Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về huấn luyện cán bộ quân sự và vận dụng vào công tác đào tạo cán bộ ở học viện quốc phòng hiện nay - luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.32 KB, 129 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, người sáng lập, lãnh đạo
và rèn luyện Đảng ta, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân
dân Việt Nam. Suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người
luôn chăm lo đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo cán bộ, trong đó có cán bộ
chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tư tưởng của Người về huấn
luyện cán bộ quân sự, là một trong những nội dung quan trọng, một bộ
phận không thể tách rời với tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và hệ thống
tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của đội
ngũ cán bộ, vì "cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là
những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong
nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện
được" [55, tr. 54]. Người khẳng định: "Cán bộ là gốc của mọi công việc",
"công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém", "Huấn
luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng" [57, tr. 269].
Với ý nghĩa đó, Người luôn quan tâm đến việc huấn luyện, đào tạo
các thế hệ cán bộ cho cách mạng, cho quân đội ta, trong số đó có nhiều
đồng chí đã trở thành những cán bộ cốt cán - lãnh tụ xuất sắc cả về chính
trị và quân sự của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn luyện cán bộ quân sự vừa có tính
khoa học sâu sắc lại vừa có tính thực tiễn cao. Nó mang tính hệ thống, hết
sức phong phú thể hiện rõ: từ vị trí, vai trò mục đích đến nội dung, phương
pháp huấn luyện; từ việc mở lớp đến việc dạy, việc học…, lĩnh vực nào



2

Người cũng có những lời chỉ bảo ân cần, thấu đáo. Tư tưởng quý báu đó
của Người có giá trị bền vững cho hôm nay và cả mai sau đối với sự
nghiệp giáo dục, đào tạo cán bộ của Đảng ta và Quân đội ta.
Bước vào công cuộc đổi mới hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu mới đối với cán bộ
của Đảng nói chung, đội ngũ cán bộ cao cấp trong quân đội nói riêng. Do
đó, việc giáo dục, đào tạo cán bộ có kiến thức toàn diện, nhất là nâng cao
nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
chính sách của Đảng ngày càng được coi trọng, trở thành yêu cầu rất cấp
bách đối với các nhà trường quân đội.
Học viện Quốc phòng là một trong hai trung tâm giáo dục, đào tạo
cán bộ tầm quốc gia, là cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học về quân sự,
quốc phòng của đất nước, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Học viện được Chính phủ
giao nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan chỉ huy, tham mưu cao cấp, chiến
dịch, chiến lược; quân sự địa phương; cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu
khoa học quân sự; đào tạo cao học, nghiên cứu sinh về khoa học quân sự;
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và tương
đương, cán bộ lãnh đạo thuộc các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể
Trung ương; nghiên cứu khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự; hợp tác
quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp quân sự.
Đối tượng học tập, nghiên cứu tại Học viện là những cán bộ trung,
cao cấp được lựa chọn trong các đơn vị quân đội, trong các cơ quan Đảng,
Nhà nước, cán bộ chủ chốt các tỉnh (thành phố), các cơ quan đoàn thể
Trung ương đã được đào tạo ở các trường khác nhau; có kinh nghiệm thực
tiễn lãnh đạo, quản lý, chỉ huy, điều hành; có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có năng lực tư duy theo cương vị công tác. Sau học tập trở thành người cán
bộ có đủ phẩm chất, trí tuệ, trình độ, năng lực tiêu biểu, có khả năng tổ



3

chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, theo quan điểm, đường lối, nhiệm vụ cách mạng
của Đảng trong mỗi thời kỳ.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của
Bộ Quốc phòng, Học viện Quốc phòng đã đào tạo được đội ngũ cán bộ cao
cấp đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng quân đội, góp phần giữ
vững hòa bình, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Học viện được
Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng đánh giá luôn hoàn thành tốt mục tiêu,
chương trình đào tạo, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cao cấp của Quân
đội không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, làm nòng cốt xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Năm 2007, Học viện
Quốc phòng được Đảng và Nhà nước ta tuyên dương danh hiệu "Anh hùng
lực lượng vũ trang thời kỳ đổi mới".
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của Học viện Quốc
phòng có bước phát triển với yêu cầu ngày càng cao. Để hoàn thành tốt
nhiệm vụ, Học viện Quốc phòng cần phải được xây dựng vững mạnh toàn
diện, nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo và nghiên cứu khoa học. Kết
quả huấn luyện, đào tạo cán bộ quân đội ở Học viện Quốc phòng phụ thuộc
rất lớn vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước mà thường xuyên, trực
tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; nhất là phụ thuộc vào quá
trình vận dụng phù hợp, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn
luyện cán bộ quân sự, cụ thể hóa quan điểm đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước để xác định đúng mục tiêu, chương trình, nội dung,
phương pháp huấn luyện, đào tạo cán bộ của quân đội hiện nay.
Vì vậy, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn
luyện cán bộ quân sự trong công tác đào tạo ở Học viện Quốc phòng là

có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Với tinh thần đó, tôi chọn đề tài:


4

"Tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn luyện cán bộ quân sự và vận dụng vào
công tác đào tạo cán bộ ở Học viện Quốc phòng hiện nay" làm luận văn
thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đào tạo, huấn luyện cán bộ nói chung, cán bộ quân đội nói riêng là
công tác có tầm quan trọng đặc biệt của Đảng, của quân đội. Vấn đề đó đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu:
Trước hết, phải kể đến các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về huấn luyện, đào tạo cán bộ cách mạng, trong đó có cán bộ quân sự
của các nhà khoa học, như:
- Cuốn "Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ" của GS. Đức Vượng
(1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, đã trình bày quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, về yêu cầu đào tạo và sử dụng cán bộ
phục vụ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng.
- Nhân dịp kỷ niệm 50 năm, ngày truyền thống của Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh (9/1999), Học viện đã tổ chức Hội thảo khoa
học: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ" gồm
68 bài tham luận khoa học của các tác giả (các công trình tham gia Hội
thảo đã được in thành kỷ yếu lưu tại Viện Hồ Chí Minh). Trong khuôn khổ
của bài tham luận, các báo cáo đã nêu lên được những quan điểm của Hồ
Chí Minh về đào tạo, huấn luyện cán bộ, trên cơ sở đó vận dụng vào công
tác đào tạo huấn luyện cán bộ trong các lĩnh vực.
- Cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ" của
PGS.TS Bùi Đình Phong (2002), Nxb Lao động, Hà Nội, đề cập nhiều vấn

đề về cán bộ cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, tác giả phân
tích sâu sắc quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác
cán bộ, huấn luyện cán bộ trong thực tiễn để trở lại phục vụ cách mạng.


5

Đồng thời, làm nổi bật việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
công tác cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Cuốn sách "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước" do GS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm (chủ biên),
(2003) đã tập trung lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học của việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các cấp, từ đó đưa ra những kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm
củng cố, phát triển đội ngũ này cả về chất lượng và số lượng phù hợp với
yêu cầu hiện nay.
- Cuốn "Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo" (2007) của PGS.TS Lê
Văn Tích, TS. Nguyễn Thị Kim Dung (biên tập) là tập hợp các bài báo khoa
học của các tác giả bàn những vấn đề chung nhất của quan điểm Hồ Chí Minh
về giáo dục, đào tạo và vận dụng trong đào tạo, huấn luyện cán bộ hiện nay,
phục vụ cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, mảng sách đề cập đến đào tạo cán bộ quân sự gồm có:
- Cuốn sách: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội nhân
dân" (1996) của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, là tập hợp các tham luận
của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà lãnh đạo, chỉ huy trong và
ngoài quân đội, tại Hội thảo khoa học: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng quân đội - xây dựng quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh" nhân kỷ

niệm 50 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (12-1994, tại Hà
Nội). Trong tập kỷ yếu này, cũng có bài đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh
về huấn luyện cán bộ, nhưng chủ yếu là về đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ
thuật và hậu cần.


6

- Cuốn sách: "Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn mới" của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân
Việt Nam (2004), bước đầu có đề cập đến cơ sở lý luận, thực tiễn, thực trạng,
yêu cầu, giải pháp xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân đội trong thời kỳ
mới, nhưng nội dung đề cập chỉ giới hạn đến đối tượng cán bộ cấp cơ sở.
- Kỷ niệm 115 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trường Sĩ
quan Lục quân I và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam tổ chức hội thảo và
xuất bản kỷ yếu khoa học: "Hồ Chí Minh với sự nghiệp đào tạo cán bộ
quân sự, đào tạo cán bộ quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh" (2005). Cuốn
sách tập hợp các bài viết của các tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp, các học viện,
nhà trường quân đội bàn về Hồ Chí Minh với sự nghiệp đào tạo cán bộ
quân sự và đào tạo cán bộ quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,
các bài viết trên cũng mới chỉ đề cập từng vấn đề nhỏ trong tư tưởng của
Người về đào tạo, huấn luyện cán bộ quân sự và vận dụng trong đào tạo
cán bộ cấp cơ sở, cán bộ chuyên môn kỹ thuật…
Đồng thời, trong những năm gần đây, vấn đề huấn luyện, đào tạo
cán bộ quân sự trong quân đội và ở Học viện Quốc phòng cũng đã có một
số tổ chức, nhà khoa học nghiên cứu ở các góc độ, cấp độ khác nhau, trong
đó có một số đề tài, bài báo tiêu biểu như:
- Đề tài tập thể của Học viện Quốc phòng: "Nâng cao chất lượng
đào tạo ở Học viện Quốc phòng thời kỳ mới"(2003). Công trình đã tập
trung phân tích thực trạng công tác đào tạo và đề ra những giải pháp cơ bản

nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ cao cấp của Quân đội nhân dân
Việt Nam ở Học viện Quốc phòng thời kỳ mới.
Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu như:
- Lê Văn Dũng với bài: "Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược ở Học viện Quốc phòng thời kỳ
mới", Tạp chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, số 6, 2006. Bài viết đã đề ra một


7

số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ cấp chiến dịch,
chiến lược ở Học viện Quốc phòng. Trong đó, tác giả nêu chú ý đến các giải
pháp như: xác định mục tiêu, đổi mới nội dung, chương trình, bồi dưỡng đào
tạo đội ngũ cán bộ, giảng viên...
- Phạm Xuân Hùng có bài: "Phát huy truyền thống 30 năm, Học
viện Quốc phòng tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng huấn luyện - đào
tạo cho các đối tượng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao",
Tạp chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, số 6, 2006. Bài viết đã đề ra một số
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ ở Học viện Quốc
phòng. Tác giả nhấn mạnh đến việc tiếp tục xác định, hoàn thiện mục tiêu đào
tạo ở Học viện Quốc phòng.
- Hà Huy Thông có bài: "Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo ở
Học viện Quốc phòng thời kỳ mới", Tạp chí Nhà trường Quân đội, số 6,
2006. Bài viết đã tập trung phản ánh thực trạng về đối tượng, chương trình,
nội dung đào tạo và nêu lên ba giải pháp cơ bản nhằm đổi mới, nâng cao
chất lượng đào tạo ở Học viện Quốc phòng. Trong những giải pháp đó,
đáng chú ý là tác giả đã coi trọng việc đổi mới nội dung chương trình, xây
dựng đội ngũ cán bộ giảng viên, đầu tư cơ sở vật chất huấn luyện.
- Đinh Thế Hùng có bài: "Một số giải pháp chính nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo cán bộ các cấp trong Quân đội", Tạp chí Nhà trường Quân đội,

số 6, 2006. Bài viết bước đầu đề xuất được một số giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ các cấp trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay…
Ngoài ra, còn một số luận án tiến sĩ, luận văn cao học đề cập đến
vấn đề này:
Về luận án tiến sĩ có công trình: "Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở
Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", (1999), Hà Nội,
của nghiên cứu sinh Ngô Huy Tiếp. Luận án đã tập trung phân tích cơ sở lý


8

luận, thực tiễn và những luận cứ khoa học nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
cơ sở của Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ mới.
Về luận văn cao học có các công trình:
- "Về giáo dục - đào tạo bồi dưỡng cán bộ quân đội trong thời kỳ
mới", của Nguyễn Thiên Hùng, Hà Nội, 1997. Luận văn đã tập trung phân
tích thực trạng và nêu lên những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam.
- "Về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược trong thời
kỳ mới", của Hà Minh Thám, Hà Nội, 2002. Luận văn đã tập trung phân
tích thực trạng và nêu lên những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ
cấp chiến dịch, chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam.
- "Về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong thời kỳ mới", của Trương Đình Quý, Hà Nội, 2004. luận văn đã tập trung
phân tích thực trạng và nêu lên những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập nhiều quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo cán bộ
cũng như một số nội dung, yêu cầu và những giải pháp trong việc vận dụng

tư tưởng Hồ Chí Minh vào huấn luyện, đào tạo cán bộ cách mạng nói
chung, cán bộ quân sự nói riêng hiện nay. Tuy nhiên, chưa có công trình,
đề tài nào nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn luyện cán
bộ quân sự và vận dụng vào công tác đào tạo cán bộ cao cấp quân đội ở
Học viện Quốc phòng.
Trên cơ sở tiếp thu, nghiên cứu và kế thừa những thành quả khoa
học đó, tác giả đi sâu nghiên cứu làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn
luyện cán bộ quân sự - một khía cạnh nhỏ trong toàn bộ tư tưởng của
Người về cán bộ và công tác cán bộ và vận dụng tư tưởng đó vào công tác
đào tạo cán bộ của Quân đội ở Học viện Quốc phòng hiện nay.


9

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về huấn luyện cán bộ quân sự và vận dụng vào công tác đào tạo cán
bộ ở Học viện Quốc phòng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về
huấn luyện cán bộ quân sự.
- Phân tích làm rõ hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về huấn
luyện cán bộ quân sự.
- Nêu được thực trạng công tác huấn luyện cán bộ Quân đội ở Học
viện Quốc phòng trong tình hình hiện nay. Từ đó, nêu lên yêu cầu và đề xuất
những giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác đào tạo cán bộ Quân đội ở Học viện Quốc phòng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Là hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về huấn luyện cán bộ quân
sự và việc vận dụng những quan điểm đó vào đào tạo cán bộ quân đội ở
Học viện Quốc phòng hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn luyện cán bộ quân sự và vận dụng
với đối tượng đào tạo cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược ở Học viện Quốc phòng.
- Thời gian khảo sát, nghiên cứu: từ 1997 đến 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống những quan điểm, nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác huấn


10

luyện nói chung và trong lĩnh vực quân sự nói riêng; hệ thống quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự nghiệp giáo dục - đào tạo, về xây dựng
nhà trường quân đội, về công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội,
đặc biệt là về cán bộ và công tác cán bộ trong Quân đội nhân dân Việt
Nam; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc
phòng, Tổng cục Chính trị, của Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện Quốc
phòng về giáo dục - đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ cao cấp Quân đội
nhân dân Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận Mác - Lênin, đề tài sử dụng phương
pháp lôgíc - lịch sử, đồng thời sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích,
thống kê, so sánh, đối chiếu…
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm cơ bản của Hồ Chí
Minh về công tác huấn luyện cán bộ quân sự; đặc biệt là huấn luyện cán bộ

cao cấp của Quân đội.
- Phân tích, lý giải sâu sắc sự cần thiết đổi mới công tác huấn luyện
cán bộ cao cấp của Quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Học viện Quốc
phòng; trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng
cao chất lượng huấn luyện đội ngũ cán bộ ở Học viện Quốc phòng nói riêng
và của Quân đội ta nói chung.
- Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy cho đối tượng
Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh tại Học viện Quốc phòng; cho
môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh và công tác đảng, công tác chính trị trong
các học viện, nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn có 2 chương, 4 tiết.


11

Chương 1
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ HUẤN LUYỆN CÁN BỘ QUÂN SỰ

1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ HUẤN LUYỆN
CÁN BỘ QUÂN SỰ

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Những năm 40 của thế kỷ XIX, C.Mác - Ph.Ăng ghen đã chỉ ra cho
giai cấp vô sản thế giới sứ mạng lịch sử vẻ vang là "đào mồ chôn chủ nghĩa
tư bản", xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa - trong xã hội đó con người
sống bình đẳng không còn chế độ người bóc lột người. Để thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ to lớn đó, hai ông cho rằng giai cấp vô sản phải xây dựng

được đội ngũ cán bộ - những người đem lý luận cách mạng khoa học kết
hợp với phong trào công nhân, lập nên tổ chức tiên phong của giai cấp
mình. C.Mác kết luận: Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con
người sử dụng lực lượng thực tiễn trong công cuộc đấu tranh giải phóng.
Kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin đặc biệt
coi trọng công tác xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp cho phong
trào cách mạng. Người cho rằng, khi Đảng chưa có chính quyền, vấn đề
đào tạo cán bộ để lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang lật đổ chính quyền tư
sản là rất quan trọng. Khi có chính quyền rồi thì vấn đề đào tạo cán bộ để
lãnh đạo xây dựng và bảo vệ xã hội mới càng trở nên quan trọng hơn. Bởi
vì: "Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào lại có thể giành được quyền
thống trị, nếu như nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong, có đủ khả năng tổ chức
và lãnh đạo phong trào" [43, tr. 473]. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách


12

mạng, V.I Lênin rất quan tâm đến việc thành lập các trường đào tạo cán bộ
cách mạng.
Ngoài các trường đào tạo cán bộ sơ cấp, Người chỉ đạo tổ chức các
trường quân sự cao cấp để đào tạo các cán bộ quân sự cấp cao như Học
viện của Bộ Tổng Tham mưu, các học viện pháo binh, công binh, hải quân,
quân y, học viện kinh tế quân sự và các trường quân sự cao cấp khác. Để
xây dựng đội ngũ giáo viên làm nòng cốt cho công tác đào tạo ở các trường
quân sự, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và V.I. Lênin chỉ thị thành lập
trường Giảng viên của Quân khu Pêtơrôgrát để đào tạo cho Hồng quân
những cán bộ giảng dạy chính trị, cán bộ tổ chức và cán bộ tuyên truyền,
sau này trường đổi thành Học viện quân chính. Nhờ đó, trong những năm
1918 - 1920 các học viện quân sự và các trường đại học quân sự cung cấp

cho Hồng quân 4.538 cán bộ chỉ huy và thủ trưởng trung cao cấp có trình
độ chuyên môn cao.
Đặc biệt, V.I Lênin hết sức quan tâm đến việc đào tạo cán bộ chỉ
huy xuất thân từ công nông, quan tâm đến hoàn cảnh học tập của các học
viên và căn dặn họ "phải kiên trì học tập để nắm vững kiến thức quân sự.
Người luôn luôn dạy các cán bộ chỉ huy phải thương yêu cấp dưới, và
Người đã tự mình làm gương" [42, tr. 102]. V. I. Lênin còn chỉ rõ yêu cầu,
phương thức đào tạo cán bộ chỉ huy không chỉ tiến hành trong các nhà
trường mà phải kết hợp với thực tiễn đấu tranh cách mạng hàng ngày.
Người khẳng định: việc huấn luyện, đào tạo cán bộ tất yếu phải qua
"trường học thực tiễn" và yêu cầu Đảng cần đề bạt một cách có hệ thống
những người đã được thử thách qua thực tiễn vào các cương vị chỉ huy.
Tóm lại, V.I Lê-nin cho rằng, cán bộ là đầy tớ của dân và họ không
có đặc quyền đặc lợi gì. Họ là người trung thành với cách mạng, có bản
lĩnh chính trị vững vàng trước mọi khó khăn, có ý thức tổ chức kỷ luật cao,


13

chấp hành nghiêm túc mọi chỉ thị, nghị quyết của Đảng; biết tiết kiệm,
không tham ô, lãng phí, có quan hệ chặt chẽ với quần chúng, có năng lực
hiểu biết về con người, quy tụ đoàn kết được tập thể; có nhiều kinh nghiệm
công tác ở lĩnh vực mà mình lãnh đạo, quản lý… Đó là những tiêu chuẩn
cần thiết nhất đối với một người cán bộ cách mạng trong điều kiện Đảng
cầm quyền. Đối với đội ngũ cán bộ quân đội, ngoài những tiêu chuẩn nêu
trên, V. I. Lênin yêu cầu phải có những phẩm chất đặc biệt, đó là: "cương
nghị, có tinh thần quả quyết, mạnh dạn, có khả năng lãnh đạo thực tiễn và
được nhiều người tín nhiệm nhất" [44, tr. 491] thì mới đủ sức làm nòng cốt
xây dựng quân đội, và tổ chức, chỉ huy chiến đấu thắng lợi.
Theo V.I Lênin, những phẩm chất nói trên không phải tự nhiên mà

có, nó là kết quả của quá trình đào tạo, huấn luyện thường xuyên và bền bỉ.
Đồng thời kết hợp với rèn luyện thực tiễn mới hội đủ yêu cầu của người
cán bộ lãnh đạo, quản lý tốt. Đó là những kinh nghiệm quý báu được Chủ
tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng một cách sáng tạo vào công tác đào
tạo, huấn luyện cán bộ quân sự, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền của nhân dân ta.
1.1.2. Kinh nghiệm huấn luyện quân sự của dân tộc
Tư tưởng quân sự nói chung, tư tưởng huấn luyện cán bộ quân sự
của Hồ Chí Minh không chỉ có nguồn gốc từ học thuyết quân sự Mác Lênin, mà còn bắt nguồn từ truyền thống quân sự đặc sắc của dân tộc. Bởi
vì, kể từ khi bắt đầu một nhà nước sơ khai, nhân dân ta phải trực tiếp cầm
vũ khí chống ngoại xâm đến trên ngàn năm; thời gian còn lại cũng phải
thường xuyên cảnh giác chống lại mọi mưu mô, hành động nhòm ngó, can
thiệp, quấy phá, lấn chiếm của các thế lực ngoại bang. Hoàn cảnh đặc biệt
ấy của dân tộc ta đã chi phối đến mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, trong đó
có yêu cầu luyện quân, dạy quân, sẵn sàng chống giặc ngoại xâm.


14

Giá trị quân sự truyền thống của dân tộc trong cách rèn tướng, luyện
quân đáp ứng yêu cầu bảo vệ độc lập chủ quyền đã có từ lâu, song hình
thành rõ nét từ thời Lý trở đi với một số đặc trưng cơ bản sau:
- Thường xuyên coi trọng đào tạo, bồi dưỡng nhân tài quân sự phục
vụ sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Trong lịch sử dân tộc ta, người được liệt vào hàng nhân tài quân sự
thường phải là những tướng giỏi. Họ có những điểm chung là có tư duy
quân sự sắc sảo, dày dạn trận mạc, lập được nhiều chiến tích hiển hách,
được quần chúng công nhận, suy tôn, có uy tín và trách nhiệm lớn đối với
tướng sĩ dưới quyền. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Những tài năng quân sự và nhân tài quân sự đầu tiên trong lịch sử

dân tộc ta về mặt phản ánh luận, qua hầu hết các thông tin, đều là những thủ
lĩnh quân sự của thị tộc, bộ lạc. Vì thế phương thức phát hiện, tuyển chọn,
đào tạo nhân tài quân sự cũng mặc nhiên nằm trong khuôn khổ của việc
phát hiện, tuyển chọn, đào tạo các thủ lĩnh quân sự của xã hội [1, tr. 74-76].
Do đó, yêu cầu trước tiên là phát hiện khả năng bẩm sinh (có sức
khỏe, có cơ thể to lớn, có biểu hiện năng khiếu về quân sự), được ghi nhận
một vài công tích xuất sắc (đi săn giỏi, bơi tài, đẵn cây, vác đá tốt, hoặc
giao đấu thắng lợi) của cá thể giữa cộng đồng. Kết hợp với việc thử thách,
rèn luyện, thông qua các sinh hoạt cộng đồng với cá thể… để tuyển lựa.
Tiêu chuẩn tuyển lựa chính là sự vượt trội của cá thể ai thắng, ai thua trong
những cuộc thử thách, rèn luyện như thế. Khi được cộng đồng tôn vinh
thành thủ lĩnh quân sự, "nhà quân sự" sẽ có cả cuộc đời hoạt động giữa
cộng đồng và vì lợi ích cộng đồng.
Những thế kỷ đầu công nguyên, trước nạn Bắc thuộc, đặc biệt là sau
cuộc xâm lược của Mã Viện, chúng giải thể "cơ cấu" văn minh và xã hội
Đông Sơn cổ truyền, chế độ thủ lĩnh quân sự truyền thống của nước Văn


15

Lang - Âu lạc cũng bị thay đổi. Nhiều thủ lĩnh quân sự trở thành thủ lĩnh
vùng, sử cũ gọi là các "hào trưởng", "thổ hào", "thổ ty"… Đến thế kỷ thứ X,
đó là các "sứ quân". Các thủ lĩnh như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, rồi Phùng
Hưng, Mai Thúc Loan…, là những người như thế. Trong thời kỳ lịch sử
này, đặc điểm nổi bật là: để chống Bắc thuộc, dân tộc ta đã vận dụng có
hiệu quả một phương thức giữ nước truyền thống, cố gắng giữ sắc thái bản
ngã đã hình thành từ thời các vua Hùng, để dựa vào đó không cho kẻ thù
ngoại bang đồng hóa. Trên nền của sự bảo lưu "cơ cấu" đó, việc đào tạo,
tuyển lựa nhân tài quân sự của dân tộc ta vẫn theo phương thức cũ, nhưng
có thêm một tiêu chuẩn là phải có ý chí, có quyết tâm chống giặc ngoại

xâm để khôi phục "nghiệp xưa họ Hùng".
Từ sau thế kỷ X, khi hình thành phát triển nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền thì vấn đề phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng
nhân tài quân sự cũng phát triển và chặt chẽ hơn, nhưng vẫn tuân thủ
những điểm chung đã nêu ở trên.
- Quan tâm và khuyến khích các hình thức tổ chức trường lớp để
huấn luyện nhân tài quân sự.
Từ những khảo cứu khoa học, các tài liệu đã khẳng định chắc chắn
rằng, các trường lớp dạy võ - các lò võ trong dân gian, do dân tự tổ chức ở
các làng bản, có từ thời Hùng Vương, và như thế là có trước các lớp học
chữ, học văn, trước các trường của nhà nước. Hình thức tổ chức các trường
lớp dân lập bằng việc huy động sức dân là phổ biến đã đào tạo nên những
võ tướng trụ cột của triều đình thời Hùng Vương - An Dương Vương, các
lãnh tụ khởi nghĩa thời Bắc thuộc… Các vua buổi đầu thời phong kiến độc
lập: Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn… đều vốn là những
võ tướng được rèn tập dân dã ở làng, ở chùa như vậy. Cho đến sau này, khi
nhà nước đã lập ra các trường quốc lập thì trường dân lập vẫn là phổ biến,
đào tạo ra số đông nhân tài, trong đó có các nhân tài quân sự. Lịch sử còn


16

ghi rõ những năm 931 (Tân Mão), khi nhà Nam Hán chiếm được Giao
Châu nhưng chính quyền đô hộ của chúng chỉ kiểm soát ở thành Đại La và
một số vùng xung quanh. Tại các địa phương, quyền cai trị vẫn thuộc về
các hào trưởng và tướng lĩnh của họ Khúc. Họ tích cực xây dựng lực
lượng, chờ thời cơ nổi dậy đánh đuổi quân xâm lược. Tiêu biểu hơn cả là
lực lượng của hào trưởng Dương Đình Nghệ ở làng Ràng thuộc châu Ái
(tức Dương Xá, nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh
Hóa). Ông nuôi dưỡng 3000 "con nuôi" trong nhà, ngày đêm luyện tập, chờ

ngày tiến ra Giao Châu đánh đuổi quân Nam Hán. Lò võ họ Dương trở
thành nơi tụ "nghĩa" của các hào kiệt trong nước…
Thời Trần, con em các vương hầu, kể cả các hoàng tử đều phải học
cả văn, võ và sau này hầu hết đều là những quan tướng giỏi cả việc trị nước
lẫn việc cầm quân, như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật...
Các vua triều Trần khi có chiến tranh đều có thể cầm quân đánh giặc.
Thời Lê, Giảng Võ đường được củng cố, mở rộng hơn, thành trung
tâm huấn luyện, thi đấu, duyệt quân, có trường đấu, trường bắn, có điện
Giảng Võ là nơi vua ngự duyệt quân và xem bắn…
- Nội dung huấn luyện nhân tài trong các võ đường của nhà nước,
của nhân dân có tính toàn diện
Nội dung huấn luyện nhân tài quân sự của dân tộc ta trong truyền
thống mang nội dung tổng hợp cả kinh tế, quốc phòng - an ninh, văn hóa
và xây dựng con người. Căn cứ vào điều kiện thực tiễn, các môn luyện tập,
thi tài chủ yếu là các môn chạy, bơi, vật, đánh côn, quyền, đao, kiếm, đua
ngựa, đua thuyền, bắn cung, nỏ… Ngay các trường dân lập, nhiều khi học
ngoài giờ và đơn sơ như vậy, nhưng ngoài dạy võ thì lòng dũng cảm, kỷ
cương, xả thân vì nghĩa, quan hệ thầy trò, bạn hữu, đạo trung hiếu… rất
được coi trọng. "Qua đó người học có thể lực, có nghị lực và nhân cách
trong lao động sản xuất, đua tài tại các lễ hội, các cuộc thi thể thao, chống


17

trộm cướp, tự vệ, giữ nhà, giữ làng và sung vào quân ngũ các ngạch quân
thường trực, quân địa phương hoặc dân binh" [38, tr. 71-73]. Thời Lý, thổ
binh (quân địa phương vùng dân tộc ít người) có tới hàng vạn, dưới sự chỉ
huy của các tướng lĩnh người dân tộc đã góp phần quan trọng vào thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Tống. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên
thời Trần, ngoài lực lượng quân cấm vệ, túc vệ của triều đình, quân địa

phương ở các lộ vùng đồng bằng Bắc Bộ, các Vương con của Trần Quốc
Tuấn đã huy động và chỉ huy cũng đến vài chục vạn người. Ở hai Châu
Hoan, Diễn (Thanh Hóa, Nghệ An) cũng có thể huy động được mươi vạn.
Đây là chưa kể gia binh của các Vương hầu, có nhà tới hàng nghìn người.
Những đơn cử như trên cho thấy, ông cha ta xưa đặc biệt coi trọng
việc tổ chức huấn luyện quân sự, huấn luyện trong nhân dân để đáp ứng
những điều kiện riêng của một dân tộc nhỏ liên tục đương đầu với những
kẻ thù lớn mạnh. Trong huấn luyện ở Giảng võ đường, nơi đào tạo các
tướng lĩnh, nội dung huấn luyện rất phong phú và chính quy. Có thể nêu
lên một số nội dung huấn luyện quân sự chủ yếu sau:
+ Học binh pháp - lý luận quân sự của Trung Quốc và Việt Nam.
Đơn cử, thời Trần trong huấn luyện đã cho người học Vũ Kinh Thất
Thư - là 7 cuốn sách kinh điển về võ, tuyển lựa từ hàng trăm trước tác quân
sự Trung Quốc từ thời Xuân Thu đến thời Tống, trong đó coi binh pháp
Tôn Vũ và binh pháp Ngô Khởi là quan trọng nhất; học Binh gia diệu lý
yếu lược và Vạn kiếp tông bí truyền thư của Trần Quốc Tuấn. Đáng chú ý
trong huấn luyện là: cùng với nghệ thuật quân sự truyền thống dân tộc, có
học hỏi tiếp thu lý luận của các nhà quân sự Trung Quốc, nhưng các bậc
tiền bối đã có quan điểm độc lập là xây dựng lý luận quân sự Việt Nam phù
hợp với những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Vì thế, trong
binh pháp của hai nước Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điều khác nhau
lớn: một bên dùng kế đánh nhanh thắng nhanh, một bên đánh lâu dài; bên


18

kia đánh trường trận, bên này dùng đoản binh, "lấy đoản chế trường là sự
thường của binh pháp"; một bên trọng kỵ binh, một bên hay dùng thủy
chiến…Binh pháp gồm nhiều nội dung như các phép kỳ - chính - phân hợp; các thế trận lớn - nhỏ, vuông - tròn, cong - gẫy; các cách đánh tiến giữ - lui - vây - phá; cách đánh ở những điều kiện địa thế thời tiết khác nhau;
thủy chiến, sơn chiến, hỏa công, tượng binh, kỵ binh, bộ binh; các phương

pháp hành quân, đồn trú, cách dùng gián điệp…
+ Học võ nghệ, chiến thuật, kỹ thuật, các bài múa khiên, đánh kiếm,
phi ngựa, cưỡi voi, bắn cung, bắn nỏ, chế tác và sử dụng vũ khí, quân
trang, quân dụng, cách bắc cầu vượt sông, cách dùng hiệu lệnh…
+ Học cách tuyển lựa, huấn luyện, quản lý, sử dụng binh sĩ.
Trong huấn luyện tướng lĩnh dưới quyền và sĩ tốt thì vừa huấn luyện
quân sự vừa giáo dục chính trị - tinh thần. Như lời Nguyễn Trãi: Ngoài dạy
dùng phép ngồi, đứng, tiến, lui, còn hun đúc những điều nhân nghĩa. Trong
giáo dục chính trị, nêu rõ tính chất chính nghĩa, mục tiêu cao cả của cuộc
kháng chiến và hoạt động xả thân chiến đấu của người chiến binh; giáo dục
lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần đoàn kết chiến đấu, quyết tâm rèn
tập võ nghệ… Bài thơ tuyên ngôn độc lập của Lý Thường Kiệt, bài "Hịch
tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, bài "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi…
là những điển hình của nội dung đó.
Một hình thức rất quan trọng của việc huấn luyện quân sự của dân
tộc ta là diễn tập quân sự. Ở các địa phương thì mỗi phiên (từng đợt tập
trung quân) đều có điểm duyệt đội ngũ và tập dượt các phương án, tùy theo
nhiệm vụ được giao. Các vua nhà Trần, nhà Lê thường xuống các đạo
duyệt quân tập trận. Ở trung ương thì vài năm một lần, hoặc khi chuẩn bị
chống ngoại xâm, có tổng điểm duyệt quân số, khả năng chiến đấu của
quân đội, sự phối hợp trong triều đình, các địa phương và nhân dân cùng
lực lượng vũ trang theo các phương án phòng chống kẻ thù.


19

Như vậy, để xây dựng quân đội mạnh, dân tộc ta đặc biệt quan tâm
giải quyết hai khâu then chốt: Thứ nhất, tuyển chọn và rèn luyện đội ngũ
tướng lĩnh có năng lực chỉ huy, tài trí, trung thành, quân sĩ thiện chiến. Thứ
hai, giáo dục sự đoàn kết nhất trí, chung sức chung lòng của tướng sĩ để có

được "đội quân một lòng như cha con" [9, tr. 77]. Cả hai khâu then chốt đó,
không những được tổ tiên ta đề cập trong binh pháp mà còn được vận dụng
nhuần nhuyễn trong thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang trong các thời
kỳ lịch sử.
Tóm lại, các triều đại Việt Nam xưa đã có nhận thức sâu sắc vai trò
quan trọng của việc huấn luyện tướng sĩ và khuyến khích, bảo trợ trường
lớp trong nhân dân làm cơ sở vững chắc cho công cuộc giữ nước. Nhờ đó,
nền giáo dục quốc phòng đã sản sinh ra nhiều tướng soái lỗi lạc, nhiều
người tài kiêm văn võ, trở thành trụ cột của triều đình, đóng góp to lớn
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Công cuộc giáo dục đó
còn đào tạo ra hàng vạn chiến binh - lực lượng chiến đấu trên chiến trường góp phần quyết định vào chiến công chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
Hiểu và nắm vững sâu sắc truyền thống quân sự của dân tộc, Hồ
Chí Minh vừa tiếp thu học thuyết quân sự Mác - Lênin, vừa kế thừa và phát
triển truyền thống quân sự của dân tộc, nhất là kinh nghiệm luyện tướng,
dạy quân của cha ông lên một trình độ mới, phù hợp với đặc điểm của thời
đại chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc.
1.1.3. Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm đào tạo cán bộ quân sự
của thế giới
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn có ý thức
chọn lọc tiếp thu kinh nghiệm huấn luyện, đào tạo cán bộ quân sự từ nhiều
ngọn nguồn khác nhau. Cùng với quá trình khảo sát kinh nghiệm xây dựng


20

lực lượng vũ trang của nhiều nước, Người chọn lọc những nội dung tích
cực và phù hợp để phục vụ mục đích xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự,
chuẩn bị cho cuộc đấu tranh vũ trang giải phóng của dân tộc.
Vì thế, Hồ Chí Minh đã tích cực nghiên cứu, chắt lọc những giá trị

trong di sản quân sự phương Đông cổ đại để giáo dục cho người cán bộ,
chỉ huy quân sự. Nếu như trong Hồ Chí Minh toàn tập, Người nhắc lại
nhiều luận điểm, cách ngôn của Khổng Mạnh, ví như luận điểm "Tiên thiên
hạ ưu, hậu thiên hạ lạc" (lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ) được nhắc tới
14 lần ở những thời điểm khác nhau, với những cách diễn đạt khác nhau,
thì chỉ trong khoảng thời gian không dài lắm (1941 - 1946), Người đã hai
lần dịch và giới thiệu nhiều luận điểm quân sự trong Binh pháp Tôn Tử để
hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta trong cuộc chiến tranh giải
phóng. Hồ Chí Minh nêu rõ rằng:
Ông Tôn Tử là một người quân sự có tiếng nhất ở Trung
Quốc. Ông sinh hơn 2.000 năm trước. Ngày nay chẳng những
trường học Trung Quốc, mà những trường học quân sự các nước
cũng lấy phép này làm gốc và ra sức nghiên cứu. Vì phép ông
Tôn Tử tuy đã lâu đời nhưng nguyên tắc đến nay vẫn là rất đúng.
Nguyên tắc của Tôn Tử chẳng những dùng về quân sự đúng, mà
dùng về chính trị cũng rất hay [55, tr. 513].
Đồng thời, Hồ Chí Minh còn tiếp thu, chọn lọc các giá trị tư tưởng
trong tác phẩm "Phép thuật làm tướng" của Gia Cát Khổng Minh. Chính
Người đã biên dịch và đặt tên là "Cách huấn luyện cán bộ quân sự của
Khổng Minh". Trong tác phẩm này, Hồ Chí Minh biên dịch hết sức ngắn
gọn, súc tích, phù hợp với nhận thức và điều kiện Việt Nam, gồm 36 mục
răn dạy người cán bộ quân sự.
Tuy nhiên, trong tiếp thu chọn lọc giá trị huấn luyện cán bộ quân sự
phương Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một thái độ rất khoa học, không


21

đơn giản sao chép, vận dụng một cách giáo điều mà luôn luôn sáng tạo,
phù hợp thực tiễn. Người vận dụng nhiều mệnh đề, nhiều nguyên lý quân

sự của "binh pháp" cổ phương Đông. Ví như, trong giáo dục cán bộ quân
đội, nhất là cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị theo hình mẫu "người lãnh
đạo, người đầy tớ của nhân dân", Hồ Chí Minh đã viện dẫn cách nói của
Khổng Minh trong sách "Phép thuật làm tướng" như:
Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ tổng tư lệnh trở xuống, phải
săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên, phải xem đội
viên ăn uống như thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc
của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơn, cán bộ không được kêu mình
đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ
đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt. Thế mới là
dân chủ, là đoàn kết, là tất thắng [47, tr. 312].
Những câu nêu trên cho thấy, Người thông hiểu rất sâu sắc nội dung
cốt lõi của tư tưởng quân sự phương Đông cổ đại và vận dụng nó phục vụ
cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Cùng với việc nghiên cứu, chọn lọc tiếp thu giá trị văn hóa quân sự
phương Đông, Hồ Chí Minh còn chọn lọc tiếp thu những giá trị văn hóa
quân sự phương Tây, nhất là kinh nghiệm đào tạo cán bộ chỉ huy quân sự.
Do hoạt động nhiều năm trên quê hương Cách mạng Tháng Mười,
Người có điều kiện nghiên cứu về Hồng quân Xô viết. Người chỉ ra rằng,
trải qua 15 năm "kiến thiết" trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, Hồng
quân Xô viết đã trở thành một đội quân có tổ chức chặt chẽ, vũ khí tối tân,
nhất là được huấn luyện chu đáo. Đội quân đó trong những năm 1938 1939 đã đánh bại "phát xít Đức đã từng xưng hùng, xưng bá ở châu Âu"
khiến phát xít Đức phải "hoảng vía", rồi đến bị chôn sống không ngóc đầu
lên được. Lập được nhiều chiến công huy hoàng đó là do Hồng quân Xô


22

viết có nhiều ưu điểm. Người rút ra 4 ưu điểm của Hồng quân mà ta cần
học tập. Thứ nhất, Hồng quân Xô viết "biết phép chiến đấu". Người phân

tích: Đây là một ưu điểm rất quan trọng. Vì rằng, nếu chỉ dựa vào vũ khí
tối tân và binh lực mà không "biết phép chiến đấu" thì không thắng nổi đối
phương. Do đó, họ rất coi trọng việc học tập và rèn luyện. Thứ hai, Hồng
quân Xô viết được hưởng nền văn hóa giáo dục tốt đẹp. Nhờ đó, các binh sĩ
ở các binh chủng kỹ thuật như pháo thủ, xe tăng, lái máy bay đều am hiểu
kỹ thuật, chiến thuật, làm chủ vũ khí, phương tiện chiến đấu. Các công
việc giáo dục đều nhằm nâng cao tinh thần binh sĩ khiến cho họ phát huy
được tài năng, do đó mà lập được chiến công oanh liệt. Thứ ba, Hồng
quân Xô viết là đội quân có mối quan hệ đặc biệt giữa quân và dân: quân
dân nhất trí. Trong Hồng quân, tướng lĩnh và binh sĩ đều là những con em
của thợ thuyền, dân cày và trí thức. Dựa vào nền tảng giai cấp công nông
của xã hội Xô viết, nên quân đội với nhân dân "cũng như anh em một
nhà", có tinh thần đoàn kết cao. Nhân dân Liên Xô chẳng những hăng hái
tham gia quân đội, mà còn tích cực ủng hộ, giúp đỡ quân đội. Thứ tư, Hồng
quân Xô viết có những vị chỉ huy tối cao sáng suốt, đủ đức tài. Nhờ đó,
Hồng quân Xô viết lập được nhiều chiến công, hoàn thành nhiệm vụ được
giao [56, tr. 221-223]. Tóm lại, Hồng quân Xô viết có nhiều ưu điểm là do
được huấn luyện đầy đủ và chu đáo.
Hồ Chí Minh không những nghiên cứu và rút ra kinh nghiệm của
Hồng quân Xô viết về đào tạo cán bộ quân sự mà cả của Hồng quân Trung
Quốc, kể cả kinh nghiệm của quân đội Quốc dân đảng. Bởi như Người nói:
"Văn hóa của các dân tộc khác cần phải nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong
trường hợp đó mới có thể tiếp thu nhiều hơn cho chính mình" [50, tr. 517].
Quan điểm đó, được thể hiện rõ trong cuốn sổ chép những bài thơ Nhật ký
trong tù (viết khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam từ tháng


23

8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943), ở những trang cuối là Mục đọc sách và

Mục đọc báo. Trong Mục đọc sách, Người ghi: "Những hiểu biết cơ bản về
quân sự" bao gồm các vấn đề xây dựng quân đội chính quy như: Tổ chức
biên chế, chỉ huy, kỷ luật, huấn luyện quân sự, giáo dục tư tưởng. Bản ghi
chép nêu: quân đội chính quy có tổ chức từ tiểu đội đến sư đoàn, quân đoàn;
có "kỷ luật nghiêm minh", được chuẩn bị về "lương thực, vũ khí, thông tin
liên lạc và về thể lực". Quân đội ấy phải có "động tác nhanh chóng, mệnh
lệnh đơn giản, rõ ràng, thiết thực; hành động nhất trí, chính xác; thời chiến
bình tĩnh như thời bình, thời bình khẩn trương và chịu đựng gian khổ như
thời chiến". Quân đội ấy phải xây dựng toàn diện "có phẩm chất trong sạch
đáng kính", có khả năng cơ động, tích cực, bí mật, nội bộ đoàn kết, cán bộ
trung thực. Trong quân đội ấy người chỉ huy phải đích thân làm đến cùng
mọi việc, phải phấn đấu hoàn thành chức trách, đồng thời nhanh chóng khắc
phục các thiếu sót trong công việc; đầu nghĩ, miệng nói, mắt nhìn, tay làm,
chân đến, không sợ khó, sợ khổ, càng vất vả càng hăng hái, quyết tâm. Quân
đội ấy phải có hậu phương vững chắc, ở đó, một người làm việc bằng cả hai
người; một ngày làm công bằng cả hai ngày, một vật dùng bằng hai vật.
Quân đội ấy liên hiệp sự đồng tình lâu dài của thế giới với quốc gia dân tộc,
đấu tranh cho hòa bình và chính nghĩa chung trên thế giới. Muốn vậy, quân
đội đó phải coi trọng việc huấn luyện, đào tạo cán bộ, chỉ huy quân sự.
Đó là những kinh nghiệm quý báu của các nền văn hóa quân sự thế
giới mà Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước đã học tập, tích
lũy được, là một trong những cơ sở quan trọng để Người vận dụng sáng tạo
trong đào tạo, huấn luyện cán bộ quân sự của cách mạng Việt Nam.
1.1.4. Thực tiễn đấu tranh quân sự của cách mạng Việt Nam
Lịch sử Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đến đầu những năm 30 của
thế kỷ XX đã chứng minh rằng, con đường cải lương, cầu xin sự ban ơn


24


của thực dân Pháp, hoặc chờ đợi sự chia sẻ từ nền văn minh "tự do, bình
đẳng, bác ái" mà chúng nêu ra là hoàn toàn ảo tưởng.
Con đường bạo lực vũ trang để giành lại độc lập dân tộc không phải
là điều mới mẻ đối với truyền thống mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước
của dân tộc Việt Nam. Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhiều nhà yêu
nước Việt Nam đã phát động cuộc đấu tranh bằng bạo lực nhằm đánh đuổi
kẻ thù giành lại độc lập dân tộc. Tiêu biểu cho con đường bạo lực thời kỳ
này là phong trào Văn Thân, Cần Vương, Yên Thế, Việt Nam quang phục
hội và Việt Nam Quốc dân Đảng… Tuy nhiên, tất cả các phong trào ấy đều
bị thất bại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có sự thiếu hụt một đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cả về chính trị và quân sự.
Bởi vậy, sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường
giải phóng cho đồng bào mình khỏi thân phận nô lệ, Hồ Chí Minh đã chủ
động, tích cực xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt cho cách mạng
Việt Nam. Người không chỉ lựa chọn gửi thanh niên đi học trong các
trường chính trị, quân sự ở nước ngoài mà còn trực tiếp mở lớp huấn luyện
chính trị cho cán bộ trẻ tuổi Việt Nam. Học xong, phần lớn học viên được
cử về nước hoạt động gây dựng cơ sở cách mạng, tích cực vận động, tuyên
truyền, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930).
Đặc biệt, từ khi về nước (1941) cùng Trung ương Đảng trực tiếp
lãnh đạo cách mạng. Hồ Chí Minh rất chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
quân sự cho lực lượng vũ trang, Người chỉ rõ: "Việc đào tạo cán bộ nay đã
thành công tác gấp rút, không thể bỏ qua một giờ phút. Tất cả các cấp bộ
chỉ huy của Đảng phải đặc biệt chú ý công tác này" [2, tr. 211]; đồng thời
nhấn mạnh vấn đề đào tạo cán bộ chính trị, quân sự "đủ năng lực và kinh
nghiệm, đủ sức chỉ huy và xoay xở tình thế" [11, tr. 130]. Từ đó, Hồ Chí
Minh đã chỉ thị cử nhiều cán bộ đi học quân sự ở nước ngoài, như giao cho
đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp chọn những thanh niên ưu



25

tú gửi đi học lớp "Đệ tứ chiến khu vô tuyến điện, điệp báo viên" tại Liễu
Châu (Quảng Tây - Trung Quốc) do Trương Phát Khuê - Tư lệnh đệ tứ
chiến khu tổ chức. Nhân dịp này, nhằm động viên thanh niên đi học quân
sự, Người viết bài thơ 44 câu nhan đề: "… Hoan nghênh thanh niên đi học
quân sự", trong đó có đoạn:
Muốn đánh Nhật, muốn đánh Tây,
Thanh niên ta phải ra đây học hành.
Một là học việc nhà binh
Hai là học biết tình hình người ta.
Thanh niên là chủ nước nhà
Phải cho oanh liệt mới là thanh niên [77, tr. 548].
Cuối năm 1941, Tổng bộ Việt minh chọn 30 người, trong đó có Hoàng
Văn Thái, Hoàng Minh Thảo, Đàm Quang Trung, Vũ Lập, Nam Long, Thanh
Phong… đi học lớp Tham mưu ở Trường quân sự Liễu Châu do Trung tướng
Dương Kế Vinh làm hiệu trưởng. Trước khi lên đường, Người căn dặn "cả đoàn
phải cố gắng học tập quân sự, sử dụng thành thạo các loại vũ khí" [5, tr. 74].
Cùng với việc cử nhiều cán bộ đi học quân sự ở nước ngoài, từ giữa năm
1941, Người chỉ thị mở nhiều lớp huấn luyện chính trị, quân sự ngắn hạn
cho các bộ đội địa phương. Người trực tiếp tham gia giảng bài, truyền đạt
các nội dung về tình hình thế giới, trong nước, nhiệm vụ cách mạng, năm
bước công tác quần chúng, chiến thuật du kích.
Từ đầu năm 1942, Hồ Chí Minh giao cho Đảng bộ Cao Bằng mở
nhiều lớp huấn luyện quân sự cấp tỉnh (gọi là lớp quân chính) để đào tạo
cán bộ quân sự cho phong trào. Thực hiện nhiệm vụ Người giao, Tỉnh ủy
Cao Bằng đã mở được 4 khóa quân chính. Nội dung chủ yếu ở các khóa
học gồm cả chính trị và quân sự; riêng về quân sự chủ yếu học chiến thuật
quân sự và kiến thức cơ bản về sử dụng vũ khí. Các học viên sau khi đào



×