Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

BÁO CÁO MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.67 KB, 20 trang )

TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

BÁO CÁO MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

THE GREAT DEPRESSION 1929 -1933
MEXICAN PESO CRISIS 1994
ASIAN CURRENCY CRISIS 1997
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Minh Thủy
Nhóm thực hiện: Nhóm 1
Nhóm 6 – Thứ 3 – Ca 1

TPHCM, THÁNG 1 NĂM 2017


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................


............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................
............................................................................................................................................


Mục lục


CHƯƠNG 1. THE GREAT DEPRESSION 1929 -1933
1.1. Nguyên nhân
Căn nguyên của cuộc khủng hoảng này của Mỹ có nguyên nhân giống các cuộc khủng
hoảng trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Chủ yếu là do sức sản xuất phát triển quá mạnh,
quá nóng trong khi nhu cầu của người dân không có mức tăng tương ứng. Tức do “cung
vượt quá cầu”. Là cuộc khủng hoảng về cơ cấu, do sự phân chia thành quả lao động
không công bằng: chủ nhiều, người lao động ít. Đây là thời kỳ công nghiệp hóa trong đó
cơ giới hóa được đẩy mạnh. Các phương thức tổ chức quản lý sản xuất được cải biến dẫn
đến khả năng sản xuất ra sản phẩm ngày càng nhiều trong lúc lượng lao động dư thừa bị
đẩy ra xã hội ngày càng tăng. Họ không có điều kiện và khả năng mua hàng cũng là điều
dễ hiểu
1.2. Diễn biến
Cuộc khủng hoảng 1929 -1933 diễn ra đầu tiên ở Mỹ. Ngày 29. 10. 1929 thị trường
chứng khoán của Mỹ rơi vào tình trạng khủng hoảng, cũng từ đó trở đi thị trường chứng
khoán của Mỹ liên tục bị dời ra, các cổ phiếu của các cổ đông trở thành đống giấy lộn.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ, là nước tư bản giàu nhất. Sản lượng công nghiệp

ở Mĩ giảm 50%, trong đó gang, thép sụt xuống 75%, ô tô giảm 90%, 11500 xí nghiệp nhỏ
và cả những xí nghiệp lớn bị phá sản. Nông thôn cũng bị tác động mạnh mẽ.
Để nâng cao giá hàng hoá và thu nhiều lời, các nhà tư bản kếch sù đã tiêu huỷ hàng hoá :
cà phê, sữa, lúa mì, thịt, ...v.v... bị đốt hay đổ xuống biển chứ không được bán hạ giá.
Cuộc khủng hoảng lan rộng đến các nươc` tư bản chủ nghĩa khác. Ở Anh, sản lượng gang
năm 1931 sụt mất 50% , thép cũng sụt gần 50% , thương nghiệp sụt 60%. Ở Pháp, cuộc
khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 1930và kéo dài đến năm 1936, sản lượng công nghiệp
giảm 30%, nông nghiệp 40%, ngoại thương 60%, thu nhập quốc dân 30%. Ở Đức, đến
năm 193, sản lượng công nghiệp giảm 77%. Ở các nước Ba Lan, Ý, Ru-ma-ni, Nhật, ...
đều có khủng hoảng kinh tế.
1.3. Kết quả
Cuộc khủng hoảng này đã gây hậu quả nghiêm trọng và sâu sắc, với khoảng 13 triệu
người thất nghiệp. Sản lượng công nghiệp giảm 45%. Số nhà máy xây mới giảm 80%.
5.000 ngân hàng phá sản. Trong 15 nước tư bản đã có tới 18.000 cuộc bãi công của công
4


nhân với sự tham gia của 8,5 triệu người. Hàng triệu héc ta cây trồng bị phá. Cuộc khủng
hoảng kinh tế đã đẩy nền kinh tế tư bản bước vào tình trạng tiêu điều.
1.4. Các hành động của các tổ chức kinh tế thế giới nhằm giúp đỡ các nước
Để cứu vãn tình hình, chính phủ các nước tư bản thi hành một số chính sách như đánh
thuế nhập cảng nặng để hạn chế hàng hoá nước ngoài vào, lấy tiền trong ngân quỹ nhà
nước trợ cấp cho các nhà tư bản. Chính phủ Mĩ đã bỏ ra hàng chục triệu đô la trong việc
trợ cấp này.
1.5. Việt Nam và các ảnh hưởng
Pháp là nước tư bản nên chịu chung tác động của cuộc khủng hoảng này. Khủng hoảng
diễn ra ở Pháp rồi lan nhanh ra các thuộc địa và phụ thuộc của Pháp, trong đó có Việt
Nam.
- Dưới tác động của cuộc khủng hoảng, nền kinh tế, xã hội Việt Nam bị khủng hoảng
nặng nề :

+ Nông nghiệp, công nghiệp bị suy sụp, xuất nhập khẩu bị đình đốn, hàng hóa khan hiếm
(do nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào Pháp).
+ Khủng hoảng kinh tế đã tác động tới tất cả các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam,
làm cho đời sống của các tầng lớp nhân dân vô cùng cực khổ (nhà máy bị đóng cửa, công
nhân không có việc làm hoặc có việc làm thì lương rất thấp ; sản xuất nông nghiệp sa sút
do xuất khẩu lúa gạo bị đình trệ, nông dân bị bần cùng hoá...; đời sống của tư sản, tiểu tư
sản bấp bênh...).
+ Thực dân Pháp còn tăng cường chính sách thuế khóa, làm cho đời sống của nhân dân
càng thêm cùng cực.

5


CHƯƠNG 2. MEXICAN PESO CRISIS 1994
2.1. Nguyên nhân
Khủng hoảng tiền tệ ở Mexico bắt nguồn từ sự tác động lẫn nhau của các yếu tố kinh tế
và chính trị. Trong suốt thời gian nắm quyền, chính phủ Salinas đã thực hiện việc cải tổ
mở cửa nền kinh tế. Cùng với việc neo tỷ giá với đồng đôla Mỹ, Mexico đã thu hút lượng
vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ, và chính nguồn vốn này đã tài trợ cho việc nhập khẩu,
làm cho tình hình thâm hụt cán cân vãng lai của Mexico càng trở nên tồi tệ hơn. Đến đầu
năm 1994, khi một loạt các vụ scandal chính trị diễn ra (cuộc nổi loạn Chiapas, vụ ám sát
ứng cử viên tổng thống của đảng cầm quyền Colosio…) đã làm cho các nhà đầu tư mất
niềm tin vào sự ổn định của nền kinh tế nước này. Thời điểm đó, chính phủ Mexico đã nỗ
lực hết sức để ngăn chặn sự suy giảm nghiêm trọng của dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên,
những chính sách kinh tế vĩ mô được áp dụng trong thời gian trước thềm cuộc bầu cử
tổng thống lại không tương thích với chính sách tỷ giá và hơn thế nữa làm cho tình hình
thâm hụt cán cân thương mại ngày càng xấu đi. Sau khi cuộc bầu cử diễn ra, một loạt các
cú sốc về chính trị đã khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn, dự trữ ngoại hối
rơi xuống mức mà NHNN Mexico không đủ để can thiệp nhằm bình ổn tỷ giá. Việc Mỹ
nâng lãi suất đã khiến đồng Peso của Mexico mất giá nhanh chóng và châm ngòi cho

dòng thoái vốn tại khắp khu vực Mỹ Latinh. Việc quốc hữu hóa cũng khiến cho hệ thống
ngân hàng của Mexico trở nên mong manh, tạo sự hạn chế cho quá trình sử dụng chính
sách tiền tệ để hỗ trợ đồng Peso.
2.2. Diễn biến
Ngày 1/1/1994, sự nổi dậy của lực lượng vũ trang Zapatistas.
Đến cuối tháng 2/1994, tỷ giá hối đoái giữa peso và USD tăng đến trần biên độ dao động.
Tuy vậy, dòng vốn nước ngoài vẫn tiếp tục đổ vào vì các nhà đầu tư vẫn lạc quan về tình
hình kinh tế ở Mexico.
Tháng 3/1994, sự kiện Luis Donaldo Colosio - ứng cử viên tổng thống bị ám sát đã làm
dâng lên những căng thẳng chính trị ở Mexico. Các nhà đầu tư nước ngoài không còn
cảm thấy an toàn và bắt đầu lo lắng cho tài sản của mình ở Mexico.

6


Trước những lo ngại về tình hình chính trị và kinh tế ở Mexico, các nhà đầu tư trong và
ngoài nước đã giảm nhu cầu về chứng khoán của Mexico. Đồng peso chịu sức ép mất giá
và chính phủ quyết định tung ra thị trường khoảng 10 tỷ đô la từ dự trữ ngoại hối nhà
nước để bảo vệ tỷ giá danh nghĩa.
Tháng 4/1994, lãi suất trái phiếu chính phủ định danh bằng peso có xu hướng tăng. Lo
ngại điều này sẽ gây tổn thương cho khu vực ngân hàng còn non trẻ của đất nước cũng
như lãi suất cao có thể gây ra suy thoái kinh tế vào một năm diễn ra cuộc bầu cử tổng
thống, chính phủ Mexico một mặt dùng dự trữ ngoại hối để chống lại xu hướng tăng lãi
suất, một mặt tiến hành chuyển đổi các trái phiếu chính phủ sang định danh bằng USD
thay cho định danh bằng peso để phần nào bình ổn thị trường.
Việc đồng peso được định giá quá cao so với đồng đô la đã sớm được cảnh báo bởi một
số học giả kinh tế. Bên cạnh đó, cũng có không ít ý kiến trái chiều phản đối việc điều
chỉnh tỷ giá vì lý do niềm tin của các nhà đầu tư vẫn chưa đủ chắc chắn để có thể không
bị hoảng loạn khi tỷ giá thay đổi mạnh một cách đột ngột. Do vậy, chính phủ Mexico
chọn biện pháp vừa dùng dữ trữ ngoại hối để giữ ổn định tỷ giá, vừa từng bước nhỏ điều

chỉnh tỷ giá cho phù hợp với thực tế.
Tháng 8/1994, tổng thống Ernesto Zedillo vừa nhậm chức đã phải đối mặt với nhiều khó
khăn trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, ông vẫn cố gắng duy trì các chính sách tài chính,
tiền tệ như trước.
Cuối tháng 9/1994, Tổng thư ký của đảng Institutional Revolution, José Francisco Ruiz
Massieu cũng bị ám sát. Cộng đồng thế giới cho rằng sự việc này càng chứng tỏ tình hình
chính trị tại Mexico đang rất bất ổn. Các nhà đầu tư lại càng thêm bất an. Một số nhà đầu
tư nước ngoài cùng các quỹ đã bắt đầu rút vốn khỏi Mexico.
Tháng 10/1994, Cục dữ trữ Liên bang Mỹ (FED) tuyên bố mặc dù lo ngại về mức dự trữ
ngoại hối còn khá ít ỏi của Mexico, song Mexico không nên hy vọng nhiều vào viện trợ
từ phía nước ngoài. Điều này khiến cho tâm lý các nhà đầu tư càng trở nên rối loạn và bất
ổn.

7


Cũng trong thời gian đó, sau khi một số công ty lớn ở Mexico công khai lợi nhuận của
mình đã giảm sút, thị trường chứng khoán Mexico chao đảo. Áp lực mất giá đồng peso
càng tăng lên.
Tổng thống mới nhậm chức không muốn phá giá đồng peso trong suốt nhiệm kỳ của
mình trừ khi việc phá giá này là không thể tránh khỏi. Sự cố gắng duy trì đồng peso được
định giá cao đã gây ra nhiều vấn đề cho nền kinh tế Mexico. Nó đã không khuyến khích
người nước ngoài tiêu dùng hàng hóa của Mexico, trong khi người Mexico lại thích tiêu
dùng các sản phẩm của nước ngoài. Điều này dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại ngày
càng trầm trọng.
Mặt khác, các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư ở Mexico cũng dần nhận ra sự mất giá của
đồng peso nên đã bắt đầu chuyển sang nắm giữ các tài sản bằng đồng đô la thay vì nắm
giữ các tài sản bằng đồng peso như trước.
Một trong những cách để giữ tỷ giá của đồng nội tệ đó là dùng tiền nước ngoài để mua lại
đồng nội tệ. Và hàng tỷ đô la trong quỹ dự trữ ngoại hối của Mexico đã được tung ra

nhằm giữ giá cho đồng peso nhưng đã không thành công.
Cuối tháng 10/1994, thống đốc ngân hàng trung ương Mexico công khai rằng dự trữ
ngoại hối của Mexico chỉ còn 17,12 tỷ đô la.
Ngày 20/12/1994, , tổng thống Mexicon Ernesto Zedillo đã phải phá giá đồng peso thêm
15% trước áp lực phá giá đồng peso lúc bấy giờ. Chính phủ Mexico cũng đã nhanh tay
can thiệp nhằm giảm tốc độ mất giá, song không có hiệu quả mà trái lại làm cho quỹ dự
trữ ngoại hối của Mexico ngày càng cạn kiệt.
Đến ngày 22/12/1994, chính phủ Mexico quyết định tuyên bố thả nổi đồng peso. Quyết
định này đã làm các nhà đầu tư mất hết lòng tin vào khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn
của Mexico (các khoản nợ nước ngoài nếu tính theo peso sẽ lớn hơn gấp nhiều lần khi tỷ
giá giữa peso và đô la tăng lên). Vì thế, các nhà đầu tư đành bán tháo các tài sản bằng
đồng peso. Điều này làm cho đồng peso càng mất giá hơn nữa.
Bên cạnh đó, việc các khoản nợ nước ngoài đột nhiên tăng lên đã khiến cho bảng cân đối
tài sản của các xí nghiệp và ngân hàng ở Mexico trở nên xấu đi. Hậu quả là nền kinh tế
8


Mexico rơi vào khủng hoảng thực sự, kéo theo đó là cuộc suy thoái kinh tế được đánh giá
là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất thế giới kể từ những năm 1930.
2.3. Kết quả
Thế giới đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính ở Mexico bắt đầu vào ngày
20/12/1994 khi nước này tuyên bố phá giá đồng Peso 40% so với USD. Chỉ trong vòng 3
tháng, đồng nội tệ Mexico giảm 53% so với USD. Nếu trước ngày phá giá 1 USD bằng
3,46 Peso thì sau ngày phá giá 1 USD bằng 6 Peso, thậm chí có lúc 1 USD bằng 8 Peso.
Nợ nước ngoài của Mexico vượt quá 200 tỷ USD, lạm phát ít nhất lên tới 60%, thất
nghiệp từ 3,6% tăng lên xấp xỉ 10%. Tốc độ tăng trưởng của Mexico năm 1995 là âm
6,2%. Khi đó, chính quyền Mexico phải kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp đỡ Mexico thoát
khỏi cuộc khủng hoảng.
2.4. Hành động từ các tổ chức kinh tế quốc tế
Chính phủ Mỹ, Chính phủ Canada, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thanh toán Quốc

tế đã phối hợp cấp cho Mexico các khoản tín dụng lên tới 50 tỷ Dollar Mỹ để ngăn chặn
sự phát triển và khắc phục hậu quả của khủng hoảng.
Nguồn lực của gói tài chính cứu trợ khẩn cấp này gồm 20 tỷ USD của chính phủ Mỹ
thông qua các hình thức trao đổi hoặc tín dụng trung và dài hạn được đảm bảo bởi quỹ
Ổn định ngoại hối, 17,8 tỷ USD của IMF. Phần còn lại được cung cấp bởi chính phủ
Canada, Ngân hàng thế giới
Cùng với việc chấp nhận gói tài chính cứu trợ khẩn cấp có điều kiện của IMF - Quỹ tiền
tệ quốc tế và áp dụng các biện pháp giảm chi tiêu ngân sách, thắt chặt chính sách tiền tệ
và đẩy nhanh cải cách cơ cấu kinh tế, từ giữa năm 1996 nền kinh tế Mêxicô đã thoát ra
khỏi cuộc khủng hoảng và bắt đầu phục hồi.
2.5. Liên hệ tới Việt Nam
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng có nhiều nét tương đồng với Mexico vào
những năm xảy ra khủng hoảng. Kể từ 2002, ở Việt Nam đã xuất hiện thâm hụt thương
mại gia tăng mang tính chất hệ thống. Thâm hụt thương mại mang tính cơ cấu là gánh
nặng lớn đối với cán cân thanh toán (BOP) của quốc gia, và kết quả là cán cân vãng lai đã
rơi vào tình trạng thâm hụt trong những năm gần đây. Bên cạnh thâm hụt thương mại,

9


thâm hụt ngân sách Nhà nước kéo dài trong nhiều năm cũng làm tăng thêm những rủi ro
cho nền kinh tế, cả rủi ro tăng trưởng và mất ổn định kinh tế vĩ mô
Bên cạnh đó, hệ thống giám sát tài chính ở Việt Nam còn yếu kém. Đó là sự thiếu phối
hợp điều tiết giữa các cơ quan chức năng trong việc xử lý các vấn đề tài chính. Sự yếu
kém trong việc quản lý các công ty tài chính có vốn nước ngoài và giám sát dòng vốn đầu
tư trực tiếp. Ngoài ra đó còn là sự yếu kém trong quá trình theo dõi và giám sát, bao gồm
tính thiếu minh bạch và chất lượng các báo cáo. Sự phát triển, đổi mới của hệ thống tài
chính tạo ra những sản phẩm lai ghép, làm cho công tác giám sát cũng gặp khó khăn hơn.
Sự không tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn thế giới trong việc
giám sát dựa trên rủi ro đã góp phần làm bộc lộ tính yếu kém của công tác điều tiết và

giám sát. Điều này khiến cho các nhà đầu tư gặp khó khăn khi tìm kiếm cơ hội đầu tư, và
gây tâm lý hoang mang, không tin tưởng, dễ dẫn đến tình trạng rút vốn ào ạt ra khỏi thị
trường như trường hợp của Mexico.
Tại Mexico, việc đánh giá tỷ giá thực, tốc độ phát triển của nợ ngắn hạn bên ngoài và
việc thâm hụt tài khoản vãng lai cùng với sự yếu kém của hệ thống tài chính đã tạo áp lực
mạnh mẽ lên thị trường ngoại hối. Áp lực này đã khiến cho Mexico phải bỏ tỷ giá cố định
và chấp nhận tỷ giá thả nổi. Tương tự như vậy, khi thị trường bắt đầu đặt câu hỏi về tính
bền vững của tỷ giá hối đoái ở Việt Nam, áp lực đầu cơ tăng lên khi nhận thấy nợ nước
ngoài tăng, thâm hụt cán cân vãng lai lớn.

10


CHƯƠNG 3. ASIAN CURRENCY CRISIS 1997
Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm
1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và
giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là
"những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Khủng hoảng
tiền tệ châu Á.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc
khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt
giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị
ảnh hưởng. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh
tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng
ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn
cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa Kỳ.
3.1. Nguyên nhân
3.1.1 Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là

Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào
Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông
Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức
ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã
thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát.
Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình
chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ
việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm
1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu
của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại
theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn.

11


Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước
này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó còn ở MIT),
cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á". Ông ta cho rằng: Sự
tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là do kết quả của đầu tư theo hình thức tư
bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được
nâng lên ở một mức độ rất nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ
tăng trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có thể mang
lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi như một nhà tiên tri sau
khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ông ta cũng đã từng phát biểu rằng
ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu của nó.
NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI (ĐẾN CUỐI NĂM 1997)

Đơn vị: tỷ USD

Nước

Tổng số nợ

Thái Lan
Indonesia
Hàn Quốc
Malaysia

91, 7
137, 4
154, 4
44, 1

Nợ ngắn hạn
(trong tổng số nợ)
65
60
70
55

dự
trữ
ngoại hối
27, 0
16, 6
20, 4
21, 7

3.1.2. Các dòng vốn nước ngoài kéo vào

Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối
thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu
tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của
mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực
hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước
phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho
các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bất chấp mạo hiểm để đi
vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần
lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối
xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.)
12


3.1.3. Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn
công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái
Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ
khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người
trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công
tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập
tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả
dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ chặt chẽ
là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội nghị
Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một
Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi

các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của
ASEAN trong giai đoạn này.[6] Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng
Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng
Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa
ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các
nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chínhAPEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật
Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể
nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài
chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể xem như một thất bại
trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo
tiền tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở các
nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. ..

13


3.2. Diễn biến
3.2.1. Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm
là 9%. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền
kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu.
Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn
hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy
mô lớn. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không
phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá
gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar
Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống
còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD

xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.
Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho
Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
3.2.2. Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương
Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách
nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất
giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000 và còn 40 vào
cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ
bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số
Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000
điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất
giá.
Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng
thống.

14


3.2.3. Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này vốn được neo
vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao
hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên
tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng
cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng
tiền của mình. Các thị trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng
10 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong
Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên
500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành

phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông
Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính
Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng
120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này,
vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ
Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước
này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính
sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị
trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga.
Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
3.2.4. Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước
ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ
ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng
hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn.
Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn
Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp
phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng
11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ
IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
15


Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.
3.2.5. Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của
Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn

sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở
nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở
trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong
tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng
vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và
quý ba năm 1997.
3.2.6. Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới
rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%.
Tháng 8, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái
thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất
giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ
Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar
Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều
giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là
làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó,
nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ
thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến
chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên.
Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500
người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng
hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.
16


Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng
trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1.
Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia

đã giảm đi.
3.3. Kết quả
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ
thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản,
dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những
nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và
Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán
gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng trào Hồi giáo và ly khai phát
triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng
Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện
tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã
giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ
4.600 USD xuống 3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn tới khủng hoảng tài
chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế
cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm và do FDI vào giảm.

3.4. Hành động từ các tổ chức kinh tế quốc tế:
IMF mở đường cho các hoạt động đầu tư và các khoản trợ giúp tài chính của các tổ chức
quốc tế cũng như các quốc gia khác. Sau khi IMF thoả thuận được với các quốc gia Đông
á về cam kết can thiệp vào cuộc khủng hoảng và các điều kiện để nhận khoản viện trợ của
IMF, thì các tổ chức tài chính quốc tế khác như ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển
Châu á và các trợ giúp song phương khác của Nhật, Mỹ, Anh ... mới đồng ý giúp tài
chính cho các nước này. IMF đã đóng vai trò trung tâm trong việc giải quyết khủng
hoảng. Tổ chức này đã đứng ra giàn xếp các giải pháp để các nước này được vay số tiền
khoảng 117 tỷ USD.

17



Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho
Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
Chi tiết về khoản cho vay lên tới 57 tỷ USD của IMF đã được công bố vào ngày
3/12/1997. Các bên cam kết đóng góp số tiền như sau: IMF (21 tỷ USD), Ngân hàng Thế
giới (10 tỷ USD), Ngân hàng Phát triển Châu Á (4 tỷ USD), Nhật Bản (10 tỷ USD), Mỹ
(5 tỷ USD), Anh, Pháp, Đức và Italy (mỗi nước 1,25 tỷ USD). IMF sẽ cung cấp khoản
giải ngân ban đầu của gói cứu trợ, trong khi các cam kết của Mỹ và các nước khác sẽ là
phụ trợ và được giải ngân khi cần thiết. Gói cứu trợ này không phải nhằm thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn của Hàn Quốc. Mục đích của nó là để khôi phục lại nguồn dự trữ
ngoại tệ của Hàn Quốc nhằm củng cố lòng tin của các chủ nợ, như các ngân hàng của
Nhật Bản và các công ty quỹ của Mỹ. Từ đó, họ sẽ giãn nợ đối với các khoản vay ngắn
hạn của Hàn Quốc.
Khoản giải ngân ban đầu từ gói cứu trợ đi kèm điều kiện là Hàn Quốc phải thực hiện
chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt như tăng thuế, tăng lãi suất và giảm chi tiêu của chính
phủ. Sự kết hợp giữa thuế cao và giảm chi tiêu là nhằm giảm thâm hụt tài khoản vãng lai
và để dành tiền phục vụ việc tái cơ cấu nền kinh tế. Tỷ lệ lãi suất cao là nhằm khôi phục
lòng tin vào đồng won Hàn Quốc bằng cách làm cho nó hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu
tư nước ngoài. Tuy nhiên, tỷ lệ lãi suất cao lại có nhược điểm là làm cho tình trạng yếu
kém của các chaebol và các ngân hàng thêm tồi tệ bởi vì nó làm tăng chi phí của các
khoản vay. IMF cũng yêu cầu cải cách cơ cấu, bao gồm yêu cầu Hàn Quốc phải: (1) cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài tự do hơn trong việc mua cổ phần và nắm tỉ lệ chi phối
trong các công ty Hàn Quốc; (2) mở cửa hơn nữa thị trường tài chính nội địa cho các
ngân hàng và các công ty bảo hiểm nước ngoài; (3) yêu cầu các ngân hàng cho vay phải
áp dụng các tiêu chuẩn định giá tín dụng của phương Tây, không được theo mệnh lệnh
của chính phủ; (4) đóng cửa các ngân hàng vỡ nợ; (5) cải cách bộ luật lao động nhằm làm
cho việc sa thải công nhân dễ dàng hơn và làm cho thị trường lao động thông thoáng hơn;
và (6) mở cửa thị trường nội địa cho hàng nhập khẩu bằng cách phá bỏ các rào cản và
giảm thuế


18


3.5. Tác động đối với Việt Nam :
Có một số ý kiến cho rằng vì đồng tiền Việt Nam chưa chuyển đổi được, chưa có thị
trường chứng khoán và mới đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế nên mức
độ ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam sẽ là rất nhỏ hoặc không có. Nhưng trái lại, cuộc
khủng hoảng đã có nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, chủ yếu tập trung vào
những điểm sau :
a) Theo các số liệu ước tính thì khoảng 70% kim ngạch mậu dịch của Việt Nam là với các
nước Đông Á, và chủ yếu được thanh toán bằng USD hoặc vàng. Nhưng khi đồng tiền ở
Đông Á bị phá giá mạnh sẽ tác động xấu tới các doanh nghiệp có quan hệ làm ăn với các
nước Đông Á. Ngoại trừ đồng đô la Singapore và đồng Yên Nhật mới bị mất giá trên
dưới 20%, còn các đồng tiền khác trong khu vực đã bị phá giá từ 80% đến 250% so với
đồng USD. Trong khi đó đồng tiền Việt Nam mới chỉ mất giá chút ít, khoảng trên 10% so
với đồng USD. Điều đó sẽ làm cho hàng nhập khẩu từ các nước Đông Á vào Việt Nam
với mức rẻ gần như tương ứng với mức phá giá của đồng tiền các nước. Do đó hàng nhập
từ Đông Á sẽ lấn át hàng nội của chúng ta ngay tại thị trường Việt Nam. Chính điều này
đã khuyến khích các nhà xuất khẩu của Đông Á tăng lượng hàng bán sang Việt Nam,
đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam nhập hàng từ Đông Á do giá rẻ hơn
bằng cả hai con đường chính ngạch và tiểu ngạch (buôn lậu qua biên giới). Hiện nay, các
doanh nghiệp trong cả nước ta còn tồn kho nhiều hàng của Đông Á sẽ bị lỗ nặng vì giá
các hàng hoá này giảm nghiêm trọng.
Đồng thời, do các đồng tiền Đông Á bị phá giá ở mức cao, đã tạo sức ép đối với hàng
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Đông Á phải giảm giá, nếu không họ sẽ không
nhập hàng của ta. Do vậy nguồn thu vì xuất khẩu sẽ giảm vì hai lẽ : Thứ nhất, giá xuất
khẩu hạ thì doanh nghiệp nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu có thể phải ngừng sản xuất vì
doanh thu không đủ trang trải cho các yếu tố đầu vào. Thứ hai, những doanh nghiệp lớn
có thể tìm được thị trường khác khi bị ép giá, nhưng lượng xuất khẩu giảm đi, đồng thời

doanh thu cũng giảm xuống do giá xuất khẩu hạ. Riêng sáu tháng cuối năm 1997, lợi tức
của Việt Nam chỉ tính từ xuất khẩu của mặt hàng nông sản đã bị mất khoảng 500 triệu
USD. Đồng thời, do giá cả dịch vụ, sinh hoạt hiện nay ở Việt Nam đã cao tương đối,nên
lượng khách du lịch vào Việt Nam cũng bị giảm mạnh. Do đó, hệ số sử dụng phòng
khách sạn chỉ đạt xấp xỉ 50%, kể cả các khách sạn cao cấp cũng trong tình trạng như vậy.
19


b) Do các đồng tiền Đông Á bị phá giá với tỉ lệ lớn, nên đã tạo ra tình trạng đầu cơ, găm
giữ ngoại tệ ở nước ta. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại luôn muốn vượt
trần gây sức ép phá giá đồng tiền Việt Nam. Tình trạng mua bán USD chuyển khoản theo
tỷ giá vượt trần đã xảy ra. Đồng thời, khủng hoảng đã làm cho lượng tiền gửi bằng đồng
Việt Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết kiệm của dân
chúng. Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối nói chung cầu luôn
luôn cao hơn cung, do đó có lúc thị trường gần như đóng băng, doanh số mua bán ngoại
tệ giảm mạnh. Ngoại tệ có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng nhu cầu vay vốn bằng
đồng Việt Nam để tránh rủi ro về tỷ giá và do vậy làm tăng lãi suất đồng Việt Nam. Ngoại
tệ tăng giá mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua được USD hoặc phải mua
với giá cao chịu lỗ nặng.
c) Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt
Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70% so với năm 1996. Đó là do
70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông Á, là những nước đang bị
ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng.
d) Sự giảm sút của FDI cùng với nguy cơ phá sản đối với các công ty của Việt Nam do
khả năng xuất khẩu giảm hoặc do chi phí đầu vào tăng vì lãi suất vay vốn tăng và do giá
hàng nhập tăng đã tạo ra nguy cơ thất nghiệp tăng ở nước ta. Chỉ tính trong 3 tháng cuối
năm 1997, riêng các xí nghiệp liên doanh ở thành phố Hồ Chí Minh đã sa thải 4000 công
nhân vì họ phải thu hẹp các hoạt động hoặc bị giải thể do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng. Năm 1997, cả nước có 47 dự án với nước ngoài bị giải thể, tăng 162% so với năm
1996.


20



×