêng. Do vậy khi xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp luật cần xuất phát từ những điều kiện kinh
tế-xã hội thực tế của đât nước sao cho phù hợp và đúng đắn với đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn và thực hiện vai trò của pháp luật sẽ góp phần xây dựng đất nước ngày càng
giàu đẹp.

- 22 -



×