Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tieu luân triết ẢNH HƯỞNG của PHẬT GIÁO đối với đời SỐNG xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.88 KB, 18 trang )

PHẦN A : MỞ ĐẦU
Phật giáo là một trường phái triết học ra đời vào thế kỉ thứ VI trước công
nguyên ở Ấn Độ. Kể từ khi ra đời đến nay đã hơn 2500 năm nó vẫn tồn tại và
phát triển cùng xã hội loài người, đi sâu vào lòng người, có ảnh hưởng sâu rộng
trên toàn thế giới. không chỉ là một trường phái triết học nó còn là một tôn giáo
lớn với hệ thống kinh, luận, luật đồ sộ.
Phong trào công nghiệp hóa- hiện đại hóa bắt đầu từ những năm 60 của
thế kỉ XVIII giúp cho nền kinh tế thế giới có những bước phát triển nhảy vọt, của
cải vật chất tăng nhanh. Đi kèm với nó là những ham muốn vật chất của con
người hiện đại. Đời sống tinh thần, những giá trị nội tại tự thân dần dần bị coi
nhẹ. Trống rỗng tinh thần, nghèo nàn tâm linh là những khủng hoảng nhân văn.
Nếu không có sự quan tâm đúng mức để bù lấp khoảng trống tinh thần của con
người hiện đại, nếu nấc thang tinh thần dừng lại quá lâu ở hưởng thụ vật chất nó
sẽ kìm hãm sự phát triển chung của xã hội. Những mặt trái của xã hội công
nghiệp như suy đồi đạo đức , khủng hoảng lòng tin là điều kiện thuận lợi để
những giáo lý của đạo Phật có điều kiện phát triển, là chỗ dựa tinh thần của con
người hiện đại.
Triết học Phật giáo có tư tưởng chỉnh thể về vũ trụ, tinh thần nhân văn tôn
giáo. Nghiên cứu triết học Phật giáo và phát huy những mặt tích cực của nó để
điều chỉnh tâm linh con người, tiến tới điều chỉnh mối quan hệ giữa người với
người, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giáo dục đạo đức cho con người
là vấn đề có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển của nhân loại nói chung và
Việt Nam nói riêng. Việc trấn hưng Phật giáo và phát huy tác dụng của nó trong
giai đoạn hiện nay đặt ra vấn đề lý luận phức tạp và là một thực tiễn nghiêm túc,
bức thiết.Nghiên cứu Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và con người
Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định
hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.


PHẦN B: NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO


1.Điều kiện ra đời của Phật giáo.
Đạo Phật do đức Thích Ca Mâu Ni sáng lập ra ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ IX
đến thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi trước tiên
ở các nước Châu Á và Châu Phi sau đó lan ra toàn thế giới.
Thích Ca Mâu Ni tên thật là Tất Đạt Đa ( Siddharta), con trai của vua
nước Tịnh Phạn là Tịnh Phạn Vương ( Suđhodana), một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn
Độ ( nay thuộc đất Nê Pan ) ông sinh ra vào khoảng năm 623 trước công nguyên.
Cuộc đời của Phật Thích Ca được kể lại ở trong truyền thuyết như sau:
Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của Suđhodana, Vua của người
Saia trong lúc ngủ đã có một giấc mơ tuyệt diệu. Bà mơ thấy một luồng ánh sáng
trắng từ bầu trời chiếu xuống thân thể mình, theo luồng ánh sáng này là một con
voi màu với sáu chiếc ngà có đoá hoa sen ở vòi bước tới và chui vào sườn bà.
Lúc ấy Hoàng hậu Ma Da tỉnh dậy với một niềm hoan hỷ tràn đầy, chưa từng có
trước đây.Bà vội vàng đến báo cho vua biết và các nhà thong thái được vời tới để
giải mơ của Hoàng hậu. Những vị này cho biết hoàng hậu sẽ sinh một đứa bé
trai, và thái tử sau này sẽ trở thành một vĩ nhân, không chỉ đem lại hạnh phúc
cho riêng hoàng tộc mà còn đem lại hạnh phúc cho toàn thể nhân loại.
Nghe những lời tiên đoán tốt đẹp này vua và hoàng hậu tràn ngập niềm
vui. Ðặc biệt nhà vua rất sung sướng, vì từ lâu ông ao ước có một người con trai
để nối ngôi, và ước mơ đó hôm nay sắp thành sự thật.
Theo phong tục Ấn Ðộ thời đó, người đàn bà khi sinh phải về nhà cha mẹ
ruột của mình.Biết ngày sinh sắp đến, hoàng hậu Ma Da và một số người bạn,
người hầu rời khỏi hoàng cung, bắt đầu chuyến hồi hương.
Trên đường trở về, gần đến quê hương không xa, hoàng hậu trở dạ. Biết
mình sắp sinh con nên bà bảo mọi người dừng lại nghỉ ngơi. Họ dừng chân tại
vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini).Tại đây hoàng hậu đã hạ sinh thái tử.vua và hoàng
hậu đã quyết định đặt tên cho thái tử là “Tất Ðạt Ða” (Siddhartha), nghĩa là: Người
đem đến điều tốt lành. ua và hoàng hậu đã quyết định đặt tên cho thái tử là “Tất Ðạt



Ða” (Siddhartha), nghĩa là: Người đem đến điều tốt lành.Các nhà thông thái đều cho
rằng sau này Tất Ðạt Ðasẽ trở thành một chuyển luân thánh vương, nhưng có một
ẩn sĩ lâu năm trong núi thì cho rằng thái tử sẽ trở thành một bậc đại giác, một vị
thầy cao quý, hướng dẫn chúng sinh sống theo đạo lý yêu thương và tỉnh thức .Để
ngăn cản Hoàng tử không nghĩ tới việc tu hành, đức vua cha đã tìm mọi cách tạo ra
quanh người con trai mình một cuộc sống vương giả.Hoàng tử được học mọi kiến
thức để sau này trở thành một vị vua tài ba anh minh trị vì một đất nước ấn Độ bao
la.Thế rồi, nhà vua và quần thần đã kén cho Hoàng tử một người vợ kiều
diễm.Nhưng cuộc đời vương giả không cám dỗ được Hoàng tử trẻ tuổi. Bốn sự việc
do các thần tạo ra đã làm thay đổi hẳn cuộc đời Hoàng tử Siddhartha. Đó là một lần
khi đang dạo chơi trong vườn, Hoàng tử thấy một ông già gày còm, ốm yếu rồi
nhận ra một điều rằng mọi người rồi ai cũng phải già yếu như thế.Ít lâu sau Hoàng
tử lại được chứng kiến người ốm và người chết. Ba hoàn cảnh trên làm cho Hoàng
tử băn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu con người khỏi những trầm luân
đau khổ của kiếp luôn hồi: Sinh, lão, bệnh, tử chính sự việc thứ tư đã đem đến cho
Hoàng tử niềm hi vọng và an ủi. Lần đó, Hoàng tử nhìn thấy một vị hành khất dáng
vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại.Vừa nhìn thấy vị hành khất Hoàng tử như bừng
tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như thế.
Được tin, đức vua Suddhođana tìm mọi cách ngăn cản Hoàng tử.Thế nhưng
Hoàng tử không thể nào xua đi được bốn sự kiện mà mình đã chứng kiến khiến lòng
dạ của Hoàng tử không lúc nào được thanh thản.Ngay cả tin mừng công chúa
Yashôdhara sinh cho chàng một Hoàng nam cũng không làm cho Hoàng tử Sidhartha
vui. Ngày đêm khi đứa con ra đời, khi mọi người ngủ say, Hoàng tử lặng lẽ đến nhìn
vợ và con lần cuối rối đánh thức người đánh xe dậy cùng minh cưỡi con ngựa
Canthaca yêu quý rời khỏi cung. Khi đã rời khỏi đô thành Hoàng tử trút bộ áo Hoàng
tộc và mặc lên người bộ quần áo thường dân. Hoàng tử dùng kiếm cắt bộ tóc dài của
mình và nhờ người đánh xe mang mớ tóc và quần áo về trao lại cho đức vua. Rời
hoàng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha đã trở thành nhà tu hành.



Thoạt đầu, Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh. Sau
đó, ngài vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các phép thiền
định và những triết lý của upanishad. Học thuyết và thực hành giải thoát cá nhân
của Upanishad không hấp dẫn Hoàng tử.Chàng đi tiếp và nhập vào nhóm năm
người tu khổ hạnh.Suốt sáu năm trường ép xác Hoàng tử gần như chỉ còn bộ
xương khô mà vẫn chưa tìm ra chân lý của sự giải thoát. Ngài bèn bỏ cuộc sống
tu hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thường.
Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dưới gốc cây bồ
đề ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nước
Magadha. Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân trong
vùng đem cho ngài một bát cơm to nấu bằng sữa.Ăn xong, ngài xuống sông tắm
rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định và nguyện sẽ không đứng dậy
nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự đau khổ.Và Hoàng tử đã ngồi
dưới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm.Bảy tuần lễ đó là cả một chuỗi ngày đầy
thử thách. Để phá sự thiền định của Hoàng tử, con quỹ dữ Mara tìm mọi cách
làm chàng nản chí. Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành một sứ giả đến báo cho
Hoàng tử một tin bịa đặt là em trai Hoàng tử là Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt đức
vua cha vào ngục và chiếm nàng Yashodrara làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó không
làm cho Hoàng tử bận tâm. Mara bèn cho gọi các quỷ dữ tới làm ra mưa to, gió
lớn gây ra động đất, lụt lội nhưng Hoàng tử vẫn ngồi bình thản dưới gốc cây bồ
đề, cảm phục trước ý chí kiên định của Hoàng tử, rắn thần Naga dùng thân làm
tán cho mưa gió cho Hoàng tử ngồi. Thấy thế quỷ dữ Mara bèn dùng biện pháp
quyết liệt và tinh tế hơn để công phá vào thành trì kiên định của Hoàng tử
Sidhartha. Nó cho gọi ba cô con gái xinh đẹp của mình là các nàng Khát vọng,
khoái lạc và Dục vọng tới múa nhảy mê hoặc nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng
biện pháp cuối cùng của quỷ Mara cũng thất bại và lũ quỷ phải dời khỏi gốc cây
bồ đề. Rạng sáng ngày 49, Siddhartha đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, đã tìm ra
được vì sao thế giới lại tràn đầy khổ đau và đã tìm ra được cách để chiến thắng
sự đau khổ. Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ và trở thành Buddha (Đấng giác



ngộ).Sau khi giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy ngày nữa dưới cây bồ đề suy
ngẫm về những chân lý diệu kỳ mà mình đã khám phá.Ngài phân vân không biết
có nên phổ biến đạo pháp của mình cho thế giới không vì có huyền diệu quá khó
hiểu quá đối với mọi người.Chính thượng đế Brahma phải giáng trần để khích lệ
Đức phật truyền bá đạo pháp của mình cho thế gian.Chỉ khi đó Phật mới dời khỏi
gốc cây bồ đề đi đến khu vườn Lộc Uyển gần Varanasi để giảng bài thuyết pháp
đầu tiên cho năm người bạn tu khổ hạnh của mình. Sự kiện này được ghi chép lại
như một sự kiện quan trọng nhất của Đạo phật và được gọi là Phật quay bánh xe
Đạo pháp ( chuyển Pháp Luân ). Giáo pháp mới của Đạ phật đã gây ấn tượng
mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh chóng trở thành những môn đồ đầu tiên của
Đức Phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đã tăng lên 60 người, theo thời gian
số môn đồ Đạo Phật ngày càng tăng và các tổ chức tăng gia đã ra đời.
Đến năm 80 tuổi, biết mình trước được ngày phải ra đi, Đức Phật đã chuẩn
bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập được sau khi ngài viên tịch. Sau
đó tại một nơi thuộc ngoại vi thành phố Cusinagara, Phật đã nhập diệt. Câu nói
cuối cùng của Phật là: “ Hỡi các tì kheo tất cả những gì đang tồn tại rồi sẽ qua đi.
Vậy các người càng không nên ngừng gắng sức!”.
2. Nội dung chủ yếu của tư tưởng triết học Phật giáo.
Tư tưởng triết lý Phật giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển
rất lớn, được tổ chức thành ba phần lớn gọi là tam tạng gồm:
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều tập
dưới dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
-Tạng Luật: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả
năm bộ phái Phật giáo như: “ Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng kỷ
luật của “Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” … Sau này còn thêm
các Bộ luật của Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật
giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo
pháp của Phật giáo.

Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện về thể giới quan và nhân
sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.


2.1Thế giới quan trong Phật giáo.
Thế giới quan trong Phật giáo thể hiện qua 3 phạm trù cơ bản tương ứng với
3 quan niệm của Phật giáo về thế giới.
Một là: thế giới này không do ai tạo ra mà nó tự tồn tại. quan điểm này chống
lại quan điểm của kinh Veda là Brahman tạo ra thế giới. Khái niệm phạm trù này
gọi là vô tạo giả.Theo quan điểm này đạo Phật mang yếu tố duy vật tự phát.
Hai là: Thế giới luôn luôn vận động biến đổi không ngừng, không có sự
đứng yên nào cả, tất cả đều đang vận động. Khái niệm phạm trù này gọi là vô
thường nghĩa là thế giới các sự vật luôn luôn biến đổi.Đây là quan điểm biện
chứng của đạo Phật.
Ba là: Về mặt bản chất không có sự vật nào tồn tại, tất cả đều là trung gian
trong quá trình biến đổi. Khái niệm phạm trù này gọi là vô ngã.
Phật giáo cho rằng, thế giới vận động theo quy luật nhân quả. Tức là một
nguyên nhân có thể tạo ra nhiều kết quả.Những kết quả của đạo Phật này mang
tính tất nhiên định mệnh cho nên nhân nào quả nấy.Có nhiều cách phân loại nhân
quả.Xét về thời gian có nhân quả đồng thời nghĩa là anh tạo ra nhân thì trong
cuộc đời anh nhận được quả; Nhân quả khắc thời nghĩa là anh tạo ra nhân thì đời
sau mới nhận được quả.Xét về tính chất có thể có nhân quả thiện và nhân quả
ác.Muốn nhân tạo thành quả thì phải có điều kiện để tạo thành quả là duyên.
Con người do danh và sắc tạo thành. Danh là những yếu tố tâm lý , yếu tố
tinh thần và yếu tố linh hồn. Sắc là vật chất do đất, lửa, nước tạo thành nên khi
chết đi thì sắc mất nhưng danh còn lại.
Con người sau khi chết đi thì không phải mất hẳn, sau cái chết chỉ có thể
xác mất đi nhưng danh vẫn còn tồn tại, danh này sẽ nhập vào một thể xác khác.
Vì thế chết không phải hết mà là chuẩn bị cho một kiếp khác, chỉ là đổi kiếp nên
con người khi chết đi vẫn phải luẩn quẩn trong vòng luân hồi.Từ đây có quan

niệm về niết bàn. Trong đạo Phật cổ đại thì niết bàn là nơi hoàn toàn giải thoát
khỏi vòng luân hồ khi con người đạt ngộ. Quan niệm khác thì cho rằng niết bàn
là nơi sung sướng nhất.


Nghiệp chướng là sợi dây ràng buộc của linh hồn vời vòng luân hồi. Hành
động tốt dẫn đến kiếp sau sẽ giảm sợi dây ràng buộc, hành động xấu dẫn đến
kiếp sau sẽ nặng hơn, ràng buộc chặt hơn.Nghiệp có 2 loại nghiệp đó là nghiệp
tốt và nghiệp xấu.Nguồn tạo nên nghiệp gồm ý nghiệp, khẩu nghiệp, thân
nghiệp.Trong 3 loại này đạo Phật quan trọng nhất là ý nghiệp.
2.2Nhân sinh quan trong Phật giáo:
Đạo Phật quan niệm rằng “đời là bể khổ” và hướng tới xóa bỏ trật tự đẳng
cấp, tìm con đường giải thoát chúng sinh khỏi vòng luân hồi số kiếp, vượt ra
khỏi bể khổ.Nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong bốn chân lý lớn (tứ diệu đế)
bao gồm khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
-

Khổ đế gồm 3 loại khổ là hành khổ, hoại khổ và khổ khổ; cung có thể chia thành
8 nỗi khổ là sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, ngũ ấm xí thạnh

-

khổ…
Tập đế là nguyên nhân của nỗi khổ.Những nỗi khổ của con người là do 12
nguyên nhân.Thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên)
được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới:
Vô minh:Tức là con người không hiểu được bản chất của thế giới, không
hiểu được “ tứ diệu đế”.Theo đạo Phật đây là nguyên nhân căn bản nhất .
Hành: Nghĩa là hành động có ý đồ tạo ra nghiệp xấu, nó xác địn cho kiếp
sau khổ.

Thức: Đó là vọng thức, tức là xu hướng trở thành người kiếp sau như thế
nào là do cái thấy biết, mong muốn ở kiếp này.
Danh sắc: Thân thể, thể xác chứa sáu cơ quan thụ cảm .Do danh sắc mà có
lục nhập.
Xúc: Là sự tiếp xúc của thể xác với thế giới bên ngoài.
Thụ: Tức là cảm thụ tác động bên ngoài như thế nào.
Ái: Là cảm xúc yêu mến của con người. Chính vì yêu mến mà sinh ra “thủ”
Thủ: Là giữ, bảo vệ, cố chấp
Hữu: Là cố định lại, giữ lại những cảm xúc tiêu cực


Sinh: Con người sinh ra là khổ
Lão: Già kéo theo nhiều cái khổ
Tử: Chết là khổ.
Trong mười hai nhân duyên đó thì vô minh là nguyên nhân gốc của mọi
nỗi khổ, mọi tội lỗi.
-

Diệt đế: Là con người có thể loại bỏ được nỗi khổ khi con người biết nguyên
nhân của nỗi khổ và tu luyện để loại bỏ được khổ.Việc tu luyện có thể đạt được ở
hai mức độ: Hạnh phúc tương đối là con người có tri thức , giảm dục vọng, biết
đủ là sướng; hạnh phúc tuyệt đối là khi con người lên được niết bàn, thoát khỏi

-

vòng luân hồi.
Đạo đế: Là con đường để thoát khỏi nỗi khổ.Có tám con đường để thoát khỏi nỗi
khổ (bát chánh đạo):
Chính kiến:Hiểu biết đúng đắn, hiểu biết thế giới
Chính tư duy: Suy nghĩ một cách đúng đắn, nghĩ những điều tốt lành, phúc

đức,việc thiện, tránhnghĩ những điều xấu.
Chính ngữ: Nói những điều đúng đắn, nói ra những điều thiện, tránh giả
dối khi nói, tránh nói những điều ác khẩu, những điều hai ý.
Chính nghiệp: Làm những nghề nghiệp chính đáng để sinh sống, tránh
sống bằng nghề phi pháp, tránh sát hại mạng sống của người khác và các loài
sinh vật.
Chính mạng: Đó là có đạo đức cá nhân trong sáng, trung thực, nhân ái,
thương người, biết điều chỉnh hành vi của mình.
Chính định kiến: Luôn luôn vươn lên một cách chính đáng, vươn lên theo
con đường tu tập mà đức Phật đã dạy.
Chính niệm: Luôn luôn tâm niệm tu tập theo Phật.
Chính định: Phải kiên định con đường tu luyện theo Phật pháp.
Để thực hiện được tám con đường này con người phải giữ được giới, định, tuệ.


Ngũ giới là năm điều không được làm là: Không sát sinh: Không được giết
hại sinh vật khác, để sinh vật được sống trọn kiếp. Không trộm cắp.Không dâm
dục.Không vọng ngữ: Không nói sai sự thật. Không uống rượu.
Lục độ là sáu điều nên làm: Bố thí là giúp đỡ người một cách vô tư không
tính toán; trì giới là luôn tâm niệm giữ nghiêm giơí luật của nhà Phật; nhẫn nhục
là chịu đựng, kiên nhẫn, nhường nhịn thân khẩu ý; tinh tiến là không ngừng
vươn lên theo con đường của nhà Phật; thiền định là tập trung tư tưởng để tu
luyện thiền định; bát nhã là hiểu biết Phật pháp.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có kiên định thực hiện “Bát hành đạo”,
“Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra khỏi nỗi khổ.
Phật giáo không chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội mặc dù Phật giáo
lên án rất gay gắt chế độ người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua
Bàlamôn giáo. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trương cải tạo
tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Như vậy Phật giáo nguyên
thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo ( vô ngã, vô tạo giả) và có tư

tưởng biện chứng ( vô thường, lý thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết học Phật
giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và
do cái tâm vô minh của con người tạo ra.
2.3 Sự truyền bá Phật giáo trên thế giới
Trước khi Thích ca Mâu Ni tạ thế, các khu vực truyền bá Đạo Phật chủ
yếu ở miền Trung lưu vực Sông Hằng, đặc biệt xung quanh các khu vực thành
phố lớn mới nổi lên. Sau khi ngài tạ thế, các thế kỷ trực tuyến của ngài đã đem
Đạo Phật mở rộng đến hạ lưu sông Hằng về phía Đông, phía Nam đến bờ sống
Caođaveri, phía Tây đến bờ biển Arập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro. ở thời kỳ
thống trị của vua Asôca thuộc vương triều Maurya, Đạo phật bắt đầu phát triển
tới các cùng biển của thứ Đại lục, Đông tới Miama, Nam tới Xrilanca, Tây tới
Xyri, Aicập …. Nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế giới. Sau khi
vương triều Casan (kushan) hưng khởi lại truyền tới Iran, các nơi ở trung tâm
Châu á, rồi qua con đường tơ lụa truyền vào Trung Quốc.


Các nơi khác: Mấy năm gần đây ở một số nước như: Italya, Thuỵ sỹ, thuỵ
Điển, Tiệp …. Việc nghiên cứu Đạo Phật cũng rất sôi nổi, đã xây dựng nên
không ít cơ sở nghiên cứu Phật giáo và trung tâm nghiên cứu Phật học. Ví dụ sở
nghiên cứu Trung Đông, Viễn Đông Italia, dưới sự chủ trì của Đỗ Kỳ đã biên tập
và xuất bản “ Tư sách La mã với Đông Phương” ( Đến năm 1977 đã xuất bản
được 51 loại ) trong đó bao gồm rất nhiều trước tác phẩm Phật giáo.
Nhưng ở trong các quốc gia này số tín đồ không nhiều lắm chỉ chiếm số ít
phần trăm trong tổng số dân.Ngay cả trong số người nổi tiếng trên thế giới ngày
nay cũng chọn Phật giáo làm đạo tu hành cho mình như cầu thủ bóng đá Rôbettô
Bagiô, Erie Cantôna, siêu sao màn bạc Richard Gere.
2.4 Tình hình phát triển của Phật giáo
Trước đây Phật giáo được coi là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới,
nhưng trong những năm gần đây do sự suy yếu của một số quốc gia, số tín đồ
Phật giáo đã tụt xuống đứng sau Đạo Cơ Đốc, Đạo Ixlam và Đạo ấn Độ, chiếm

vị trí thứ tư. Căn cứ thống kê của “ Bách khoa toàn thư Cơ Đốc giáo thế giới”
xuất bản ở Oxford năm 1982, toàn thế giới hiện có 295.570.780 tín đồ Phật giáo.
Con số này so với năm 1972 đã tăng lên 50.000 người ( năm 1972 có
244.800.300 người ). Tín đồ Phật giáo phát triển so với tổng số dân trên toàn thế
giới là rất nhỏ bé


II. ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM.
Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên, kể từ khi du
nhập vào Việt Nam Phật giáo luôn luôn tồn tại và gắn liền với cuộc sống của con
người nước ta,có thể nói Phật giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền
văn hoá Việt Nam. Phật giáo được xem là một trong những nhân tố quan trọng góp
phần định hình nên các quan niệm, chuẩn mực, hệ giá trị đạo đức trong xã hội. Trong
hệ thống giáo lý Phật giáo, chúng ta có thể tìm thấy những cơ sở lý luận xác thực cho
vấn đề đạo đức xã hội, hướng con người tới Chân, Thiện, Mỹ.
Ta biết rằng, khi xem xét bất kỳ tôn giáo nào với tư cách là một hình thái ý
thức xã hội độc lập với các hình thái ý thức xã hội khác, dễ dàng nhận thấy nó
chứa đựng không ít các nội dung đạo đức, bao gồm giá trị, chuẩn mực, lý tưởng
đạo đức….Điều này được thể hiện rõ nét ở đạo Phật, đạo Phật trong suốt quá
trình thăng trầm lịch sử lâu đời, đã khẳng định chân giá trị đích thực đối với sự
nghiệp sáng tạo và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống như: hiền hòa, lễ
độ, kiên nhẫn, vị tha, độc lập tự chủ, thương yêu đùm bọc lẫn nhau… Với tư
cách là một tôn giáo, triết thuyết Phật giáo chứa đựng nhiều nội dung mang tính
giáo dục sâu sắc. Hơn nữa, Phật giáo còn đảm nhiệm vai trò là một chủ thuyết
đạo đức, tham gia tích cực vào việc xác lập, định hình nên hệ thống giá trị đạo
đức trong xã hội. Tuy vậy, khi xem xét vấn đề giáo dục đạo đức xã hội của Phật
giáo Việt Nam nhất thiết phải lưu ý đến những đặc trưng mang tính dân tộc, quy
định tính chất, nội dung, cách thức giáo dục.
Trong khi đó, về mặt thực tiễn, Phật giáo Việt Nam đã từng đảm nhiệm

xuất sắc vai trò giáo dục giá trị, đạo đức xã hội. Do hoàn cảnh lịch sử quy định,
Phật giáo trong suốt quá trình tồn tại, phát triển đã không ngừng thể hiện vai trò
giáo duc, định hướng giá trị, đạo đức xã hội. Tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng
của tưng thời khác nhau mà ảnh hưởng của Phật giáo đối với vấn đề giáo dục giá
trị và đạo đức xã hội cũng khác nhau.


Trước khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, đã tồn tại một số tín ngưỡng
tôn giáo dân gian như thờ Mẫu, thờ Thành Hoàng, Thổ đại, thờ cúng tổ tiên…
thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Tuy nhiên cùng với sự phát
triển của xã hội, Phật giáo cùng với quá trình du nhập đã giải đáp được những
băn khoăn mang tính triết lý nhân sinh mà tín ngưỡng dân gian chưa thể giải đáp
như: nguồ gốc con người, ýnghĩa cuộc sống, vấn đề họa phúc trong cuộc đời …
Với những tư tưởng về “vô thường, vô ngã”, “từ, bi, hỷ, xả”, “nghiệp chướng,
luân hồi”, “nhân quả”… Phật giáo đã phần nào đáp ứng nhu cầu về tâm linh của
người dân lúc bấy giờ. Do đó, Phật giáo đã nhanh chóng tạo lập được cơ sở thực
tiễn vững chắc cho sự tồn tại và phát triển của mình trên đất nước Việt Nam.
Cùng với quá trình du nhập và phát triển đó, những chuẩn mực đạo đức Phật
giáo cũng xâm nhập và tác động nhất định đến nền đạo đức của dân tộc Việt
Nam.Đạo đức Phật giáo đã góp phần bổ khuyết những giá trị đạo đức mới, phù
hợp với tâm lý, đạo đức của người Việt, làm phong phú và sâu sắc thêm hệ giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử qui định nên người Việt tiếp nhận Phật
giáo khong phải ở những luận thuyết trừu tượng, cao siêu mà chỉ đi vào những
nội dung mang tính thực tiễn, vận dụng để giải quyết những vấn đề cuộc sống.
Điều này phần nào giải thích hiện tượng một bộ phận người dân Việt Nam không
hiểu một cách tường tận những triết lý cao siêu của nhà Phật về vô thường, vô
ngã, thập nhị nhân duyên, tứ diệu đế, nghiệp báo, luân hồi …nhưng họ vẫn tự coi
mình là tín đồ Đạo Phật. Hầu như người dân Việt nào cũng tin rằng: sống có đạo
đức thì sẽ gặt hái được những điều thiện, điều tốt; sống vô đạo đức, trái luân

thường đạo lý, ắt sẽ bị quả báo. Đại đa số người dân không thuộc kinh Phật
ngoài mấy câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, hay “Nam mô Quán Thế Âm Bồ
tát” song họ đều cảm thấy rất mãn nguyện, hướng tới Đức Phật với niềm tin mọi
đau khổ, bất trắc sẽ được diệt trừ. Điều này đã được GS. Trần Văn Giàu khẳng
định trong “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam – Khoa học Xã
hội, Hà Nội, 1980” như sau: “Tín ngưỡng Phật giáo phổ biến trong đại đa số


nhân dân. Người dân không biết gì về triết lý cao xa của Phật mà chỉ biết cầu
phúc, chỉ biết chuyện quả báo, luân hồi. Từ lâu rồi, triết lý Phật giáo trở thành
một thứ đạo đức học từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn là hạt nhân, chúng sinh có
thể hiểu và làm được, không cao xa, rắc rối như triết lý Phật giáo nguyên thuỷ.
Tu nhân tích đức ở kiếp này để an vui, hưởng phúc ở kiếp sau”
Phật giáo đã thực sự đi vào đời sống đạo đức của người Việt thông qua chức
năng giáo dục, hướng con người tới các giá trị tốt đẹp, nhân văn. Người Việt
Nam tìm đến với đạo Phật không chỉ vì nhu cầu tâm linh, cảm thấy thư thái an
lạc nơi cửa Phật mà còn vì những nội dung đạo đức xã hộ được ẩn chứa trong
đạo lý Phật giáo. Phật giáo còn là một sự kiện văn hoá, phật giáo từ ấn độ được
truyền vào Việt Nam vốn không phải một sự kiện đơn độc mà kéo theo nó là cái
ảnh hưởng của tổng thể văn hoá ấn độ đối với Việt Nam cổ. văn hoá Việt Nam cổ
tiếp thu một liều lượng quan trọng văn hoá ấn độ qua ngả đường phật giáo
Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều người đã nhắc đến là phật
giáo vốn dễ hoà hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được truyền bá
đến .ở bắc Việt Nam đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo Việt Nam
là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất ) thì phật hay quan âm cũng
được coi là một thứ tổ tiên ( trong tâm thức dân gian việt cổ, phật hay quan âm
không phải là người “ngoại quốc ‘người khác tộc ). Nếu đặc điểm của tôn giáo
Việt Nam là sự thờ thần ( thế lực siêu nhiên ) mà con người cũng cầu để nhờ sự
“phù hộ độ trì” thì phật hay quan âm cũng trở thành một loại thần, phật điện
cũng trở thành một thứ thần điện, tính tâm linh ấn độ nhường bước cho tính tính

Việt Nam ( hơn đâu hết, tôn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý,
giỏi luật, đoàn thể, tôn giáo )
Bụt người Việt Nam không phải thuần tuý là việc phiên âm thuật ngữ
Bonddha. Hình ảnh bụt của người Việt Nam là sự sáng tạo từ hai nguyên liệu tín
ngưỡng phật và tín ngưỡng thần linh đương thời của người Việt Nam. Bụt có
những nét giống và khác phật.Bụt giốg phật ở lòng từ bi, bác ái, vị tha đối với
những người bị áp bức bóc lột.Nhưng bụt khác phật ở chỗ bất kỳ người nghèo


nào gặp tai nạn, gặp áp bức bất công mà cần tới bụt, bụt lập tức xuất hiện ngay
để cứu vớt các vị thần trong nhà nhưng lại có cái oai lực, uy quyền hơn cả trời.
Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa.Ngoài thờ Phật, chùa
còn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có công với
nước.Ngôi chùa trở thành một trung tâm văn hoá ở nông thôn. Do Phật giáo bám
sâu vào làng xã nên có sức sống lâu bền và tương đối ổn định. Vào thời kỳ Lý
Trần Phật giáo thịnh vượng nhất, được nhà nước nâng đỡ, từ thời Hồ và Lê sơ về
sau Phật giáo bị giảm sút ( Nho giáo ở vị trí thống trị và chi phối), nhưng Phật
giáo vẫn cứ duy trì và mở rộng khắp nông thôn, bởi lẽ Phật giáo có sơ sở làng xã
vững vàng.
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên
chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, … ngoài ba tôn giáo chính từ
xưa. Nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã
hội và tinh thần người Việt Nam.Nhìn vào đời sống xã hội và tinh thần người
Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua nhiều biểu hiện Phật giáo đang được
phục hồi và phát triển. ở nhiều vùng đất nước số người theo Phật giáo ngày càng
đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội Phật giáo và sinh hoạt
Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, số sư sãi được
đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều,
Hơn lúc nào hết trong mấy chục năm lại đây người Phật tử Việt Nam rất
chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các

ngày sóc, cọng, họ trân trọng thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng
trong việc thiền định, giữ giới, làm việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành
thói quen không thể thiếu của người theo Đạo phật. Mặt khác nhà chùa sẵn sàng
thực hiện các yêu cầu của họ như cầu siêu, giản oan,…Tất cả những điều này
củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở
để hình thành những nhân cách riêng biệt.
Những tư tưởng Phật giáo cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống của
thanh thiếu niên hiện nay. Như ở các trường phổ thông, các tổ chức đoàn, đội


luôn phát động các phong trào nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”., “ quỹ giúp
bạn nghèo vượt khó” , “ quỹ viên gạch hồng” … Chính vì vậy ngay từ nhỏ các
em học sinh đã được giáo dục tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà
cơ sở của nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền
thống của con người Việt Nam. Cao hơn là sự đồng cảm với những con người
gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác
ái .


III PHẦN C : KẾT LUẬN
Phật giáo là một tôn giáo,sự phát triển của khoa học, của các trào lưu hiện
đại hoá, các tôn giáo trên thế giới đang có xu hướng gắn bó hơn với đời sống thế
tục, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, văn hoá xã hội và đạo đức, lối sống để tự
điều chỉnh, thích ứng với xu thế của thời đại Vì vậy, việc nghiên cứu phát hiện
những hợp lý và khiếm khuyết của hiện tượng tôn giáo và những ảnh hưởng của
nó đã, đang và sẽ có đối với lịch sử nhân loại.Ỏ Việt Nam kinh tế thị trường đã
đem lại những thành tựu quan trọng cho sự phát triển đất nước, nhưng những
mặt trái của nó cũng làm xuất hiện và ngày càng gia tăng các hiện tượng tiêu cực
trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, đặc biệt là sự suy thoái của đạo đức, lối
sống. Chủ nghĩa thực dụng tuyệt đối hoá vai trò của đồng tiền, lối sống gấp xa

rời lý tưởng cách mạng đang làm tha hóa đạo đức, lối sống của một bộ phận
người trong xã hội, trong đó có cả các cán bộ Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó,
khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào, kể cả lừa đảo bất chính, gây tội ác,
vi phạm pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm con người ở
một số cá nhân vị kỷ đã và đang tạo nguy cơ làm băng hoại các giá trị văn hoá,
đạo đức và luật pháp.
Thực trạng nói trên đang đặt ra yêu cầu cần phải xây dựng nền đạo đức và
lối sống mới xã hội chủ nghĩa cho con người Việt nam hiện nay. Điều này vừa
nằm trong chiến lược phát triển con người phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất
nước, vừa góp phần ngăn chặn sự suy thoái của đạo đức, lối sống. Tuy nhiên,
thực trạng nói trên không thể khắc phục được trong ngày một ngày hai mà đòi
hỏi phải được giải quyết bằng cả quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã
hội.Trong quá trình xây dựng đạo đức, lối sống mới XHCN thì việc kế thừa
những giá trị trong lối sống truyền thống của dân tộc, trong đó có những đóng
góp của các tôn giáo là điều không thể bỏ qua. Ở đây, đạo đức, lối sống Phật giáo
hiện vẫn có những giá trị cần tiếp thu, kế thừa để xây dựng đạo đức, lối sống mới
cho con người Việt Nam hiện nay.


Vì vậy, nghiên cứu Triết học Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đối
với lối sống của người Việt Nam hiện nay nhằm tìm kiếm các giải pháp phù hợp
để phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của Phật giáo trong quá
trình xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa là việc làm cần thiết trong giai
đoạn hiện nay.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Khái lược lịch sử triết học – Ts Bùi Thị Thanh Hương & Nguyễn Văn Đại –


2.
3.

NXB Chính trị hành chính năm 2011
Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại – Doãn Chính – NXB thanh niên năm 1999
Phật học phổ thông tập 1 – Giáo hội Phật giáo Việt Nam – NXB tôn giáo
năm 2006



×