Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về chính sách xã hội và việc vận dụng ở bến tre trong thời kỳ đổi mới - luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.26 KB, 118 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991), Đảng ta
đã trân trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng: "Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động" [18, tr. 187]. Sự khẳng định thể hiện rõ Đảng đã nhận thức khoa học,
sâu sắc về vai trò quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Để cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức rõ hơn, vận
dụng tốt hơn trong thực tiễn đời sống xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng đã chỉ rõ:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết
quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại [21, tr.
83].
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về chính sách xã hội
là một bộ phận quan trọng và được thể hiện xuyên suốt trong chủ trương,
đường lối chính sách, tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam phù
hợp với thực tiễn, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng. Cho đến những
năm tháng cuối đời, chuẩn bị cho việc "đi xa", Người viết trong Di chúc:
Đầu tiên là công việc đối với con người.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương


2



máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung
phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho
họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề
thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh".
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần
xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các
liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu
sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông
thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ
họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân
dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến
đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu
tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào
tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt,
lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công
cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta
đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và
Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc
và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể
cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên.
Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho
phụ nữ.
Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp,
gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v..., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo



3

dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những
người lao động lương thiện.
Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến
chống đế quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn
luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của
góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta đã
hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm
cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát
lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất [49, tr.503-504].
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính
sách xã hội và đã ban hành nhiều luật mới, có sửa đổi và bổ sung các luật như
Luật Thanh niên, Luật Hôn nhân gia đình, Pháp lệnh Người có công, Pháp
lệnh Người cao tuổi, các nghị định 134, 135 về xoá đói giảm nghèo; phát động
xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết v.v... Hiện nay, trong sự nghiệp đổi
mới, Đảng và Nhà nước ta càng coi trọng hơn nữa đến chính sách xã hội. Đây
cũng là đòi hỏi của thực tiễn.
Đất nước trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh nên hậu quả của nó để lại
không nhỏ. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội,
nước ta có trên 4,5 triệu thương binh và người tàn tật; trên 1 triệu người già,
có con em bị mất trong chiến tranh không có khả năng tự nuôi sống bản
thân; trên 300.000 trẻ mồ côi và hàng vạn bộ đội xuất ngũ có nhu cầu cấp
bách về việc làm. Hậu quả chiến tranh còn để lại nhiều di chứng cho các thế
hệ sau như nhiễm chất độc da cam, hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống và hoạt động sản xuất của nhân dân. Để giải
quyết hậu quả của chiến tranh đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải thực hiện chính
sách xã hội như chính sách đối với nạn nhân chiến tranh, chính sách đối với
người có công với cách mạng, chính sách đối với thương binh, với thân nhân
các liệt sĩ v.v…



4

Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
tạo những điều kiện thuận lợi cho nước ta phát triển về kinh tế - xã hội với nhịp
độ nhanh hơn, chất lượng cao hơn; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát
triển. Bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn tồn tại mặt yếu kém như: thất nghiệp,
chênh lệch về thu nhập, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội… Những tác động
tiêu cực này nếu không được chú trọng giải quyết sẽ trở thành lực cản đối với
quá trình đổi mới và phát triển. Để phát triển bền vững, Đảng, Nhà nước cần thực
hiện tốt chính sách xã hội và coi đó là biểu hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ
ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006), đã đánh giá
những mặt đạt được trong thực hiện chính sách xã hội: "Công tác xóa đói giảm
nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, biện pháp; đến cuối năm 2005, tỉ lệ
hộ nghèo (theo chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001-2005) còn 7% (năm 2001
là 17,5%, kế hoạch là 10%)" [23, tr. 58].
Đại hội X tiếp tục khẳng định:
Trong 5 năm, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Thu nhập
bình quân đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên 10 triệu
đồng năm 2005.
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt được
nhiều kết quả: mở rộng mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở; khống
chế và đẩy lùi một số dịch bệnh nguy hiểm; tuổi thọ trung bình của
dân số nước ta tăng từ 67,8 (năm 2000) lên 71,5 (năm 2005)… Các
phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công, Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng, thương binh, gia đình liệt sĩ … thu hút sự tham gia
rộng rãi của các tầng lớp nhân dân [23, tr. 58-59].

Xác định mục tiêu nhiệm vụ những năm tiếp theo, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X xác định:


5

Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong
phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh
tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực
mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế xã hội. Tập trung
giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc [23, tr. 102].
Đồng thời, Đại hội X của Đảng còn chỉ rõ: cần phải khuyến khích mọi
người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói
giảm nghèo; xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ
thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân; đa dạng
hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động,
hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao; tiếp tục đổi mới chính sách tiền
lương, chính sách phân phối thu nhập; chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội;
chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho người già, nhất là những người
già cô đơn, không nơi nương tựa; giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người
tàn tật, trẻ mồ côi, trẻ lang thang.
Bến Tre là một tỉnh giàu truyền thống cách mạng, là "chiếc nôi Đồng
khởi" và là một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước. Hòa bình lập lại, cả nước nói chung, Bến Tre nói riêng phải gánh
chịu hậu quả chiến tranh hết sức nặng nề và những mất mát vô cùng to lớn với
hàng ngàn liệt sĩ, thương bệnh binh, nạn nhân chất độc da cam, tàn dư chế độ
Mỹ - Ngụy về văn hóa, xã hội. Để giải quyết hậu quả của chiến tranh, đòi hỏi
Đảng bộ, chính quyền địa phương phải thực hiện chính sách xã hội như chính

sách đối với nạn nhân chiến tranh, chính sách đối với người có công với cách
mạng, chính sách đối với thương binh, xóa bỏ tàn dư chế độ cũ và những vấn
đề mới nảy sinh.


6

Trong giai đoạn hiện nay, Bến Tre đang cùng với cả nước bước vào
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc giải quyết tốt chính sách xã hội là
một trong những động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Trong những
năm qua, Đảng bộ và chính quyền địa phương đã thực hiện tốt chính sách xóa
đói giảm nghèo theo Chương trình 134, 135; chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm
sóc người có công, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thương binh, gia đình liệt sĩ; giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động và phòng chống các tệ nạn xã hội.
Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đặt ra những
vấn đề: thất nghiệp, chênh lệch về thu nhập, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã
hội. Vì vậy, đòi hỏi phải nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã
hội, nhằm vận dụng tốt hơn nữa chính sách xã hội theo tư tưởng của Người ở
Bến Tre. Đó là lý do tác giả chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội và việc vận dụng ở Bến Tre trong thời kỳ đổi mới" làm đề tài
luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bước đầu tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội là một bộ phận tư tưởng của Người về con người và chính sách
đối với con người, về vấn đề bồi dưỡng nhân tố con người trong sự nghiệp
cách mạng. Đã có một số đề tài nghiên cứu hội thảo khoa học và đã được xuất
bản liên quan đến vấn đề, chẳng hạn như:
+ PGS.TS Lê Sỹ Thắng chủ biên (1996) Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề con người và chính sách xã hội, đề tài mã số KX02 (1991 - 1995) thuộc
chương trình khoa học cấp nhà nước KX02.05, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội. Đã nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề con người, về chính sách xã hội và quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với
con người.
+ Năm (2001- 2002), Viện Nghiên cứu con người thuộc Trung tâm khoa
học xã hội và nhân văn Quốc gia đã tổ chức hội thảo khoa học: Tư tưởng Hồ


7

Chí Minh - phương pháp luận nghiên cứu con người. Các tham luận đã được tập
hợp in thành ba tập Niên giám (kỷ yếu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trong
đó có một số tham luận đề cập tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội.
+ TS. Phạm Ngọc Anh chủ biên (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
quyền con người và vận dụng tư tưởng đó trong điều kiện nước ta hiện nay,
đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
+ GS.VS.TSKH Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển
con người phục vụ phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
1996, trong đó có phần đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục: chỉ rõ
những quan điểm tư tưởng cơ bản về giáo dục, diệt dốt và nâng cao dân trí
của Hồ Chí Minh.
+ PGS.TS Thành Duy (2001): Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Trong đó tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa văn hóa và việc xây
dựng con người mới ở Việt Nam, đồng thời khái quát quan điểm của Hồ Chí
Minh về bản chất con người Việt Nam, về xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện trong bối cảnh hiện nay.
+ TS. Lê Quang Hoan (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
+ Nguyễn Văn Thanh (2006), Chính sách tài năng trẻ - nghiên cứu lý
luận và thực tiễn, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

+ GS. Đỗ Nguyên Phương chủ biên (1999), Bác Hồ với y tế, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
Đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề cập nội dụng có liên
quan đề tài luận văn như:
+ Nguyễn Hữu Công (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện, Luận án tiến sĩ Triết học. Tác giả tập trung nêu lên quan


8

điểm về giáo dục, đào tạo phát triển con người toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chỉ ra vai trò của nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa trong quá trình
hình thành và phát triển con người toàn diện, về con đường hình thành và phát
triển con người toàn diện theo quan niệm của Hồ Chí Minh. Từ đó tác giả đưa
ra hướng vận dụng và phát huy tư tưởng phát triển con người toàn diện theo
quan niệm Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng con người mới ở Việt Nam
hiện nay.
+ Phùng Thu Hiền (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người
với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Triết học. Tác giả đã nêu lên tư tưởng Hồ Chí Minh về
khái niệm con người, nhân tố con người, chỉ ra cơ sở hình thành và nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người. Từ đó tác giả nêu lên những
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc vận dụng tư tưởng này của Hồ
Chí Minh và chỉ ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con
người trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
- Một số bài viết đã được đăng tải trên các tạp chí có nội dung liên
quan và có giá trị tham khảo. Đó là:
+ PGS.TS Nguyễn Văn Tài có bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người và phát huy nhân tố con người, Tạp chí Triết học, số 2(153), 2004. Nội
dung bài viết đề cập đến quan niệm về con người của Hồ Chí Minh, mối quan

hệ thống nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội, con người giai
cấp, dân tộc và nhân loại.
+ PGS.TS Thành Duy với bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
chính sách đối với con người, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12, 2005. Bài viết đã khái
quát lại tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người: Bản chất con người, những
phẩm chất cơ bản của con người và một số chính sách đối với vấn đề con người.


9

+ GS. TS Hoàng Chí Bảo với bài Phát triển xã hội và quản lý sự phát
triển trong tiến trình đổi mới, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, 2008.
+ TS. Cao Tấn Khổng với bài Bến Tre gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế
với công tác giảm nghèo, Báo xuân Đồng Khởi Bến Tre, 2008.
+ Ngô Hoàng Anh: Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề xóa đói giảm
nghèo, Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền, số 8, 2006.
+ Lê Quang Hoan: Đảng và Nhà nước ta thực hiện chính sách xã hội
theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10, 1999.
+ Bùi Công Nhơn: Công bằng xã hội - mục tiêu cốt lõi trong chính
sách xã hội của Đảng ta, Tạp chí Cộng sản, số 5, 2007.
+ Nguyễn Thị Nga: Xóa đói, giảm nghèo: nhìn từ góc độ kết hợp tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số
5, 2007.
+ Nguyễn Hữu Hải: Công bằng xã hội trong chính sách bảo trợ xã hội
với tăng trưởng kinh tế, Tạp chí Cộng sản, số 5, 2007.
+ Đặng Kim Chung: Công bằng xã hội gắn với tăng trưởng kinh tế
trong chính sách giảm nghèo, Tạp chí Cộng sản, số 5, 2007.
+ Bùi Công Bính: Hồ Chí Minh về bình đẳng của phụ nữ, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 10, 2008.
Những kết quả nghiên cứu của các công trình là nguồn tư liệu rất quý

và quan trọng giúp chúng tôi tham khảo, góp phần định hướng cho nghiên
cứu đề tài của mình. Tuy nhiên cho đến nay, vấn đề Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội và việc vận dụng ở tỉnh Bến Tre trong thời kỳ đổi mới vẫn
cần tiếp tục nghiên cứu nhằm đáp ứng tình hình và yêu cầu nhiệm vụ thực
tiễn của địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn


10

3.1. Mục đích
Nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội và việc thực hiện chính sách xã hội ở tỉnh Bến Tre trong
những năm gần đây. Trên cơ sở đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội đề xuất một số giải pháp chủ yếu để góp phần nâng cao chất
lượng thực hiện chính sách xã hội ở Bến Tre hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội.
- Đánh giá tình hình thực hiện chính sách xã hội hiện nay ở Bến Tre.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách xã hội ở
tỉnh nhà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về chính sách xã hội.
- Tình hình thực hiện chính sách xã hội của tỉnh Bến Tre trong 5 năm
gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được triển khai trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước về các vấn đề chính sách xã hội và những chính sách xã
hội của tỉnh Đảng bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, các đoàn thể có liên quan đến
xây dựng chính sách xã hội trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu


11

Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp lôgíc lịch sử, phương
pháp phân tích - tổng hợp, so sánh để làm rõ nội dung cơ bản của đề tài.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống những quan
điểm của Hồ Chí Minh về chính sách xã hội.
- Luận văn cung cấp thêm luận cứ khoa học cho Đảng bộ tỉnh, chính
quyền, các đoàn thể tỉnh Bến Tre trong việc vận dụng để thực hiện có hiệu
quả các chính sách xã hội ở địa phương.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với những kết quả đạt được, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
trong việc hoạch định chính sách xã hội trong thời gian tới của tỉnh Bến Tre,
làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường
Chính trị, Cao Đẳng, Đại học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


12


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

1.1.1. Một số điểm có tính khái quát chung
Xã hội loài người, là con người làm chủ thể, từ cá nhân đến tập thể
nhỏ (gia đình, họ hàng, làng xóm) đến cộng đồng (địa phương, khu vực và cả
nước), trong đó các mặt hoạt động có tác động, chi phối lẫn nhau. Theo nghĩa
rộng, xã hội được hiểu là một cấu trúc hệ thống - chỉnh thể, trong đó nghĩa
rộng nhất, có tầm khái quát lớn nhất là xã hội loài người.
Theo nghĩa hẹp, xã hội là phương diện xã hội của đời sống xã hội, của
hoạt động sống của con người trong một nước, một chế độ xã hội nhất định.
Nó là mặt xã hội của đời sống, có tầm quan trọng và vị trí ngang bằng với các
mặt, các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, văn hóa.
Xã hội là một tập hợp lớn, một hệ thống các vấn đề xã hội trong phát
triển, liên quan trực tiếp tới đời sống con người như lao động và việc làm;
mức sống; trình trạng nghèo đói; dân số; sức khỏe và y tế cộng đồng; nhà ở;
giáo dục; vệ sinh môi trường; an ninh giao thông; văn hóa tinh thần... Nói tóm
lại là tất cả những vấn đề của đời sống cá nhân và cộng đồng, có tính chất và
hệ quả xã hội mà xã hội và nhà nước phải giải quyết bằng luật pháp và các
chính sách cụ thể. Đó là hệ thống chính sách xã hội và hệ thống chính sách an
sinh xã hội, bao gồm quan điểm chỉ đạo, chủ trương, chính sách, biện pháp tổ
chức thực hiện nhằm xây dựng, phát triển những gì có ích cho con người, cho sự
phát triển của đất nước, kiềm chế và từng bước xóa bỏ những mặt tiêu cực có
hại.


13


Dưới lát cắt triết học, xã hội loài người tồn tại với bốn lĩnh vực đời sống
xã hội cơ bản có quan hệ gắn bó chặt chẽ thống nhất tác động lẫn nhau: Lĩnh
vực hoạt động kinh tế; hoạt động xã hội; hoạt động văn hóa tinh thần và hoạt
động chính trị. Như vậy, hoạt động xã hội được coi là một phạm vi hoạt động
tương ứng với những hoạt động khác nhau của một xã hội tổng thể. Phần lớn
các nhà nghiên cứu hiểu về chính sách xã hội ở phạm vi này, tức là trong sự đối
diện với những chính sách khác, với các hoạt động khác của xã hội nói chung.
Các vấn đề xã hội tồn tại và phát triển trong các cộng đồng là những
vấn đề nảy sinh trong sự phát triển của xã hội, từ tác động của kinh tế, chính
trị và văn hóa. Nó nảy sinh do nhu cầu phát triển tăng lên, do các quan hệ xã
hội biến đổi cùng với sự biến đổi các quan niệm sống, giá trị và sự lựa chọn
giá trị sống của các tầng lớp, nhóm xã hội - dân cư, thế hệ, lứa tuổi, giới và
nghề nghiệp. Các vấn đề xã hội thuộc lĩnh vực xã hội cũng biến đổi do tình
hình và hoàn cảnh xã hội biến đổi, nhất là kinh tế, do tác động của quản lý
qua chính sách, cơ chế, pháp luật. Các vấn đề xã hội thuộc lĩnh vực xã hội vừa
mang tính cấp thiết, bức xúc lại vừa mang tính cơ bản, lâu dài do sự tồn tại và
phát triển của con người và xã hội quy định.
1.1.2. Khái niệm chính sách xã hội và cơ sở hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính sách xã hội là bộ
phận cấu thành của chính sách chung của một chính đảng hay một chính
quyền nhà nước nhất định, nó bao gồm việc giải quyết các vấn đề xã hội phù
hợp với lợi ích giai cấp và những mục tiêu phù hợp với đảng đó, của chính
quyền nhà nước đó.
Chẳng hạn, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, chính sách xã hội trước hết
là tổng hòa những biện pháp do nhà nước tư sản thi hành đối với quần chúng
nhân dân. Mặc dù, chính sách xã hội được mô tả dưới hình thức "sự quan tâm
đến nhu cầu trong đời sống của những người lao động, nhưng trên thực tế nó



14

bổ sung cho bạo lực công khai. Chính sách xã hội bao gồm các biện pháp
điều tiết bằng luật pháp những điều kiện lao động của công nhân và giải quyết
"những xung đột lao động", sự bảo đảm xã hội (nghĩa là sự bảo đảm "bằng
tiền của xã hội" do nhà nước thực hiện) đối với những người thất nghiệp,
người già và những người mất khả năng lao động, những người nghèo; trong
một số trường hợp, đó là việc bảo đảm, bằng một hình thức nào đó, nơi ăn
chốn ở, sự giúp đỡ y tế cho các tầng lớp nghèo v.v... Chính sách xã hội của
nhà nước còn bao gồm cả hoạt động mà các nhà chính trị tư tưởng và các nhà
tư tưởng tư sản mô tả như là một hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu
chung của tất cả các thành viên trong xã hội: tổ chức nền giáo dục nhân dân,
đấu tranh chống các hiện tượng: phạm tội, nghiện ma túy, mại dâm..., gần đây
nhất còn bao gồm cả công tác bảo vệ môi trường thiên nhiên mà con người
sống trong đó. Trái với những luận điệu mị dân đi kèm theo, loại hoạt động ấy
thực ra không hề biểu thị "tính chất siêu giai cấp" của nhà nước tư sản, cũng
như không hề nói lên mục đích của nhà nước tư sản dường như là "phục vụ
lợi ích của tất cả các công dân", nhất là lợi ích của người lao động. Chính
sách xã hội này xuất hiện chủ yếu như một sự phản ứng thích nghi của giai
cấp bóc lột cầm quyền nhằm duy trì các đặc quyền của mình, đối phó với
cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của nhân dân lao động, coi chính sách ấy
là công cụ nhằm để giảm bớt sức ép của cuộc đấu tranh giai cấp. Kết quả lớn
nhất có thể đạt được nhờ thi hành một chính sách như vậy, chỉ là một sự giảm
nhẹ nào đó những tai họa không thể khắc phục được của nhân dân lao động
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, chỉ là một sự cải thiện từng mặt đời sống của
nhân dân. Đương nhiên, chính sách xã hội tư sản không thể loại trừ được đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản và của những tầng lớp lao động khác chống lại
chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh này không ngừng tăng lên.
Trái ngược hẳn với chính sách xã hội của giai cấp tư sản là chính sách

xã hội của các Đảng Cộng sản hoạt động trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Đây
là bộ phận cấu thành của chính sách chung của các đảng ấy, một chính sách


15

cách mạng xét về thực chất và về những mục đích cuối cùng. Trong khi đề ra
mục tiêu là thay đổi một cách căn bản những điều kiện xã hội, thì đồng thời
các Đảng Cộng sản hoạt động trong xã hội tư bản chủ nghĩa tổ chức lãnh đạo
cuộc đấu tranh đòi giai cấp thống trị và chính quyền nhà nước của nó phải
nhượng bộ càng nhiều càng tốt nhằm thỏa mãn những nhu cầu xã hội bức
thiết của nhân dân lao động. Bất chấp những luận điệu của đủ các loại phần tử
"tả" khuynh, điều đó không hề mâu thuẫn với các lý tưởng đổi mới xã hội
bằng con đường cách mạng, dĩ nhiên với điều kiện là người ta phải hiểu rõ sự
hạn chế tất yếu của mọi biện pháp cải thiện xã hội trong khuôn khổ chủ nghĩa tư
bản.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thì chính sách xã hội là để giải quyết
một cách triệt để nhiều vấn đề xã hội có liên quan đến việc thực hiện các
quyền lợi của nhân dân lao động; từng bước thủ tiêu tình trạng người bóc lột
người, cải thiện các điều kiện sống cho quần chúng nhân dân, tạo các tiền đề
cho sự phát triển toàn diện của quần chúng nhân dân, để họ tham gia các hình
thức hoạt động xã hội sáng tạo, để xây dựng một lối sống mới thực sự nhân
đạo của con người, thiết lập sự bình đẳng xã hội. Chính việc phấn đấu vì
những mục tiêu ấy quy định nội dung chính sách xã hội của đảng mácxít lêninnít, người hướng dẫn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và do đó cũng
hướng dẫn cả chính sách xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa do đảng ấy
lãnh đạo. Nội dung cụ thể những nhiệm vụ của chính sách xã hội, tính chất
triệt để và sâu sắc trong việc giải quyết những nhiệm vụ ấy đều có biến đổi
theo đà tiến lên từ những giai đoạn đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội đến những giai đoạn phát triển cao hơn.
Nếu xem xét những nhiệm vụ này dưới một hình thức tổng quát, có

thể quy chúng lại thành ba nhóm nhiệm vụ cơ bản. Nhóm nhiệm vụ thứ nhất
là tạo ra cho quần chúng nhân dân những điều kiện sống ngày càng thuận lợi
hơn trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống: nâng cao phúc lợi vật chất, phát
triển văn hóa và dân chủ chủ nghĩa xã hội. Nhóm nhiệm vụ thứ hai là hình thành


16

chính các nhu cầu của con người theo đúng các tiêu chuẩn hợp lý. Nhóm nhiệm
vụ này còn bao gồm cả nhiệm vụ tạo ra, xét về toàn cục, những định hướng của
con người khiến cho họ đem sức lực và khả năng của mình ra phục vụ lợi ích xã
hội, nhiệm vụ phát triển tính tích cực của xã hội, xây dựng và củng cố lối
sống xã hội chủ nghĩa của quần chúng. Việc giải quyết hai nhóm nhiệm vụ
này là hai mặt của việc điều tiết cùng một tổng hòa quan hệ xã hội - quan hệ
giữa toàn thể xã hội xã hội chủ nghĩa nói chung với các thành viên của nó,
hay nói cách khác, giữa xã hội với cá nhân. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa,
những quan hệ này được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc: "Xã hội vì con
người, con người vì xã hội", (tất cả chăm lo hạnh phúc của từng người và
từng người chăm lo hạnh phúc của tất cả). Chính sách xã hội có tính đến tính
chất đặc thù của các nhóm xã hội và xã hội - nhân khẩu khác nhau (thanh
niên, phụ nữ, người già v.v...).
Dưới chủ nghĩa xã hội, chính sách xã hội còn bao gồm một nhóm
nhiệm vụ độc lập là điều tiết tổng hòa các quan hệ xã hội giữa các giai cấp lao
động và các tầng lớp lao động, nghĩa là hoàn thiện cơ cấu xã hội của xã hội xã
hội chủ nghĩa. Chính sách xã hội góp phần vào sự tiến triển của những quá
trình như củng cố khối liên minh và tình hữu nghị giữa giai cấp công nhân,
nông dân, trí thức, dần dần khắc phục những sự khác biệt giữa các giai cấp,
các tầng lớp và qua đó mà triệt để củng cố sự thống nhất xã hội của xã hội.
Những hướng kể trên trong chính sách xã hội của Đảng Cộng sản và chính
quyền nhà nước trong xã hội xã hội chủ nghĩa gắn chặt với nhau một cách

hữu cơ. Những hướng ấy là những khía cạnh khác nhau trong khi hoàn thành
một nhiệm vụ thống nhất, có nhiều mặt, được thực hiện trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản: cải tạo hệ thống các quan hệ xã
hội trên cơ sở những nguyên tắc tập thể chủ nghĩa. Điều này thể hiện qua việc
củng cố sự thống nhất giữa các giai cấp và tầng lớp lao động đang xích lại gần
nhau, cũng như qua việc xã hội tăng cường quan tâm đến những thành viên và
từng thành viên hưởng ứng tăng cường quan tâm đến phúc lợi chung.


17

Việc thực hiện các nhiệm vụ trong chính sách xã hội có liên quan trực
tiếp đến con người, đến địa vị của con người trong xã hội, đến điều kiện và
nội dung hoạt động của con người, đến việc hình thành và thực hiện các nhu
cầu trong đời sống và những khả năng của con người, nhằm đạt tới sự phát
triển toàn diện của cá nhân. Khi thực hiện chính sách xã hội, Nhà nước do
Đảng cộng sản lãnh đạo phải sử dụng một cách đồng bộ những phương sách
và biện pháp, bao gồm cả hệ thống các cơ quan hành chính, pháp luật, các tổ
chức thuộc hệ thống chính trị; cả bằng tài chính, kinh tế - kỹ thuật; cả bằng tổ
chức, giáo dục v.v...; sử dụng các nguồn vật chất, những sự cải cách về cơ sở
kỹ thuật và về tổ chức sản xuất, trong hoạt động của các thiết chế chính trị và
các cơ quan văn hóa - giáo dục v.v... Vì những phương sách và biện pháp ấy
trực tiếp phục vụ cho việc đạt tới các mục tiêu có tính chất xã hội, cho nên
chúng là các đòn bẩy của chính sách xã hội.
Trong truyền thống dân tộc, các triều đại phong kiến từ Lý, Trần đến
Lê, Nguyễn đều đã có các điều luật quy định cụ thể về các chính sách xã hội
đối với dân, quân đội, những người có công với nước, những bậc hiền tài,
những cô nhi quả phụ, những người cô đơn không nơi nương tựa. Cũng đã có
những điều luật chống các tệ nạn xã hội như trộm cướp, cờ bạc, nghiện hút,
tham quan, ô lại, v.v... Nhiều điều luật như vậy cũng được ghi lại trong các

hương ước, làm cơ sở cho việc quản lý xã hội và cách ứng xử của nhân dân ở
đơn vị hành chính cơ sở của đất nước.
Vào thời hưng thịnh, các triều đại đã chế định và thực hiện chính sánh
xã hội theo tư tưởng chỉ đạo: "Khoan thư sức dân để làm kế gốc sâu rễ vững".
Hoặc "thương yêu dân chúng, nghĩ làm những việc khoan nhân", "thuận lòng
dân... không lấy điều muốn của một người mà cưỡng ép nghìn muôn người
không muốn phải làm theo", "lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ",
"sao cho thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán sầu" như vua Lê Thánh
Tông và bậc hiền tài Nguyễn Trãi chủ trương. Hay như Vua Minh Mệnh từng
nói: "Phàm người làm vua, giầu có bốn biển, nếu chỉ cần cái thích của mình


18

thì lo gì chả được, nhưng nghĩ đến nhân dân cùng túng và người góa bụa sống
không được thỏa thuê mà chỉ cốt tỏ thích ý muốn của mình, chẳng qua chỉ làm
lụy cho mình và làm đau đớn cho thiên hạ, nào có ích gì?..." [14, tr. 85]; rằng,
"Quốc gia chỉ quý người hiền tài; dù có hạt châu Minh Nguyệt, hòn ngọc
Chiêu Thăng cũng không đáng quý"; Vua Tự Đức cũng nói, đại ý: Muốn cho
quốc phú binh cường mà không chăm lo đến đời sống nhân dân thì có khác gì
muốn tiến lên mà đi giật lùi hay không?..
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đặt cách mạng Việt
Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
mục đích của cách mạng vô sản, về bản chất đích thực của chủ nghĩa xã hội
và truyền thống dân tộc với những việc làm hợp lòng dân, được lòng dân của
những bậc vua sáng tôi hiền làm cơ sở lý luận, thực tiễn của quan điểm tư
tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng về chính sách xã hội. Sinh thời, Hồ Chí Minh
từng khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới thực hiện
triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng con người, mang lại độc lập, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam đang bị nô lệ. Ham muốn tột bậc của Hồ

Chí Minh là nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người còn
nói: ngày nào mà đồng bào còn chịu khổ thì ngày đó Người ăn không ngon
ngủ không yên và chỉ rõ: đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phải
làm sao nhà nào nghèo thì làm ăn cho khá lên, nhà nào khá thì làm cho giàu
lên, nhà nào giàu thì giàu lên nữa, phải làm cho đất nước trở nên giàu mạnh.
Đất nước đã thống nhất, nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối
những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ trước đã làm đời sống mọi
mặt của nhân dân ta gặp muôn vàn khó khăn, lòng tin vào chế độ ít nhiều bị
tác động xấu. Trong điều kiện hoàn cảnh ấy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng ta (12/1986) đã xác định:


19

Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt cuộc sống của con người:
điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia
đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc... cần thể hiện đầy đủ
trong thực tế của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính
sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính
sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội [17, tr. 86].
Tiếp tục phát triển tư tưởng trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng khẳng định: "Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con
người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội" [19, tr. 13].
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng ta, có
thể nêu một nhận thức khái quát: Chính sách xã hội là một bộ cấu thành chính
sách chung của một chính đảng hay chính quyền nhà nước trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống

con người, tạo điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ
gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ xã hội. Một trong những đặc điểm cơ
bản của chính sách xã hội là sự thống nhất biện chứng của nó với chính sách
kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính
sách xã hội và sự hợp lý, công bằng và tiến bộ được thực hiện qua chính sách
xã hội sẽ tạo ra những động lực mạnh mẽ để thực hiện các mục tiêu kinh tế
nhằm làm cho dân giàu nước mạnh. Chính sách xã hội phải đạt được mục
đích đem lại đời sống tốt đẹp cho con người, mang lại sự công bằng dân chủ
cho mỗi con người, không theo chủ nghĩa bình quân. Trong những điều kiện
kinh tế hàng hóa có cơ cấu nhiều thành phần, chính sách xã hội phải hướng
tới sự công bằng xã hội, đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa
các thành phần kinh tế trước pháp luật. Chính sách xã hội phải vừa củng cố và
phát triển những giai cấp cơ bản như công nhân, nông dân, vừa quan tâm


20

thích đáng đến lợi ích và phát huy tiềm năng của các tầng lớp, các nhóm dân
cư khác, trong đó Nhà nước, pháp luật giữ vai trò quản lý, điều hòa các mối
quan hệ xã hội và cá nhân. Nó bao gồm việc giải quyết các vấn đề xã hội phù
hợp với bản chất của Đảng và Nhà nước đó. Nói một cách khác: chính sách xã
hội phải cụ thể hóa bằng pháp luật, những chủ trương, biện pháp để giải quyết
các vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm của chủ thể lãnh đạo, phù
hợp với bản chất chế độ xã hội - chính trị, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của
cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm đáp ứng
những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất và tinh thần văn hoá của
nhân dân.
Nhà xã hội học V.Z. Rô-gô-vin, tác giả cuốn "Chính sách xã hội trong
xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển" đã nhấn mạnh và lý giải: với tư cách là một
khoa học, chính sách xã hội là một lĩnh vực tri thức xã hội học, đòi hỏi phải có

sự nghiên cứu một cách hệ thống các quá trình xã hội quyết định hoạt động sống
của con người trong xã hội, xét theo khả năng tác động quản lý đến các quá trình
đó. Có đầy đủ cơ sở để xem chính sách xã hội như là sự hòa quyện của khoa
học và thực tiễn, như là sự phân tích phức hợp, dự báo về các quan hệ, các
quá trình xã hội và sự vận dụng thực tiễn những tri thức thu nhận được nhằm
mục đích quản lý, điều hành các quá trình và các quan hệ ấy.
Những ý kiến trên tuy có cách diễn đạt khác nhau, nhưng nhìn chung
đều nêu bật được các yếu tố hợp thành cơ bản của bất cứ một chính sách xã
hội nào. Đó là:
Ai đặt ra chính sách xã hội?
Đặt ra chính sách xã hội cho ai?
Nội dung của các chính sách xã hội là gì?
Chính sách xã hội nhằm mục đích gì?


21

Nói tóm lại, chính sách xã hội là sự cụ thể hóa các chủ trương, đường
lối, quan điểm giai cấp của chính đảng cầm quyền và nhà nước của giai cấp
thống trị đó. Sự cụ thể hóa này được biểu đạt thành một hệ thống những biện
pháp cơ bản được xây dựng trên cơ sở nhận thức khoa học về thực trạng xã
hội, mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội, tất cả những gì
liên quan trực tiếp đến con người, từ địa vị, điều kiện và nội dung hoạt động
sống đến việc hình thành các nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của mỗi cá nhân
cũng như toàn xã hội. Hệ thống những biện pháp cơ bản này được thể chế hóa
bằng pháp luật và nhằm giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh, các vấn đề quyền
lợi giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội, thỏa mãn những nhu cầu ngày càng
tăng về đời sống vật chất cũng như đời sống văn hóa tinh thần của mỗi thành
viên trong xã hội, góp phần đảm bảo sự ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội.
1.2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ

CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

1.2.1. Chính sách xã hội là vấn đề cực kỳ quan trọng mà Hồ Chí
Minh quan tâm trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
Chính sách xã hội của bất kỳ quốc gia nào có thể chỉ đóng vai trò và ý
nghĩa xã hội thiết thực trong một thời kỳ, một giai đoạn phát triển nào đó. Khi
chuyển sang giai cấp khác, trong bối cảnh và điều kiện khác thì có chính sách
xã hội khác phù hợp. Tuy nhiên, sự thay thế đó không có nghĩa là xóa bỏ, là
phủ nhận sạch trơn cái cũ, mà trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành quả
của chính sách xã hội cũ, xây dựng những chính sách xã hội mới phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh mới.
Khi dân tộc ta còn trong cảnh nô lệ dưới ách thống trị của đế quốc
thực dân và phong kiến tay sai; trong quá trình tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu một cách khoa học các chính sách
xã hội của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc thuộc địa, nhất là các chính


22

sách của thực dân Pháp đối với thuộc địa Đông Dương, trong đó có Việt Nam.
Quan điểm của C. Mác: "Cần phải làm cho ách áp bức hiện thực càng nặng nề
hơn, bằng cách gắn vào nó cái ý thức về ách áp bức; cần phải làm cho sự ô
nhục, càng ô nhục hơn nữa bằng cách công bố nó lên" được Hồ Chí Minh
thấm nhuần rất sâu sắc và vận dụng một cách khoa học. Người viết nhiều bài
đăng trên báo Le Paria của Hội liên hiệp Thuộc địa, báo L' Humanitte của Đảng
Cộng sản Pháp và đặc biệt là viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp để
phát họa bức tranh toàn cảnh về sự tàn bạo trong chính sách xã hội của chủ
nghĩa thực dân. Bóc lột người dân thuộc địa bằng thuế máu; đầu độc người
bản xứ bằng rượu cồn và thuốc phiện; làm cho ngu dân để dễ trị bằng xây
nhà tù nhiều hơn trường học; v.v… Sự lên án đanh thép của Người đã góp

phần thức tỉnh các tầng lớp nhân dân lao động đứng lên đấu tranh chống quân
xâm lược.
Đầu năm 1930, khi tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
trong nước, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh soạn thảo
Chánh cương vắn tắt của Đảng, xác định rõ mục tiêu phấn đấu của Đảng:
A. Về phương diện xã hội thì:
a) Dân chúng được tự do tổ chức.
b) Nam nữ bình quyền, v.v...
c) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
B. Về phương diện chính trị:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
c) Dựng ra chính phủ công nông binh.
d) Tổ chức ra quân đội công nông.
C. Về phương diện kinh tế:


23

a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái.
b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân
hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính
phủ công nông binh quản lý.
c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công
chia cho dân cày nghèo.
d) Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo.
e) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp.
f) Thi hành luật ngày làm 8 giờ [40, tr. 1-2].
Năm 1941, khi Người vừa về nước, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng thành lập Mặt trận

Việt Minh, đề cập những chính sách xã hội của Mặt trận khá toàn diện với tất
cả các tầng lớp nhân dân: Nông dân, công nhân, thương nhân, công chức,
binh lính, thanh niên, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật, người già. Bài diễn ca
Mười chính sách của Việt Minh của Người nói rõ:
Một là ích nước, hai là lợi dân.
Bao nhiêu thuế ruộng, thuế thân,
Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền.
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương,
Họp hành, đi lại, có quyền tự do.
Nông dân có ruộng, có bò,
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn.
Công nhân làm lụng gian nan,
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ.
Gặp khi tai nạn bất ngờ,


24

Thuốc thang Chính phủ bấy giờ giúp cho.
Thương nhân buôn nhỏ, bán to,
Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền.
Nào là những kẻ chức viên,
Cải lương đãi ngộ cho yên tấm lòng.
Binh lính giữ nước có công,
Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu.
Thanh niên có trường học nhiều,
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho.
Đàn bà cũng được tự do,
Bất phân nam nữ, đều cho bình quyền.
Người tàn tật, kẻ lão niên,

Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho.
Trẻ em, bố mẹ khỏi lo,
Dạy nuôi, Chính phủ giúp cho đủ đầy [40, tr. 205-206].
Có thể nói Hồ Chí Minh đã phác thảo bức tranh về chính sách xã hội
mà chính quyền nhân dân tương lai sẽ thực hiện.
Ngay sau khi nhân dân ta giành lại nền độc lập, Người đã chỉ đạo việc tổ
chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội đầu tiên ở nước ta; đề nghị Quốc hội và
Người được giao trọng trách chỉ đạo việc soạn thảo Hiến pháp của chế độ mới;
đề nghị Quốc hội và Chính phủ ban hành các sắc lệnh quy định các quyền tự do,
dân chủ bình quyền; chống giặc ngoại xâm đồng thời với chống giặc đói; giặc
dốt, xây dựng đời sống mới.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước ra trận,
nhưng nhờ chính sách xã hội đúng đắn, khoa học, các lĩnh vực đời sống xã hội


25

trên miền Bắc vẫn giữ vững và phát triển. Người ở hậu phương vừa sản xuất,
vừa chiến đấu; tính ưu việt và sức sống của chủ nghĩa xã hội thể hiện rõ nét hơn
bao giờ hết; với tiền tuyến lớn thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người.
Chuẩn bị cho việc đi vào cõi vĩnh hằng, Hồ Chí Minh đã viết bản Di
chúc lịch sử, căn dặn những điều hệ trọng sau khi hoà bình lập lại, trog đó có
vấn đề thực hiện các chính sách xã hội mà "Đầu tiên là công việc đối với con
người", với những cán bộ, binh sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong; các
liệt sĩ, cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sĩ); phụ nữ; nông dân; nạn nhân của
chế độ xã hội cũ. Người viết rõ: Đảng và Chính phủ phải quan tâm giúp đỡ họ cả
về vật chất lẫn tinh thần. Hiếm có một lãnh tụ mà cuộc đời lại toàn tâm toàn ý
chăm lo cho con người, lo lắng đến chính sách xã hội như Hồ Chí Minh - lãnh tụ
vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam.

1.2.2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội
1.2.2.1. Chính sách xã hội phải toàn diện về kinh tế, văn hóa, trong
đó đặc biệt quan trọng là kinh tế
Mục đích cơ bản của xây dựng phát triển kinh tế là đảm bảo những
nhu cầu cơ bản của đời sống, từng bước cải thiện nâng cao đời sống của các
tầng lớp nhân dân lao động. Đây là chính sách nhất quán được đề ra và thực
hiện ngay khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, bởi trước do
chính sách vơ vét, bóc lột của Pháp - Nhật trong mấy mươi năm thống trị đã
làm nền kinh tế nước ta vốn nghèo nàn, lạc hậu lại càng kiệt quệ nặng nề hơn.
Công nghiệp lạc hậu, đình đốn, nông nghiệp tiêu điều vì hơn 50% ruộng đất ở
Bắc Bộ bị bỏ hoang do lụt và hạn gây nên. Thương nghiệp ngừng trệ, bế tắc,
hàng hóa khan hiếm. Tài chính cạn kiệt: kho bạc hầu như trống rỗng. Ngân
hàng Đông Dương còn nằm trong tay của tư bản Pháp. Nạn đói đầu năm 1945
vừa mới chấm dứt, đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu đồng bào thì nguy cơ


×