Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HY LẠP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.22 KB, 16 trang )

MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU
Với thời buổi hiện nay, khi mà nền kinh tế trên thế giới đang ngày càng hoàn thiện, mở
rộng giao lưu, tăng cường hợp tác quốc tế. Toàn cầu hoá là một mục tiêu chiến lược mà cả
thế giới nói chung và mỗi quốc gia, mỗi khu vực nói riêng đã và đang rất quan tâm. Xu
hướng này không chỉ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung trên phạm vi
toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội, hướng đi mới cho các thành phần kinh tế, thúc đẩy phát huy
nội lực và ngoại lực một cách hiểu quả. Không thể phủ nhận tác động tích cực mà xu
hướng này mang lại cho nền kinh tế các nước nhưng nó cũng tiềm ẩn những rủi ro, dưới
tác động vô cùng mạnh mẽ, biến cố xảy ra ở một quốc gia có thể làm ảnh hưởng đến nền
kinh tế của một khu vực bao gồm nhiều nước trong mối quan hệ tác động qua lại với
nhau.
Trên thế giới có nhiều liên minh kinh tế toàn cầu và khu vực. Ta có thể kể đến một số khu
vực liên minh lớn mạnh như là khối NaFTA, ASEAN, APEC, MERCOSUR…trong số đó
ta không thể không nhắc đến khu vực Liên minh Châu Âu (EU)
Như chúng ta đã biết Liên minh Châu Âu(EU) là một liên minh về kinh tế chính trị bao
gồm 27 quốc gia thành viên tại Châu Âu. Và hiện tại, hệ thống tiền tệ chung đang được sử
dụng ở 16 nước thuộc Liên minh châu Âu thường được biết đến với tên gọi khu vực đồng
EURO. Liên minh Châu Âu là một thị trường kinh tế lớn mạnh có sức ảnh hưởng trên thế
giới.
Năm 2008 là một năm đen tối trong lịch sử kinh tế thế giới với cuộc khủng hoảng tài
chính nghiêm trọng xuất phát từ “ bong bóng thị trường bất động sản” Mỹ. Sang đến năm
2009, hệ thống kinh tế tài chính thế giới lại một lần nữa “ nổi sóng” khi cuộc khúng
hoảng nợ công Châu Âu xảy ra đầu tiên tại Hy Lạp và lan ra nhiều nước trong khu vực đã
có sức ảnh hưởng không hề nhỏ tới không chỉ các nước trong khu vực chung Châu Âu mà
còn trên cả thế giới. Tại mỗi đất nước mà cuộc khủng hoảng nợ công đi qua đều có những
sắc thái khác nhau. Và để có những góc nhìn khác về cuộc khủng hoảng nợ công tại Khu
Vực Châu Âu em đã chọn đất nước Hy Lạp để phân tích về đề tài này.



PHẦN 1

TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG, KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG

1.1

Nợ công

1.1.1

Khái niệm

Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF): Nợ công được hiểu là nợ của khu vực tài chính công
và nợ của khu vực phi tài chính công. Trong đó :
+ Khu vực tài chính công gồm : Các tổ chức tiền tệ( Ngân hàng trung ương, các tổ chức
tín dụng Nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ( các tổ chức tín dụng không cho vay mà chỉ
có chức năng hỗ trợ phát triển
+ Khu vực phi tài chính gồm : Chính phủ, tỉnh thành phố, chính quyền địa phương, các
doanh nghiệp phi tài chính Nhà nước.
1.1.2

Phân loại nợ công

Dựa vào tiêu thức phân loại khác nhau, nợ công có thể được chia thành nhiều bộ phận
riêng biệt, có mối quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Sau đây là 3 loại chủ
yếu được sử dụng đối với các khoản nợ của mỗi quốc gia, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu
của quốc gia đó
Phân loại theo nguồn vay nợ
- Nợ trong nước : gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước

- Nợ nước ngoài : gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài
Trong thực tế, Khi tiến hành thống kê và tính toàn giá trị nợ công của một số nước, trong
đó có Việt Nam, người ta chỉ quân tâm đến các khoản nợ nước ngoài mà mặc nhiên bỏ
qua các khoản nợ trong nước. Đây là một hạn chế cần sửa đổi; bởi lẽ, thiếu sót này nhiều
khi đưa đến kết quả không chính xác cho giá trị nợ công của một quốc gia, gây khó khăn
cho các nhà quản lý trong việc nhận thức kịp thời và đúng đắn tình trạng nợ của đất nước
mình để lên kế hoạch, chính sách ứng phó kịp thời và hợp lý.
Phân loại theo chủ thể nợ
- Nợ của Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài ,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước , nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay
khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quền phát hành theo quy định của pháp luật;
không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện
chính sách tiện tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ của chính quyền địa phương: là các khoản nợ do uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
- Nợ được chính phỉ bảo lãnh : là các khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước mà chính phỉ đứng ra bảo lãnh.


Phân loại dựa vào thời hạn nợ
- Nợ ngắn hạn : các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống.
- Nợ trung hạn : các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm.
- Nợ dài hạn : các khoản nợ có thời hạn trên 10 năm.
1.1.3

Các nhân tố ảnh hường tới nợ công

Một yêu cầu tối quan trong đối với các Chính phủ là đảm bảo tỷ lệ nợ công so với GDP là
ổn định, qua đó tăng hiệu quả quản lý nợ, quản lý thâm hụt ngân sách và làm tốt các công
tác dự báo, lập kế hoạch Ngân sách Nhà nước, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô. Để

làm được điều đó, ta cần phải nắm rõ các nhận tố ảnh hưởng đến nợ công, nhận biết các
tác động, ngăn chặn từ đầu, phòng tránh và giải quyết kịp thời các tác động có khả năng
gây bất ổn tới tỉ lệ này.
Từ bản chất nợ công đã phân tích ở trên, có thể nhận thấy mức thâm hụt ngân sách phản
ảnh giá trị tuyệt đối của nợ công chính phủ. Điều đó đồng nghĩa với việc, khi khoảng cách
thâm hụt nhỏ, những khoản vay bù đắp giảm đi, làm cho nợ công được hạn chế.
Thứ hai, lãi suất thực tế có tác động đến các khoản nợ vay của chính phủ, quyết định xem
các khoản nợ này sẽ đắt hơn (khi lãi suất tăng lên) hay giảm đi (khi lãi suất giảm đi). Mặt
khác, việc lãi suất tăng sẽ làm cho các khoản vay của chính phủ khó khăn hơn, không
đảm bảo được cho vay nợ đúng hạn.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng thực tế ảnh hưởng đến nợ công theo hai cơ chế. Một là, nền
kinh tế phát triển hơn thì chính phủ dễ dàng vay tiền hơn, dẫn đến khả năng nợ công tăng
lên. Hai là, tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm phát, dẫn đến việc cấp bù lạm phát
cho các khoản nợ đã đến hạn thanh toán.
Thứ tư, lãi suất ngoại tệ có liên quan đến các khoản vay nước ngoài của chính phủ. Cơ
chế tác động của nhân tố này tương tự như lãi suất thực tế, chỉ khác nhau đề đối tượng
hưởng lãi.
Thứ năm, tỷ giá cũng có tác động tới việc vay nợ nước ngoài. Sự biến động của tỉ giá ảnh
hưởng đến chi phí của khoản nợ công: có thể tăng lên (khi tỉ giá tăng) hoặc giảm đi (khi tỉ
giá giảm).
1.1.4

Các hình thức vay nợ và công cụ vay nợ công

Dựa vào đặc điểm và điều kiện cho vay của các khoản vay nợ, các hình thức vay nợ được
chia vào hai nhóm chính là: vay nợ gián tiếp (chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu) và
vay nợ trực tiếp từ trong và ngoài nước. Mỗi cách vay nợ có ưu, nhược điểm riêng, thích
hợp sử dụng cho những hoàn cảnh riêng, trong điều kiện xếp hạng tín dụng và vị thế nhất
định của mỗi quốc gia.



Vay nợ gián tiếp
Chính phủ các nước có thể tiến hành vay nợ gián tiếp từ các tổ chức, cá nhân để bù đắp
thâm hụt ngân sách thông qua việc phát hành các công cụ nợ như: tín phiếu, trái phiếu,
hình thức chứng chỉ... Trái phiếu trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa rộng, gồm
có: trái phiếu (T-bonds), trái phiếu chính quyền địa phương (Municipal Bonds), trái phiếu
ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc và trái phiếu công trình. ; trong đó, trái phiếu chính
phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng
thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ
phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao
hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh
toán.
Vay nợ trực tiếp
Ngoài cách phát hành giấy vay nợ như một tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của mình,
Chính phủ các nước còn một lựa chọn khác để tài trợ cho các khoản thâm hụt đáng kể
thông qua con đường vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu
quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á,
…). Các nguồn vay này tồn tại dưới một số hình thức phổ biến như: Vay viện trợ phát
triển chính thức, vay có tính chất thương mại hay vay ưu đãi. Thông thường, các hình
thức trực tiếp này được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì
những nước này khó có khả năng vay nợ bằng phát hành trái phiếu chính phủ.
Trong số các khoản vay trực tiếp đã liệt kê, nguồn vay ODA là nguồn vốn bổ sung đều
đặn nhất và có tầm quan trọng lớn đối với các nước đang phát triển. Nguồn vay này có thể
nhận được dưới các thể thức: viện trợ song phương, viện trợ đa phương, viện trợ không
hoàn lại hay viện trợ của tổ chức phi chính phủ.
1.2

Khủng hoảng nợ công

1.2.1


Khái niệm

Hiểu một cách khái quát nhất, khủng hoảng nợ xảy ra khi thâm hụt ngân sách luỹ kế đến
một thời điểm nào đó vượt quá khả năng kiểm soát, điều tiết và trả nợ của chính phủ, dẫn
đến suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng.
Một quốc gia được xác nhận lâm vào khủng hoảng nợ nếu nó được tổ chức Standard &
Poor’s liệt vào danh sách các nước không có khả năng hoàn trả nợ hoặc phải xin vay từ
IMF một khoản lớn (vượt quá 100% hạn mức tín dụng đề ra) để tài trợ cho khoản nợ nói
trên. Ở đây, tiêu chuẩn được đưa ra để Standard and Poor’s xác định một quốc gia là
không có khả năng hoàn trả nợ là việc chính phủ của quốc gia đó không thể thanh toán đủ
gốc hoặc tiền lãi cho các khoản nợ nước ngoài vào ngày đáo hạn hoặc trong thời gian ân
hạn quy định (bao gồm các khoản phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán nợ bằng hối
phiếu, nghiệp vụ SWAP tài sản nợ..) Như vậy, tình hình vay nợ bất thường với quy mô
lớn tại Quỹ tiền tệ quốc tế IMF là một trong những dấu hiệu báo trước cho những bất ổn
trong tình trạng nợ công của một quốc gia, có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng nhanh
chóng.


1.2.2

Đặc điểm khủng hoảng nợ công

Dựa vào những định nghĩa nêu trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng quan trọng mang tính
bản chất đối với các cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới.
Một là, khủng hoảng nợ công mang bản chất là khủng hoảng kinh tế, làm suy giảm các
hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.
Hai là, khủng hoảng nợ công không phân biệt quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát
triển. Điều này có nghĩa là, bên cạnh vấn đề thiếu nợ thường xuyên tái diễn ở các quốc gia
thuộc “Thế giới thứ ba”, khủng hoảng nợ hoàn toàn có khả năng xảy ra ở những nước

phát triển, nơi nền kinh tế tăng trưởng một cách tương đối cao và ổn định.
Ba là, khủng hoảng nợ công một khi đã diễn ra thường kéo dài trong một thời gian, kéo
theo nhiều hệ lụy không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong chính trị - văn hóa - xã hội.
Bốn là, khủng hoảng nợ công gắn liền với mức độ tín nhiệm của chính phủ quốc gia xảy
ra sự kiện. Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của
các tổ chức chuyên đánh giá tín nhiệm công ty và quốc gia, niềm tin của người dân và
giới đầu tư bị lung lay; khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực
đầu cơ quốc tế.
PHẦN 2
1.3

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HY LẠP

Nguyên nhân dẫn đến nợ công.

Gia nhập vội vã
Than vọng tạo ra một khối kinh tế chung có sức ảnh hưởng đã khiến cho các thành viên
sang lập lúc bấy giờ muốn có càng nhiều thành viên càng tốt. Điều đó khiến các tham
vọng chính trị va vấp với thực trạng kinh tế của các quốc gia.
Năm 1996, để chuẩn bị cho việc ra mắt đồng euro, Hội đồng châu Âu đã họp tại Dublin
để thảo luận các vấn đề cần thiết. Và liên minh châu Âu EU ký hiệp ước Maastricht quy
định để tham gia vào khu vực đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải đáp ứng
nhiều chuẩn mực, trong đó có quy định mức bội chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc
bằng 3% GDP, nợ chính phủ nhỏ hơn hoặc bằng 60% GDP. Theo quy định, Hy Lạp không
đủ điều kiện để tna gia khu vực đồng tiền chung, Nhưng vào 1/1/2001, mặc dù chưa đủ
chuẩn, Hy Lạp vẫn được chấp thuận gia nhập với điều kiện phải nỗ lực cải thiện thân hụt
ngân sách và nợ Chính phủ. Tuy nhiên đến nay các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của
Hy Lạp. Bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu
hướng ngày càng tăng.
Khiếm khuyết về mặt cơ cấu của Eurozone

Hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu và 16
ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. ECB điều hành chính sách tiền tệ.
Quy định này tạo nền tảng cho việc hành thành và ổn định đồng euro. Trong khi đó các


chính phủ thành viên lại quản lý chính sách tài khoá. Nhưng chính sách tài khoá và chính
sách tiền tệ lại có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Hy Lạp khi đó đã có mức thâm hụt ngân sách quá cao so với quy định( 14%GPD ). Tuy
nhiên, việc cam kết giảm thâm hụt ngân sách về mức 3% được xem như bất khả thi. Vào
năm 2004, việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế giả mạo đã rõ như ban ngày. EU đã mở
cuộc điều tra đầu tiên nhắm vào tình trạng bội chi của Athens. Mặc dù Cơ quan Thống kê
châu Âu thu thập đủ bằng chứng về sự gian dối số liệu của Hy Lạp, nhưng các quan chức
của châu Âu vẫn tuyên bố rằng, việc trục xuất HL khỏi Khu vực đồng tiền chung Euro
không phải là lựa chọn của họ.
Sự yếu kém của chính quyền trong điều hành nền kinh tế.
Việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để HL có thể tiếp cận với thị trường vốn
quốc tế bởi việc sử dọng một đồng tiền được những nền kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo
đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu, HL
nghiễm nhiên có được hình ảnh ổn định và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư và dễ dàng
thu hút vốn đầu tư nước ngoài với mực lãi suất thấp. Trong gần một thập kỉ qua, chính
phủ HL liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỉ đô. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh
tế HL tiền rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Nhưng điều này không xảy ra,
các đời chính phủ HL đã tiêu quá tay mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả
nợ, trong đó có thể kể đến như thế vận hội Olympic 2004. Có lẽ cơ hội được tiếp cận dễ
dàng nguồn tín dụng rẻ từ khi gia nhập Eurozone đã khiến cho chính phủ HL chi tiêu quá
tay mà quên mất những nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai:

1.4




Bộ máy công quyền cồng kềnh và thiếu hiệu quả của HL chính là nhân tố chính
đằng sau sự thâm hụt của quốc gia này.



Sự già hoá dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực
châu Âu của HL cũng được coi là mội trong những gánh nặng cho chi tiêu công.



Nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thân hụt ngân sách và
gia tăng nợ công. Tham nhũng và trốn thuế là nhân tố quan trọng làm giảm nguồn
thu ngân sách.



Tỷ lệ thất thoát thuế ở HL thuộc hàng lớn nhất châu Âu và cũng là con số khá cao
trên thế giới, số tiền thất thoát lên tới 25%.



Cơ cấu vốn vay bất hợp lý : chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn



Hấu hết các khoản nợ của HL là ngắn hạn, trong đó, số nợ phải trả trong năm 2010
là 16% tổng nợ. Khi khác khoản vay ngắn hạn chưa phát huy được hiệu quả thì
chính phủ lại phải lo trả nợ . Điều này càng làm gia tăng áp lực nợ lên chính phủ.
Tác động khủng hoảng nợ công tới Hy Lạp


Hy Lạp mắt xích tương đối yếu của khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Tưởng
chừng gia nhập EU sẽ giúp Hy Lạp có thể vay với lãi suất thấp cùng với những khoản vay


khổng lồ. Nhưng việc này lại tới lạm phát, dẫn tới tình trạng leo thang của giá cả. Đi cùng
với đó, cuộc khủng hoảng năm 2008 càng khiến kinh tế nước này thêm nguy khốn.
1.4.1

Về kinh tế

− Khủng hoảng được dánh dấu bằng sự kiện ngày 5/11/2009 chính phủ Hy Lạp thông
báo thâm hụt ngân sách 2009 ở mức 12,7%GDP, cao gáp đôi con số trước đó và sẽ
cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ.
− Tổng số nợ công năm 2009 của Hy Lạp là 300 tỷ euro, chiếm 124% GDP. Mức thâm
hụt ngân sách 15,4% GDP cuối năm 2009, mức cao chưa từng có trong khu vực
đồng tiền chung châu Âu ( cao gấp đôi so với mức 6,7 % được tính đó, trong khi
tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục âm (-2%)
− 22/12/2009 Moody( cơ quan thứ 3 xếp hạng tín dụng của Hy Lạp) hạ xếp hạng nợ
của Hy Lạp xuống mức A2 từ mức A1 bởi thâm hụt NS nước này tăng cao.
− Cuộc khủng hoảng này còn làm mất niềm tin nhà đầu tư: Standart&Poor dã giảm
điểm tín nhiệm của Hy Lạp xuống 3 nấc, các nhà đầu tư còn lo ngại sự cứu trợ của
Liên minh không đủ mạnh sẽ làm triệt tiêu tăng trưởng Hy Lạp... dẫn đến nguy cơ
rút vốn hàng loạt.
− Lo ngại về tương lai của Hy Lạp với những kế hoạch mờ mịt khiến các nhà đầu tư lo
sợ, bán ồ ạt trái phiếu CP => Lãi suất cho những đợt phát hành nợ sắp tới leo thang
không ngừng, gánh nặng nợ nần càng căng thẳng.

1.4.2


Về xã hội.

− Để chấp nhận gói cứu trợ 110 tỷ euro của EU và IMF, CP Hy Lạp phải đưa ra một
loạt các biện pháp hà khắc” Thắt lưng buộc bụng”, khu vực công cắt giảm tối thiểu


1000euro các khoản thưởng cuối năm, cắt hoàn toàn cho những người có lương từ
3000 euro mỗi tháng, giảm 8% trợ cấp, 3% chi tiêu công...tăng thuế VAT, thuế vào
mặt hàng xa xỉ... để nhằm tăng nguồn thu NS
− Dấy lên làn song phản đối mạnh mẽ của người dân. 5/5/2010, mọi hoạt động tê liệt
vì đình công, xã hội hỗn loạn.. Mặt khác điều này ảnh hưởng đến sức mua của các
hộ gia đình, gánh nặng cho người dân.. tỷ lệ thất nghiệp tăng.
− Tỷ lệ thất nghiệp tại nước này trong đã chạm ngưỡng kỷ lục mới 27,2%, tăng gấp 3
lần kể từ khi cuộc khủng hoảng nợ công của nước này bùng phát năm 2009 và tăng
gấp 2 lần tỷ lệ thất nghiệp trung bình của khu vực đồng tiên chung châu Âu. Tỷ lệ
thất nghiệp của người trẻ tuổi tại Hy Lạp đứng ở mức trên 59%, tăng hần 1% so với
cùng kỳ năm 2012. Điều này cho thấy, kinh tế Hy Lạp vẫn đang chìm sâu vào suy
thoái sau 3 năm áp dụng biện pháp thắt lưng buộc bụng. Nhiều người dân Hy Lạp đã
bày tỏ sự bi quan khi số liệu trên được công bố.
− Trước những tác động tiêu cực vào thị trường khiến Hy Lạp càng sa chân vào vòng
xoáy nợ nần làm mất dần niềm tin của người dân với chính phủ
1.5

Hiệu ứng tới các nước trong khu vực và trên thế giới

1.5.1

Về kinh tế

− Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đã làm rung động thị trường tài chính châu Âu và

toàn cầu. Thị trường chứng khoán thế giới đã có những phiên giao dịch diễn ra trong
hoảng loạn và sự phục hồi kinh tế thế giới đang bị đe dọa nghiêm trọng
− Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp đã kéo theo mối lo ngại về một hiệu ứng
khủng hoảng domino lan rộng khắp Châu Âu. Sau Hy Lạp, các nước như Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Ai-len và Ý là những nước phải đối mặt với nguy cơ khủng
hoảng nợ công. Tây Ban Nha có tỷ lệ thất nghiệp lên tới 20%, thâm hụt ngân sách
trên 10% GDP; Bồ Đào Nha có thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở mức
cao, tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp, nợ công của Ý chiếm 106,1% GDP (năm 2008)





Cuộc khủng hoảng nợ công là 1 trong những nguyên nhân khiến sự phục hồi kinh
tế của khu vực đồng tiền châu âu chậm hơn.



Các nước Pháp, Đức, Thụy Sĩ đứng trước nguy cơ không đòi được nợ vì ngân khố
Hy lạp đã cạn kiệt gây ảnh hưởng xấu tới ngân sách của nước chủ nợ, cuộc khủng
hoảng bắt đầu lây lan sang các nước trong khu vực.



Các quốc gia thuộc Eurozone đã dung các biện pháp :”để trả nợ phải thắt chặt chi
tiêu-thắt chặt chi tiêu khiến nền kinh tế đi xuống-nền kinh tế đi xuống làm nợ tăngnợ tăng lại phải vay thêm-muốn vay thêm lại phải thắt chặt chi tiêu” =>không thoát
được kiếp nợ nần




Ảnh hưởng đến thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Châu Âu: Nguy cơ vỡ
nợ của Hy Lạp khiến cho trái phiếu chính phủ Athens phát hành không còn được
xem là trái phiếu hạng đầu tư , mà là loại chứa đựng nhiều rủi ro.Điều này làm mất
long tin của nhà đầu tư , và tệ hại hơn nữa nếu họ quá hoảng sợ và bán tháo các
khoản đầu tư tại các nước này , buộc các nước này phải trả lãi cao hơn nếu tiếp tục
muốn vay tiền khiến các khoản nợ ngày càng chồng chất . Hệ quả là các quốc gia
này rơi vào vòng xoáy nợ nần và tình trạng tồi tệ có thể lan sang các nước khác
nữa. Các nhà đầu tư ngại rót vốn vào hệ thống ngân hàng Châu Âu do các ngân
hàng này đang ôm rất nhiều trái phiếu chính phủ . Trong khi đó , Hy Lạp vẫn đang
đối mặt với rủi ro vỡ nợ rất lớn do tình trạng mất khả năng thanh toán đang cản trở
quốc gia này trong việc hoàn trả các khoản nợ khi chương trình cứu trợ kết thúc
trong 3 năm tới . Sự vỡ nợ của Hy Lạp và một số nước Châu Âu có thể tăng tốc
quá trình sụp đổ của những ngân hàng đang ôm nhiều trái phiếu quốc gia , làm suy
giảm long tin vào các ngân hàng . Nếu các nhà đầu tư không sẵn sang đầu tư thêm
vào ngân hàng , thì khả năng nhiều ngân hàng đổ vỡ chỉ còn tính theo tháng chứ
không theo năm , bất chấp những nỗ lực trên đây của ECB



Ảnh hưởng đến đồng Euro: Mặc dù chỉ chiến 2%GDP của EU , những khủng
hoảng nợ của Hy Lạp sẽ tác động mạnh tới sự ổn định của đồng Euro , tạo nên
phản ứng dây chuyền đối với các nền kinh tế trong khu vực , do Hy Lạp dung đồng
Euro , bê đối về tài chính của họ làm suy yếu đồng tiền này và có thể sẽ làm tỷ giá
trên toàn Châu Âu tăng cao . Những rắc rối về nợ công ở Hy Lạp đã châm ngòi cho
cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử 11 năm của khu vực sử dụng đồng tiền
chung Euro. Giá trị đồng Euro đang giảm đi một cách tương đối so với USD .Tính
đến tháng 7/2010 , euro đã giảm khoảng 15,7% so với USD , 8,5% so với GBP và
20% so với JPY . Điều này đang đặt một gánh nặng lên vai các nhà xuất khẩu Châu
Âu. Euro mất giá là bằng chứng rõ nét nhất về sự lo ngại của giới đầu tư trước
cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp và sự bất lực của Eurozone trong việc đảm báo các

quốc gia thành viên tuân thủ chặt chẽ các quy định về chính sách tài khóa.


1.5.2

Về xã hội:



Sự mất cân bằng của nền kinh tế đã dẫn đến sự mất cân bằng xã hội: hàng loạt
những cuộc biểu tình phản đối các chính sách của chính phủ đã diễn ra rộng khắp ở
những nước phải đưa ra các biện pháp thắt chặt chi tiêu công như Hy Lạp, Ai-len,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… Những cuộc bãi công liên tục đẩy các đất nước này
vào tình Nợ công Hy Lạp.



Những bất đồng quan điểm về chính trị: Sau khi khủng hoảng diễn ra tại Hy Lạp.
các nước thành viên trong khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu đã có những
tranh luận sôi nổi xung quanh câu hỏi có nên chăng hỗ trợ chính quyền Athens.
Đặc biệt là quốc gia gương mẫu EU về quản lý ngân sách. Nên theo nước này nếu
cứu Hy Lạp sẽ tạo ra những tiền lệ đáng sợ bất công cho các thành viên EU khác.
Sở dĩ Đức luôn có thặng dư ngân sách là do tiêu xài đúng mực. Thậm chí còn phải
tiết kiệm. Còn Hy Lạp nợ công nhiều quá vì tiêu xàu quá mức trong khi chẳng
kiếm là bao, là nền kinh tế đàu tàu của 16 quốc gia sử dụng đồng Euro. Đức phải
đứng ra gánh vác phần trách nhiệm chính ttrong bất kỳ kế họahc giải cứu nào. Do
vậy họ không muốn tiền thuế của dân bị sử dụng bất cần. Một cuộc trưng cầu dân ý
tại Đức mới đây cho thấy. đại đa số dân chúng nước nàyy không muốn chính phủ
giúp Hy Lạp. Tuy nhiên, ủy ban Châu Âu và nước đang giữ ghế chủ tịch EU là Tây
Ban Nha một mực cho rằng việc giải cứu Hy Lạp là điều cần thiết. Pháp và Italy

cũng ủng hộ lời kêu gọi của Hy Lạp. Nhóm các nuuớc đều đồng quan điểm cho
rằng trong trường hợp các nước thuộc khu vực đồng tiền chung Châu Âu không
đáp ứng nhu cầu cấp bách của Hy Lạp, nước này sẽ buộc phải hướng về IMF. Điều
này theo nhiều nhà quan sát sẽ gây ttổn hại tới uy tín của các nước thuộc khu vực
đồng tiền chung Châu Âu và khiến cuộc khủng hoảng tài chính ở Hy Lạp trở nên
phức tạp hơn, kéo theo cuộc khủng hoảng xã hội. Có thể nói liên minh gồm 27
thành viên này đang trải qua bài kiểm tra khắc nghiệt nhất trong nhiều năm trở lại
đây.

− Bất ổn xã hội : Từ lâu nay hệ thống phúc lợi xã hội ở Châu Âu. Xây dựng sau chiến
tranh thế giới thứ II được coi như là 1 viên đá của việc chia sẻ phồn vinh nhằm ngăn
ngừa xung đột tương lai. Thế nhưng hệ thống lý tưởng đó đang bị đe dọa bởi nợ
công ngày càng lớn. Đó là hậu quả của 1 thời gian dài vung tay quá trán đã khiến
nhiều nước Châu Âu bị thủng túi ngân sách. Trung tâm của sự giận dữ không đâu
khác chính là Hy Lạp. Cái nôi của khủng hoảng nợ. Biểu tình bãi công đã làm tê liệt
hệ thống giao thông. Đường thủy lẫn bộ , nhiều chuyến bay quốc tế nội địa bị hủy
bỏ lùi giờ do các nhân viên tham gia bãi công. Thành phố hoàn toàn vắng bóng xe
bus. Trong khi tàu biển neo đậu dường như bất động tại cảng. Các cơ quan hành
chính. Bệnh viện và cả các công ty nhà nước đều bị tác động nghiêm trọng. Đây
cũng chính là thực trạng chung đối với nhiều quốc gia ở lục địa già khi chiến dịch
cắt giảm ngân sách ngày càng được tăng tốc. Làn sóng phẫn nộ cũng như nỗi lo về
khủng hoảng nợ của cả Châu Âu dường như đã tứi mức không thể ngăn chặn. công


nhân đình công hàng loạt ở các nhà máy ở Bồ Đào Nha. Ireland phải cắt giảm chi
tiêu mạnh nhất trong lịch sử. sinh viên ở Italia, Anh đụng độ với cảnh sát trong các
cuộc biểu tình chống cắt giảm ngân sách .
1.6

Giải pháp đề ra


Nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng, các quốc gia châu Âu đã phải thực hiện hàng loạt
những chính sách thắt chặt ngân sách một cách hết sức khắc khổ nhằm chứng minh quyết
tâm giảm thâm hụt ngân sách xuống chỉ còn 3% GDP và nợ công dưới mức 60% GDP,
bên cạnh sự hỗ trợ trực tiếp từ EU và IMF.EU không hề có ý định muốn khu vực đồng
tiền chung châu Âu tan vỡ, bởi nó sẽ gây hậu quả tiêu cực đến toàn bộ các quốc gia khác
không chỉ ở Châu Âu mà còn trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nhằm kéo các quốc gia thành
viên ra khỏi cơn bão khủng hoảng là một vấn đề hết sức khó khăn và tốn kém. Bên cạnh
việc hỗ trợ trực tiếp thông qua việc thành lập Quỹ bình ổn tài chính Châu Âu
EFSF(European Financial Stability Facility), EU yêu cầu các quốc gia này phải tự mình
có những biện pháp nhằm cắt giảm mức thâm hụt ngân sách hiện có. Những chính sách
này phải có lộ trình rõ ràng và được công bố chi tiết.
Tại Hy Lạp, bắt đầu từ năm 2010 đến nay, quốc gia này đã thực hiện liên tục năm đợt
chính sách nhằm tăng nguồn thu cũng như giảm chi tiêu chính phủ. Cụ thể, đợt đầu tiên
vào tháng hai năm 2010, chính phủ quyết định không tăng lương công chức, cắt giảm
10% phụ cấp, cắt lương làm thêm giờ… Đợt thứ hai diễn ra chỉ một tháng sau đó, tiền
phụ cấp giảm tiếp 12%, lương công chức cũng giảm 7%, thuế giá trị gia tăng tăng từ
19% lên 21%, cùng hàng loạt các loại thuế mới được đặt thêm.
Hai tháng sau đó, lại một đợt chính sách khác được ban hành. Lần này chính phủ giảm cả
lương hưu, tăng tuổi về hưu, thuế giá trị gia tăng lại tăng tiếp lên 23%. Sang đến giữa
năm 2011, lương hưu lại tiếp tục bị cắt giảm, các đối tượng có thu nhập cao bịđánh thuế
mạnh hơn, cùng với việc gia tăng thuế bất động sản cùng các tài sản có giá trị khác.
Cuối cùng đầu năm 2012, chính phủ lại tiếp tục cắt giảm tiền lương tối thiểu, sửa đổi luật
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh nhiều hơn và sa thải được nhiều nhân công
hơn, các chi tiêu cơ bản cho y tế và quốc phòng cũng bị cắt giảm. Việc liên tục phải có
những chính sách mới nhằm làm giảm thâm hụt là do khi đã thực hiện chính sách thắt
chặt, kinh tế suy thoái dẫn đến nguồn thu không nhiều, hiệu quả của các chính sách không
cao và chính phủ lại tiếp tục phải có những chính sách mới thắt chặt hơn nữa (Nelson,
Belkin & Mix, 2010).
Ireland cũng tương tự Hy Lạp, phải thi hành hàng loạt chính sách cắt giảm chi tiêu công

và cố gắng gia tăng nguồn thu ngân sách của mình. Cụ thể thông qua việc giảm lương tối
thiểu, cắt giảm biên chế trong các tổ chức công, tăng thuế giá trị gia tăng, đánh thuế mạnh
vào bất động sản và các tài sản có giá trị, đồng thời thiết lập hàng loạt các loại thuế mới.
Các quốc gia khác như Bồ Đào Nha, Ý hay Tây Ban Nha cũng đều phải thực hiện những
chính sách tương tự. Ngoài ra, Ireland còn phải bắt tay vào tái thiết lại hệ thống ngân
hàng. Những chính sách và quy định mới nhằm giám sát và quản lý hệ thống tài chính
ngân hàng đã được đưa ra. Ngoài ra, do những tác động gián tiếp đẩy mạnh cuộc khủng
hoảng của các cơ quan đánh giá tín dụng (Featherstone, 2011), Ủy ban châu Âu EC còn


đề xuất thành lập một tổ chức mới giám sát các cơ quan xếp hạng tín dụng và coi đó là
một trong những nỗ lực nhằm đẩy mạnh hệ thống giám sát tài chính trong khu vực. EC
cũng sẽ xem xét việc thành lập một cơ quan xếp hạng tín dụng độc lập châu Âu, đồng thời
can thiệp tích cực hơn vào các tổ chức xếp hạng tín dụng chung.


Trong khi áp dụng các các giải pháp mà chính phủ các nước đã và đang thực hiện
thì chính phủ cần phải tuân thủ nghiêm những nguyên tắc sau để đảm bảo tình hình
một cách khách quan và hiệu quả nhất:



Công bố những thông tin tài chính chính xác: tạo ra những tiêu chuẩn trong việc nợ
công, thâm hụt ngân sách và chính sách công



Chi tiêu công phải minh bạch, hợp lý.




Đấu thầu các dự án một cách công khai, minh bạch nhằm chọn lựa được những nhà
thầu có năng lực nhất.



Tập huấn và nâng cao trình độ quản lý cũng như trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ
trong các doanh nghiệp trong nước.



Tái cơ cấu nợ: những người mua trái phiếu sẽ được trả khoản tiền ít hơn so với lúc
họ cho vay tuy nhiên điều này có thể ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng Châu Âu



Các nước thâm hụt ngân sách cần phải được phép tái tài trợ khoản nợ của mình với
các điều khoản tương tự như thặng dư ngân sách



Phát hành Eurobond do tất cả các quốc gia đảm bảo……..


PHẦN 3

KẾT LUẬN

Thông tin khủng hoảng nợ công Hy Lạp đã trở thành nỗi ám ảnh khiến nhiều nước trên
Thế giới lo ngại. Từ đó đến nay, với hàng loạt các gói cứu trợ từ Châu Âu và các tổ chức

tín dụng lớn, Hy Lạp vẫn là con nợ khổng lồ. Nguy hiểm hơn nó gây ra hiệu ứng domino
trong khu vực đồng tiền chung. Các nền kinh tế đầu tầu như Đức, Pháp cũng không tránh
khỏi “làn sóng” này. Tác động của khủng hoảng nợ công, điều gì sẽ xảy ra ai cũng có thể
hình dung được. Song qua những gì đã xảy ra, Châu Âu cần phải có những biện pháp
khắc phục để tránh cho một sụp đổ không đáng có.


Tài Liệu Tham khảo
- www.zacks.com
- www.nytimes.com
- www.marketwatch.com
- www.tradingeconomics.com
- www.oneinbillionblog.com
- www.fbt.com



×