Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tiểu luận TRUYỀN THÔNG đại CHÚNG THẾ GIỚI HIỆN đại tiểu luận cao học - Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.7 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
Xã hội hóa truyền hình không phải là một khái niệm mới trong lĩnh vực
truyền hình, quá trình xã hội hoá công tác truyền hình đã diễn ra từ rất lâu đối
với các nước có sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực truyền hình.Theo ông Trần
Đăng Tuấn - Nguyên Phó Tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam, nghĩa rộng
của quá trình này chính là "sự tham gia vào quá trình sản xuất chương trình từ
bên ngoài ngành truyền hình". Tức là trong các khâu sản xuất, hình thành tác
phẩm của một chương trình truyền hình có sự tham của một hoặc nhiều đơn vị,
cơ quan không liên quan đến nhà Đài.
Trong thời đại hiện nay, việc mua bản quyền các chương trình truyền hình
đã trở thành một xu thế chủ yếu, thể hiện tính chuyên nghiệp. Một số chương
trình truyền hình không phải ôm đồm toàn bộ các khâu sản xuất mà đã có đơn
đặt hàng một số các đơn vị tư nhân chuyên làm về một lĩnh vực nào đó của
truyền hình. Vấn đề có tính thời sự trong xã hội hoá hôm nay là chúng ta có mở
rộng hình thức: có một đơn vị bên ngoài bất kể nhà nước, tư nhân có thể đảm
nhiệm đứt đoạn, trọn gói một chương trình và đài truyền hình có thể tiếp nhận
phát sóng.
Lúc này lại nảy sinh ra một vấn đề: mua bản quyền truyền hình. Tuy
nhiên, chính yếu tố này đảm bảo cho chất lượng của các chương trình truyền
hình được tốt hơn. Khi mua bản quyền một chương trình trong một thời gian
nhất định thì người mua sẽ được độc quyền chương trình này, đồng thời, quyền
lợi của bên cung cấp cũng được đảm bảo.
Có ý kiến cho rằng: "Xã hội hoá truyền hình là đi liền với đồng tiền". Bởi
chính đồng tiền chi phối tới quá trình này. Một tư nhân, hay đơn vị nào đó muốn
đứng ra lập công ty phát triển về một khía cạnh nào đó của truyền hình cần phải
có tiền. Và kể cả phía bên nhà Đài, muốn đặt hàng một chương trình nào đó
cũng cần phải có tiền. Tuy nhiên, ông Trần Đăng Tuấn lại cho rằng: "Bản chất
của xã hội hoá không phải là vì tiền mà là việc lôi kéo nhiều đơn vị, tổ chức


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay


tham gia vào quá trình sản xuất chương trình, nhằm giảm tải cho nhà Đài cũng
như tạo ra hiệu quả tốt nhất cho các chương trình truyền hình. Và nó sẽ thu hút
đựơc sự quan tâm và ủng hộ của công chúng".
Theo ông Trần Đăng Tuấn, xã hội hoá là một hướng đi đúng đắn trong
quá trình chuyên nghiệp hóa các chương trình truyền hình. Truyền hình Việt
Nam đã đến lúc chín muồi để thực hiện công tác xã hội hoá chương trình truyền
hình. Xã hội hoá truyền hình, tức là anh đã chấp nhận chia sẻ 'chiếc bánh truyền
hình' cho các công ty, đơn vị tư nhân. Hơn nữa, xã hội hoá sẽ xoá bỏ sự độc
quyền của các Đài truyền hình trong sự áp đặt về mức khoán và các chi phí đầu
tư. Trong môi trường mới, từng cá nhân, từng tập thể sẽ có trách nhiệm hơn về
công việc khi sản xuất chương trình. Hiện nay, Đài truyền hình Việt Nam đang
thẩm định hàng trăm chương trình được xã hội hoá; hướng tới phát sóng những
chương trình hay, chất lượng để xây dựng uy tín của nhà Đài. Quá trình này có
sự đóng góp của các công ty, đơn vị, tập thể ngoài truyền hình.
Thay vì chỉ hợp tác như trước này thì đặt thẳng các công ty làm trọn gói
một chương trình. Ví dụ đặt hàng sản xuất phim truyện truyền hình, sân khấu, ca
nhạc. Xuất hiện những thể nhân độc lập để sản xuất chương trình truyền hình.
Như thế sẽ có hàng trăm, hàng ngàn đơn vị sản xuất chương trình (nhưng số đài
truyền hình thì không nhiều). Các đơn vị sản xuất này có chức năng chuyên môn
hoá cao, có công ty chỉ làm hậu kỳ, kỹ xảo, thậm chí có công ty chỉ sản xuất ý
tưởng. Như vậy là cả xã hội làm truyền hình. Ông Trần Đăng Tuấn cũng cho
rằng: "Cần thống nhất cao trong ngành, trong các cơ quan quản lý là xã hội hoá
không có nghĩa là rút lui trận địa, khoán trắng mà ngoài công tác tuyên truyền
cần tập trung công sức vào đấy là chính". Ngoài ra, còn phải đầu tư công sức
vào việc tận dụng trí tuệ xã hội. Tỷ lệ cao dần vào lĩnh vực đặt hàng, tổ chức lực
lượng bên ngoài, nghiệm thu, đánh giá chất lượng. Chuyển mô hình tổ chức đài
từ đại công trường sang cơ chế sản xuất hàm lượng tri thức cao hơn.
Ông Đỗ Kim Cuông - Vụ trưởng Vụ Văn nghệ, Ban tư tưởng văn hoá
Trung ương cho rằng: "Vấn đề xã hội hoá liên quan nhiều đến vấn đề tiền bạc
trong con mắt mọi người, nhưng với nhà quản lý, vấn đề được nhìn nhận dưới

góc độ khác. Thành phần tham gia xã hội hoá không chỉ các đơn vị nhà nước mà
2


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
còn có rất nhiều đơn vị tư nhân. Đây là điều đáng mừng và phù hợp với xu
hướng hội nhập trong thời gian tới. Vấn đề là nhận thức của từng đài và khả
năng có thể làm việc này đến đâu". Như vậy, xu hướng xã hội hoá đã và đang
được rất nhiều thành phần quan tâm. Vấn đề ở chỗ là chính bản thân các đài
truyền hình. Nếu các đài làm được việc là cầm trịch một cách chủ động, đồng
thời nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý thì xã hội hoá trong truyền hình nhất
định thành công.
Việc tham gia của tư nhân vào lĩnh vực văn hoá, văn nghệ đã làm cho đời
sống văn hoá thêm sôi động. Đã đến lúc phải chú trọng đến chất lượng các
chương trình phát sóng trên truyền hình. Hơn nữa, yêu cầu của khán ngày càng
cao. Với nhiều cái để xem, khán giả ngày nay có quyền chọn lọc cho mình
những chương trình yêu thích Nếu để mất khán giả đồng nghĩa vớí mất các nhà
đầu tư, và như vậy là mất luôn cơ hội để nâng cao chất lượng chương trình.
Để xã hội hoá thành công, cần phải tận dụng hết các lợi thế ngay bản thân
trong ngành, cũng như huy động tốt các nguồn nhân lực ở bên ngoài. Các đài
truyền hình, trước hết phải làm đầu tàu, hạt nhân để lôi kéo xã hội vào truyền
hình. Các chương trình giải trí, các showgame là lĩnh vực xã hội hoá truyền hình
đầu tiên là phù hợp nhất. Hình thức xã hội hoá cũng tiến hành từng phần cũng là
hình thức phổ biến hiện nay.
Đã đến lúc chín muồi để nhìn nhận định hướng quan điểm, chiến lược về
công tác xã hội hoá truyền hình. Đây là khía cạnh chính trị của vấn đề mà các
đài phải xác định và thúc đẩy. Khi tham gia xã hội hoá, về cơ bản phải đặt lòng
tin vào nhau trên cơ sở tạo sự đồng thuận về quyền lợi và mục tiêu đạt hiệu quả
xã hội lâu dài và có ích cho người xem. Nếu xã hội hoá truyền hình mà không có
lợi cho xã hội, cho người xem thì không thể lâu bền. Đây là yếu tố quan trọng

nhất trong phát triển truyền hình trong giai đoạn tới. Người làm truyền hình phải
tìm ra làn gió nào mát lành nhất cho sự phát triển.
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI HÓA CHƯƠNG TRÌNH
TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM

3


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay

1. Xã hội hóa Truyền hình: Định hình văn hóa truyền hình hay là đầu
tư có lãi?
Thời nay, người ta bàn nhiều đến khái niệm "xã hội hóa sản xuất chương
trình truyền hình". Thực tế đang diễn ra hàng loạt sự đầu tư mạnh mẽ vào việc
sản xuất các chương trình truyền hình trên sóng VTV6, VTV9, Yeah1, O2, mà
gần nhất là sự ra đời của VTC9 Let’s Việt thuộc Công ty Truyền thông đa
phương tiện Lat Sa Ta và kênh truyền hình kỹ thuật số VTC. Sự phát triển ồ ạt
của các chương trình truyền hình được sản xuất 100% trong nước, khiến người
xem cảm thấy choáng ngợp và việc lựa chọn một chương trình chất lượng, phù
hợp văn hóa Việt Nam để xem là cần thiết.
Sự ra đời hàng loạt các kênh truyền hình mới tại Việt Nam đã phản ánh rõ
tính cách của các kênh truyền hình. Bật VTV6 sẽ thấy những chương trình sáng
tạo và đa dạng, từ nội dung cho đến phong cách của các MC trẻ trung, năng
động và không theo lối mòn. Gần đây, đối tượng tuổi teen bắt đầu lân la sang
kênh truyền hình Yeah1 và O2, nơi tập trung những nhóm teen cá tính, thích thể
hiện tiếng nói riêng. Trước những chương trình mới, người xem sẽ phải cân
nhắc, đưa ra quyết định chọn món ăn tinh thần nào bổ ích nhất.
Trong một "rừng" kênh truyền hình hiện nay, câu hỏi được đặt ra là làm
sao để những chương trình truyền hình được đầu tư một cách đúng mực và có
bản sắc văn hóa dân tộc. Một khán giả là cán bộ hưu trí tình cờ xem chương

trình “Chào cờ” trên VTC9 Let’s Việt đã xúc động khi nhìn thấy lá cờ Tổ quốc
tung bay cùng với bài Quốc ca vang lên.
Chuyên mục “Thế là người Việt Nam” của VTC9 Let’s Việt đã thể hiện
khá tươm tất những hình ảnh thực đang diễn ra hàng ngày nhưng ít khi được “để
ý” và ghi nhận. Một đôi trai gái ăn mặc rất hiện đại nhưng sẵn sàng ngừng cuộc
dạo chơi để đưa giúp cụ già qua đường hay một cử chỉ nhường cơm xẻ áo... Đó
chính là văn hóa truyền hình. Gìn giữ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, dạy con

4


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
cháu biết yêu quê hương, nguồn cội... Đó chính là chuẩn mực để định giá yếu tố
văn hóa của những chương trình truyền hình đang ngày càng phong phú.
Quan niệm của êkíp đang thực hiện hàng loạt các chuyên mục thuần Việt
trên kênh VTC9 Let’s Việt thì việc tạo ra một sản phẩm truyền hình mang đậm
yếu tố văn hóa, phù hợp với giới trẻ được ví như công tác giáo dục. Chỉ khác ở
chỗ, những người thầy dạy học sinh về các bài học đạo đức trên giấy thì truyền
hình làm những điều đó thông qua hình ảnh và âm thanh.
Một chương trình để lại ấn tượng đẹp cho người xem chính là ở yếu tố
nhân văn và gắn kết con người. Vì vậy, nhằm phục vụ cho nhu cầu có tính văn
hóa giải trí của giới trẻ, VTC9 Let’s Việt đã đầu tư sản xuất hàng loạt chương
trình liên quan đến giải trí như: “Tần số âm nhạc”, “Thế giới trẻ”, “Đêm của
sao”,... Khán giả còn được chứng kiến tinh thần Việt Võ Đạo thông qua “Võ đài
chiến thắng” hay cảm giác ngưỡng mộ khi xem những gương mặt tài năng còn
rất trẻ qua “Bệ phóng tài năng”. Những chương trình dạng này, đòi hỏi người
sản xuất ra nó phải thấm nhuần và thể hiện tốt kiểu cách văn hóa ứng xử hàng
ngày. Điều đó không nằm ở sự đầu tư cho sân khấu hoành tráng, âm thanh hấp
dẫn hay diễn viên nổi tiếng mà chìa khóa chính là yếu tố truyền thống dân tộc
được nêu bật.

Chính vì lẽ đó mà những người thực hiện các chương trình truyền hình xã
hội hóa khẳng định: "Đầu tư văn hóa trong các chương trình truyền hình là dạng
đầu tư cực lãi". Bởi các chương trình truyền hình văn hóa vì cộng đồng sẽ kết
nối bền vững cho một tương lai tốt đẹp hơn.
2. Xã hội hóa Truyền hình: Quản lý vẫn đi sau
Xã hội hóa truyền hình là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Đây
không chỉ là vấn đề chiến lược, trọng tâm của hoạt động báo chí truyền thông,
mà còn là một trong những phương thức tốt nhu cầu phát triển của hoạt động
báo chí truyền thông trong bối cảnh mới.

5


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
Mặc dù là sự phát triển tất yếu hợp quy luật, song bên cạnh những cái
được, chủ yếu về mặt số lượng, việc xã hội hóa truyền hình đang cho thấy không
ít bất hợp lý và dường như đang nằm ngoài tầm kiểm soát.
Hầu hết các đài truyền hình lớn trên phạm vi cả nước như VTV, VTC,
HTV, ĐN, HP... đều có một vài kênh; chưa kể số kênh truyền hình cáp của VTV,
HCTV, CTV... đang được các đơn vị này tổ chức thực hiện dưới hình thức liên
doanh liên kết xã hội hóa. Trong bối cảnh bùng nổ truyền thông công nghệ cao,
đầu tư kinh doanh sóng truyền hình được xem như là thời thượng, vừa khuếch
trương thanh thế, vừa chứng tỏ và khẳng định đẳng cấp của doanh nghiệp, của
công ty. Với danh nghĩa và "vỏ bọc" xã hội hóa truyền hình, đã có rất nhiều kênh
truyền hình được bán sóng trọn vẹn, do các đơn vị tư nhân thực hiện toàn bộ nội
dung phát sóng như: HTV1 do Công ty Vân Thanh Long thực hiện, HTV2 của
Công ty Đất Việt, HTV3 của Trí Việt media, SCTV-YanTV của Quỹ đầu tư IDG,
VTC5-VBC của Tập đoàn Tân Tạo, VCT9 - Las Việt của Lasta, VTC7-Today
TV của Tập đoàn Tân Hiệp Phát, bánh Kinh Đô… Có thể coi đó là điều bình
thường trong xu thế xã hội hóa, nhất là về mặt kinh phí. Nhưng, điều bất thường

đáng cảnh báo là trong những kênh truyền hình dưới dạng xã hội hóa này, có
những kênh đang thể hiện sức mạnh của đồng tiền bằng cách đi chệch mục đích
và thỏa thuận ban đầu. Chẳng hạn VTC5-VBC (Tân Tạo) và VTC9-Las Việt
(Lasta) và tương lai có thể có những kênh truyền hình khác, đang tổ chức và xây
dựng kênh truyền hình của mình thành một kênh truyền hình có điểm tin tức
thời sự, tin tức báo chí, tin tức chính trị xã hội… Thậm chí, các kênh này còn
"chính quy hóa" bằng cách xây dựng các chuyên mục như An sinh xã hội, Đời
sống pháp luật..., phát cả những chương trình thời sự quốc tế trực tiếp thực hiện
ở nước ngoài với những tiêu chí riêng để thu hút người xem và cạnh tranh tin
tức với các kênh truyền hình chính thống của nhà nước…
Thực tế , việc kiểm soát nội dung phát sóng của các kênh truyền hình xã
hội hóa này đối với các nhà đài và các cơ quan kiểm soát, quản lý khác nữa là
rất khó khăn, nếu không nói là không thể. Do vậy, tình trạng phát triển báo chí,
6


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
truyền thông vượt quá tầm kiểm soát, quản lý vẫn đang là một thực tiễn trước
mắt. Và tương lai, thực tiễn phát triển truyền thông lại đang đặt ra trước các nhà
định hướng, quản lý những vấn đề khá nhạy cảm. Chẳng hạn như Công ty
truyền thông AVG của Tập đoàn Vincom với sự liên doanh với báo Công an
nhân dân đã cho phát sóng những chương trình truyền hình chuyên về nội chính
(công an, tòa án, kiểm sát...).
Kể từ khi được thực hiện cơ chế khoán thu chi, các đài truyền hình đã
bung ra một cách mạnh mẽ, mở rộng các hình thức và thời lượng quảng cáo, cho
thuê kênh, bán kênh ở những mức độ khác nhau. Riêng nguồn thu quảng cáo
tăng đột biết, gấp nhiều lần so với trước đây với doanh số hàng trăm tỉ đồng mỗi
năm. Theo con số thống kê gần đây, riêng thu từ quảng cáo, VTV (Truyền hình
Việt Nam) và HTV (truyền hình TP.HCM) mỗi năm đã thu được trên 1.300 tỉ
đồng. Các đài địa phương khác cũng thu hàng trăm tỉ đồng nhờ quảng cáo. Và,

quan trọng là trên dưới 20% số đó đã được tái đầu tư để sản xuất chương trình.
Nếu tính con số tuyệt đối thì tiền thu từ quảng cáo đến nay vượt qua kinh phí chi
thường xuyên, bước đầu cải thiện nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động sản xuất
chương trình truyền hình. Tuy nhiên, cùng với sự hân hoan về kinh tế đó, hiện
tượng quảng cáo, quảng bá tràn lan, bán sóng vô tội vạ đã khiến thực trạng
truyền hình thiếu lành mạnh và vượt khỏi vòng kiểm soát.
Ngoài nguồn thu từ quảng cáo, truyền hình cũng đang quan tâm mở rộng
phát triển mạng truyền hình trả tiền và thu hút nhiều nguồn đầu tư khác trong xã
hội cho hoạt động sản xuất chương trình truyền hình. Có nhiều kênh truyền hình
tham gia nhiều khâu, nhiều công đoạn hay toàn bộ của các thành phần trong xã
hội. Ví dụ, tiền tổ chức thực hiện chương trình Nhà nông đua tài do các cấp hội
nông dân Việt Nam huy động. Các chương trình giải trí Chiếc nón kỳ diệu,
Đường lên đỉnh Olympia, Hãy chọn giá đúng hay các chương trình tuyên truyền
chính trị, xã hội như Người đương thời, Vì người nghèo đều được sản xuất từ
một phần hoặc toàn bộ kinh phí của các doanh nghiệp, công ty tài trợ. Điều này,

7


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
về tích cực, rất có tác dụng khi tiềm lực truyền hình còn nhiều hạn chế, từng
bước hoàn thiện một diện mạo truyền hình mới.
Trong bước đầu xã hội hóa truyền hình, chúng ta mới chú ý tới các công
đoạn kinh tế và một phần kỹ thuật mà chưa chú ý đúng mức tới các công đoạn
nội dung và quản lý. Vì thế, về mặt thực trạng, đang nảy sinh khá nhiều “điểm
tối” về mặt nội dung chương trình; về những kẽ hở trong quản lý với việc bán
sóng, núp bóng truyền thông nhà nước như đã nêu trên. Sự lệch chuẩn ấy sẽ
ngày càng diễn biến phức tạp và đòi hỏi một cung cách quản lý tốt phù hợp bối
cảnh xã hội hóa.
3. Xã hội hóa Truyền hình: Bài toán còn nhiều ẩn số

Chủ trương xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình như một bước
ngoặt mở ra thời cơ cũng như thử thách cho những nhà làm truyền hình tại VN.
Các kênh truyền hình mới liên tiếp ra đời đồng nghĩa với việc khán giả có thể
thoải mái lựa chọn mỗi khi ngồi trước màn hình TV, so sánh, nhận xét và cũng
tự mình quyết định trong việc ủng hộ các chương trình phù hợp nhu cầu giải trí
của chính mình.
Không có gì là khó hiểu khi nói con đường xã hội hoá truyền hình ở VN
hiện thời mới chỉ đạt được tiêu chí đa dạng, và để phong phú từ nội dung cho
đến hình thức quả thực còn là bài toán khó cho những nhà đầu tư. Điểm sơ qua
hàng chục game show đang được phát sóng dày đặc hiện nay, để tìm được game
show có chất lượng tốt, để lại ấn tượng đẹp trong lòng người xem chỉ có thể đếm
trên đầu ngón tay!
Đó là chưa kể những chương trình cố ý gây "sốc" với nội dung không phù
hợp với văn hoá người Việt và các spot quảng cáo xuất hiện liên tục khiến người
xem phải ngán ngẩm chuyển kênh.
Câu hỏi đặt ra, quyền lợi của người xem được đặt ở đâu trong thước đo
này? Có phải thuộc về khoản thu từ các đơn vị tài trợ được đổ vào hàng loạt cho
các món ăn tinh thần mà người xem được giao quyền chủ động?
8


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
Câu trả lời nằm ở sự nhận thức đúng đắn mục đích của việc xã hội hoá
sản xuất chương trình truyền hình là như thế nào trong thời kỳ mà ở đó sự cạnh
tranh lành mạnh, sáng tạo sẽ thắng lối làm ăn cẩu thả và "đơn giản" lỗi thời. Nói
như ông Mai Quốc Chính - Tổng Giám đốc công ty cổ phần truyền thông đa
phương tiện Latasa (đơn vị liên kết với Truyền hình cáp VTC cho ra đời kênh
truyền hình VTC9 Let's Việt): "Không cần đợi đến nhà tài trợ cắt hợp đồng hay
ngừng không hợp tác mà chỉ cần sản xuất ra một chương trình kém chất lượng
thì chính khán giả sẽ là người đào thải nó trước tiên".

Khi các công ty nghiên cứu thị trường nhảy vào công cuộc đo rating
những chương trình truyền hình thì cũng là lúc thực tế chứng minh, nhà sản xuất
đang bỏ công sức, tiền của để tìm hiểu những vị khách "thụ động" của mình. Nói
khán giả "thụ động" là bởi vì xét trên khía cạnh nào đó, người xem có quyền
chuyển kênh nhưng không thể có một phương pháp nào khác để nói lên tiếng
nói của mình tới những nhà sản xuất. Chính vì vậy phản hồi có thể đo được
chính là mật độ trung thành của khán giả với kênh truyền hình mà họ yêu thích.
Thời kỳ vàng son của VTV, khi mỗi chương trình của nhà đài đều để lại
một dấu ấn. Khái niệm giờ vàng xuất hiện, hàng loạt những chương trình như
"Hành trình văn hoá", "Chiếc nón kỳ diệu" liên tục nắm vững vị trí số một trong
sự lựa chọn của người xem và những MC lần đầu tiên xuất hiện trên sóng bỗng
chốc trở thành những người được khán giả hâm mộ không khác gì diễn viên hay
ca sĩ.
Trung thành với lối tìm tòi, phát hiện những gương mặt mới, VTV6 và
VTV9 tiếp tục mở ra những chuyên mục mới, trẻ trung, gần gũi và chỉ tập trung
thẳng vào đối tượng thụ hưởng là giới trẻ. Điều này được minh chứng khá cụ thể
khi các kênh truyền hình Yeah1, O2 cũng lần lượt xuất hiện và HTV liên tục cải
tiến HTV Phụ nữ, HTV Gia đình v.v...
Trong khi đó, ra đời khá muộn màng nhưng được đánh giá là kênh truyền
hình hiện nay có nhiều nội dung thuần Việt nhất - kênh truyền hình VTC9 Let's

9


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
Việt cho thấy con đường của mình khá khác biệt tuy đó chưa hẳn là một ý tưởng
"có một không hai".
Bắt đầu từ những chương trình khá thú vị và đơn giản như "Chào cờ",
"Thế là người Việt Nam", "Võ đài chiến thắng" hay "Chuyện lý chuyện tình",
VTC9 Let's Việt cho người xem cái nhìn khá mực thước nhưng cũng không kém

phần táo bạo. Sự táo bạo đó được thể hiện khi lần đầu tiên người xem nhận thấy
một bài học đơn giản như việc dừng xe đúng vạch khi đi đường hay không xả
rác nơi công cộng cũng được chắt lọc một cách ý nhị đưa lên màn ảnh thông qua
những tình tiết thực nhưng không mang nặng tính giáo điều.
Đầu tư và sinh lãi là bài toán mà bất kể doanh nghiệp nào cũng nghĩ đến
khi bắt đầu thử sức và ít ai biết, đầu tư truyền hình yếu tố rủi ro không thể kiểm
soát bằng mức vốn mà chính là từ những khán giả đang cầm điều khiển mỗi
ngày trước tivi.
Sẽ đến lúc những vị khán giả không thể chấp nhận các chương trình hời
hợt, thiếu chiều sâu cũng như yếu kém về mặt chuyên môn và khi ấy người ta
cần tìm đến ý nghĩa cốt lõi của một chương trình, dù đó có thể chỉ là mục điểm
tin hay giới thiệu một gương mặt sáng.
Đã đến lúc những chương trình như "Vượt lên chính mình", "Ngôi nhà
mơ ước" hay "Những mảnh ghép cuộc đời" sẽ níu giữ mắt, cảm xúc của khán
giả để tư thế của các đơn vị tài trợ không chỉ đến để đặt một cái logo mà đến với
cương vị hỗ trợ nhà sản xuất đem lại những chương trình ý nghĩa thực sự cho
công chúng xem đài.
Hơn bao giờ hết, các nhà đài phải xem khán giả là những vị vua để phục
vụ họ bằng cả sự tận tụy và mong muốn phát triển công cuộc xã hội hoá sản xuất
chương trình truyền hình để công cuộc ấy không chỉ mạnh về lượng mà còn ổn
về chất bởi một chương trình kém chất lượng thì "vua" chính là người đào thải
nó trước tiên.

10


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay

CHƯƠNG II. GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ XÃ HỘI HÓA TRUYỀN HÌNH
TỪ KHẢO SÁT MỘT SỐ KÊNH VÀ CHƯƠNG TRÌNH XÃ HỘI HÓA

1. Xã hội hóa Truyền hình - từ những bước thử nghiệm
Xã hội hóa (XHH) truyền hình (TH) manh nha tại Việt Nam từ gần chục
năm trước. Hai năm trở lại đây đã cho những kết quả đáng mừng và hiện đang
trở thành vấn đề thời sự nhất trong làng truyền hình cả nước. Mặc dù vậy, cho
đến nay XHH truyền hình vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi.
Khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, nước
ta thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Cũng từ đó, nhiều lĩnh vực
không còn bó hẹp trong sự hoạch định của Nhà nước mà được phát triển theo
11


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
quy luật cung - cầu. Càng ngày chúng ta càng thừa nhận tính đúng đắn của sự
chuyển đổi ấy. Cùng với quá trình này, khái niệm XHH không còn xa lạ. Nó đã
được hiểu là "làm cho mang tính xã hội" hay "huy động toàn xã hội tham gia".
Cũng mang nghĩa này, xã hội hóa TH chính là "sự tham gia vào quá trình sản
xuất chương trình từ bên ngoài ngành TH". Điều đó có nghĩa là trong các khâu
sản xuất, hình thành tác phẩm của một chương trình TH, có sự tham gia của một
hoặc nhiều đơn vị, cơ quan không thuộc nhà Đài. "Bản chất của xã hội hoá
không phải là vì tiền, mà là việc lôi kéo nhiều đơn vị, tổ chức tham gia vào quá
trình sản xuất chương trình, nhằm giảm tải cho nhà Đài cũng như tạo ra hiệu
quả tốt nhất cho các chương trình truyền hình. Và nó sẽ thu hút đựơc sự quan
tâm và ủng hộ của công chúng" - Ông Trần Đăng Tuấn - Nguyên Phó TGĐ
thường trực Đài THVN.
Mang nội hàm đó, khái niệm xã hội hóa TH đã hàm chứa trong nó cả mục
tiêu xây dựng một nền TH hiện đại nhờ phát huy tối đa các nguồn lực của xã
hội. Đây cũng là con đường để việc sản xuất các chương trình TH đi theo hướng
chuyên môn hóa, chất lượng và năng suất cao hơn. Nhận định tính đúng đắn của
hướng đi này, chủ trương xã hội hóa truyền hình được Nhà nước ta hoàn toàn
khuyến khích. Thậm chí, nhằm đẩy nhanh quá trình xã hội hóa, Đài Truyền hình

Việt Nam đã được giao nhiệm vụ là đơn vị chủ chốt thực hiện nhiệm vụ này.
VCTV là đơn vị thực thi cho nhiệm vụ mà chính phủ giao cho Đài THVN.
VCTV cũng đã ý thức được sự hấp dẫn của vấn đề khi được giao cơ hội này, cơ
hội càng lớn thách thức càng cao, những người làm truyền hình trả tiền đã rất
quyết đoán và thận trọng trong những bước đi của mình.
Đón đầu xu hướng xã hội hóa, các công ty truyền thông ra đời ngày càng
nhiều. Họ mạnh dạn trong đầu tư, năng động trong cơ cấu và hoạt động, nên
quan tâm đến XHH truyền hình là đương nhiên. Không chờ đợi một cách thụ
động, nhiều đơn vị đến gõ cửa nhà đài chào bán chương trình, đăng ký sản xuất,
nhận mời tài trợ...

12


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
Chủ trương của Nhà nước là tổ chức các đơn vị ngoài đài tham gia vào
quá trình sản xuất để chuyên môn hóa nền TH và giảm tải cho các đài trước sức
ép tăng thời lượng phát sóng, vì mục tiêu cuối cùng là phục vụ khán giả tốt hơn.
Công chúng báo chí tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động báo chí truyền
thông. Với gần 87 triệu dân, Việt Nam là một trong những thị trường công
chúng báo chí lớn, hấp dẫn và nhiều tiềm năng. Đây là điều kiện tốt cho báo chí
truyền thông phát triển, đồng thời cũng khó khăn, phức tạp và thách thức lớn đối
với báo chí truyền thông. Công chúng hiện nay có trình độ, bản lĩnh, chính kiến,
đòi hỏi cao về chất lượng thông tin từ báo in, phát thanh, truyền hình, hãng tin
tức, báo mạng điện tử, báo ảnh... Đồng thời họ còn tích cực tham gia trao đổi,
thảo luận, phản biện những vấn đề của đất nước và báo chí tạo không khí dân
chủ công khai, minh bạch trong thông tin hai chiều góp phần thúc đẩy xã hội
phát triển.
Hiện tại 15 kênh truyền hình đặc sắc của VCTV đều là những kênh xã hội
hóa, nhằm mục đích nâng cao chất lượng chương trình, giảm sức tải cho chi phí

bản quyền, và mở rộng cơ hội hợp tác sâu rộng.
Chúng ta vẫn thường thấy các chương trình xã hội hóa xuất hiện ngày
càng nhiều trên hệ thống chương trình truyền hình trả tiền VCTV như: Sàn bất
động sản trên kênh InfoTV, được phát sóng lúc 6h45; 14h; 20h hằng ngày, môt
tuần 3 số mới với nội dung về đầu tư, tài chính, bất động sản, và giới thiệu
doanh nghiệp, ngành nghề sản xuất... Các chương trình như "Tôi làm ca sỹ" trên
kênh Slyte TV đều được công chúng tự sản xuất và gửi đến cho chương trình;
"Điểm đến cuối tuần" trên kênh truyền hình Du lịch nói về những địa điểm du
lich được yêu thích, mang đậm thực tế, và khán giả đi du lịch và tự quay những
gì mình chứng kiến 8h t3; 11h30 CN; 14ht6; 16h t4; 17ht3 18h30 t5; 20h t7
hàng tuần.
Một phần lớn chương trình trên kênh truyền hình thực tế RealTV đều
được công chúng sản xuất, đặc biệt là có cách chương trình do công chúng nước
ngoài sản xuất, kết hợp với quá trinh đi du lịch tại Việt Nam. Đây cũng là một cơ
13


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
hội cho những công chúng yêu thích truyền hình, vừa đi du lịch lại kết hợp được
làm chương trình, đương nhiên là có định mức sản phẩm:
+ "113 Online": Chương trình bản tin truyền hình thực tế về các vấn đề an
ninh, quốc phòng, pháp luật và các vấn đề thời sự “nóng hổi” trong nước; được
thể hiện sống động bằng các clip ngắn có kèm theo bình luận của MC tại hiện
trường.Thông tin sẽ được phản ánh một cách chân thực, sống động, toàn diện,
khách quan, không bị tác động bởi yếu tố chính trị. Đặc biệt đây là chương trình
kết hợp giữa lực lượng công an nhân dân và nhà đài. Chương trình được lực
lượng công an sản xuất
+ "Hành trình phá án": Chương trình truyền hình thực tế tái hiện, bình
luận một cách hấp dẫn, chân thực quá trình điều tra của các vụ án hình sự được
đông đảo dư luận quan tâm. "Hành trình phá án" tái hiện lại các vụ án như một

bộ phim sống động có mở đầu-diễn biến-kết thúc nhằm lột tả chân thực, toàn
diện quá trình phá án thành công của các chiến sỹ điều tra. Những thước phim
cũng được chính các chiến sỹ công an tự quay, trong hành trình điều tra phá án
của mình
+ "Hậu trường": Chương trình truyền hình thực tế giúp khán giả hiểu
thêm về những khó khăn, vất vả trong công việc đằng sau hậu trường của các
đoàn làm phim khi thực hiện bộ phim nổi tiếng để mang tới khán giả, hậu trường
những chương trình giải trí trên truyền hình và các sự kiện văn hóa ... Được phát
sóng vào các khung giờ 6ht3; 7h30t6;

9ht6; 9h30t5; 12ht2; 13h30t5; 17ht5;

18h CN hàng tuần. Đây cũng là những thước phim do chính những người trong
cuộc ghi lại trong quá trình sản xuất làm chương trình của mình.
+ Tác giả là bạn là những video clip do chính độc giả cung cấp.
2. Xã hội hóa Truyền hình - xu thế tất yếu
Nhu cầu của công chúng hiện đại đòi hỏi truyền hình không chỉ là nhà
cung cấp thông tin mà còn phải tích cực hơn trong xã hội hóa các loại hình
chương trình, phục vụ nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của nhiều tầng lớp
14


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
trong xã hội. Vậy trong tương lai truyền hình sẽ phát triển theo xu hướng nào để
khẳng định vị trí của mình trong dòng chảy mạnh mẽ của các loại hình truyền
thông hiện đại?
Chúng ta đang sống trong một thế giới có đặc điểm nổi bật là sự bùng nổ
thông tin trên phạm vi toàn cầu. Thông tin đã xen vào mọi lĩnh vực, chi phối và
làm thay đổi phương thức vận hành, quản lý một số hoạt động xã hội. Các
phương tiện thông tin đại chúng trong đó có truyền hình đều đã và đang phát

triển nhanh chóng, vượt xa sự hình dung của nhiều người.
Ở Việt Nam, cách đây khoảng 10 năm, ít người thấy trước được rằng, sau
đổi mới một bước cơ chế quản lý, báo chí lại có bước lớn mạnh như vừa qua, và
những năm tới chắc chắn còn có sự tăng trưởng nữa. Bởi vì, tính bình quân sự
tiêu dùng báo chí của nhân dân ta vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Dư địa vẫn còn khá rộng để cho báo chí phát triển. Đấy là
chưa tính đến sự xã hội của Internet, và báo mạng điện tử, hệ quả tất yếu của
cuộc cách mạng tin học đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Trong chúng ta
không phải ai cũng có thể hình dung rõ rệt diện mạo và nhất là cơ chế hoạt động
của các phương tiện truyền thông đại chúng trong thời gian tới như thế nào.
Nhưng có một điều chắc chắn là mỗi người đều phải tự mình nhìn lại và tự mình
điều chỉnh các suy nghĩ truyền thống quen thuộc từ trước đến nay.
Tình hình ấy đặt ra nhiều thách thức lớn cho truyềnhình - một phương tiện
thông tin hùng mạnh. Tuy hiện tại, chiếc ti vi vẫn gần như chiếm giữ độc quyền
cung cấp thông tin nhanh nhậy, rẻ tiền chọn. Nhưng ưu thế này trong thời gian
tới có còn nguyên vẹn khi mà ở mỗi gia đình đều có không chỉ một, mà là hai,
ba hoặc nhiều hơn nữa những chiếc máy vi tính nối mạng, và khi báo in được hệ
thống bán lẻ phát hành miễn phí đến tận nhà theo yêu cầu của người đọc? Trong
cuộc bùng nổ về thông tin, giữa lòng cuộc cạnh tranh gay gắt để tranh giành
công chúng, điều cần thiết với những người làm truyền hình không chỉ là sự cố
gắng nhiều hơn, sáng tạo nhiều hơn, mà điều quan trọng là phải nhận thứ rõ

15


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
những thách thức và thời cơ, thấy được xu thế vận động làm cơ sở để xây dựng
chiến lược hành động phù hợp cho sự phát triển của ngành.
Vậy, trong tương lai truyền hình sẽ phát triển theo xu hướng nào để tồn tại
và phát triển, để tìm được chỗ đứng trong dòng chảy phát triển của các cơ quan

báo chí đang tích cực tham gia mạnh mẽ vào tiền trình xã hội hóa các hoạt động
của mình? Trong xu thế đó, là một ngành mang tính báo chí kinh tế kỹ thuật cao,
truyền hình càng không thể đứng ngoài cuộc.
Dù muốn hay không thì báo chí nói chung và truyền hình nói riêng có thể
phát triển được vấn đề đầu tiên cần được giải quyết đó là nguồn kinh hí. Truyền
hình là một loại truyền thông rất tốn kém nên vấn đề trên lại càng trở nên quan
trọng. Nhưng ai sẽ là người cung cấp tài chính cho truyền hình? Phải tham gia
vào tiến trình xã hội hóa, trước hết là xã hội hóa về nguồn kinh phí đầu tư cho
sản xuất các chương trình, truyền hình mới có điều kiện phát triển.
Quá trình này đã diễn ra và chắc chắn sẽ diễn ra rấtnhanh trong thời gian
tới. Trước đây nguồn kinh phí đầu tư cho truyền hình chủ yếu là từ ngân sách.
Đó là điều kiện cần thiết cho giai đoạn đầu của truyền hình. Nhưng chỉ trông vào
nguồn kinh phí từ ngân sách sẽ là rất khó khăn cho sự phát triển của truyền hình
trong điều kiện hiện tại và những năm sau này. Trong 3 năm 1996 đến 1998 thời
lượng phát sóng qua vệ tinh gấp đôi nhưng kinh phí từ ngân sách gần như không
thay đổi. Đây là một nghịch lý trong tiến tình phát triển. Tình hình trên chỉ thực
sự được cải thiện khi truyền hình Việt Nam được phép thực hiện cơ chế khoán
thu chi để có điều kiện thu hút các nguồn kinh phí trong xã hội vào việc sản xuất
các chương trình.
Đến nay, nguồn thu từ quảng cáo đã tăng gấp nhiều lầnso với trước, đạt
được hàng trăm tỷ mỗi năm. Theo con số thống kê gần đây, riêng thu từ quảng
cáo, truyền hình Việt Nam và truyền hình thành phố Hồ Chí Minh mỗi năm đã
thu được trên 1.300 tỷ đồng. Và trên 20% số đó đã được dùng trở lại để đầu tư
cho sản xuất chương trình. Nếu tính con số tuyệt đối thì tiền thu từ quảng cáo

16


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
đến nay vượt kinh phí chi thường xuyên, bước đầu cải thiện nguồn tài chính đầu

tư cho hoạt động sản xuất chương trình.
Ngoài nguồn thu từ quảng cáo, truyền hình Việt Nam cũng đang quan tâm
phát triển mạng truyền hình trả tiền và khuyến khích nhiều nguồn đầu tư khác
trong xã hội cho hoạt động sản xuất chương trình. Đã có nhiều khâu, nhiều công
đoạn của truyền hình có sự tham gia của các thành phần trong xã hội để tổ chức,
dàn dựng bối cảnh. Ví dụ: Chương trình Nhà nông đua tài: Tiền tổ chức thực
hiện là do các cấp hội nông dân Việt Nam huy động.Truyền hình chỉ trả chi phí
cho kíp sản xuất. Các chương trình "Chiếc nón kỳ diệu", "Hãy chọn giá đúng",
"Đường lên đỉnh Olimpia" và ngay cả các chương trình tuyên truyền chính trị
như: "Người đương thời", "Vì người nghèo"… đều được sản xuất từ một phần
kinh phí của các doanh nghiệp tài trợ... Điều này, đã trở nên rất có tác dụng
trong khi tiềm lực của truyền hình còn nhiều hạn chế. Tất cả những điều đó đều
đã và đang tích cực tạo nên một diện mạo của Truyền hình Việt Nam hôm nay.
Tuy điều kiện về tài chính đã cải thiện nhiều so vớitrước, nhưng nhìn
chung, các nguồn thu này còn quá khiêm tốn so với hàng nghìn tỷ đồng cần phải
có đầu tư xây dựng trung tâm truyền hình Việt Nam. Để có đủ điều kiện đầu tư
cho phát triển, đa dạng hóa các nguồn thu, xã hội hóa về mặt kinh phí là một xu
thế tất yếu đối với truyền hình Việt Nam trong những năm tới.
Xã hội hóa về sản xuất và quảng cáo các chương trình truyền hình, đây
cũng là một xu thế mang tính tất yếu. Xu hướng này đã xuất hiện ngay từ những
ngày đầu truyền hình ra đời. Sau này sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Bởi
một điều hiển nhiên là không ai sản xuất chương trình truyền hình để chỉ cho
mình xem cả. Phải sản xuất để cho công chúng xem và phục vụ nhu cầu xem của
công chúng. Nhu cầu của công chúng đòi hỏi càng cao, càng đa dạng, thì truyền
hình cần phải nỗ lực nhiều hơn để thoả mãn điều ấy.
Sau gần 20 năm đổi mới, tiềm lực kinh tế đất nước đã có sự phát triển mạnh so
với trước. sản xuất đã cho ra đời nhiều loại hàng hóa hơn. Từ một quốc gia
không đủ ăn, sống chủ yếu nguồn viện trợ ở bên ngoài, chúng ta đã vươn lên trở
17



Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
thành một cường quốc trong xuất khẩu lương thực... điều kiện sống của người
Việt Nam được nâng lên. Cùng với đó là những thay đổi trong nhận thức, tư duy.
Công chúng giờ đây không chỉ muốn ăn ngon mặc đẹp mà còn còn nhu cầu giải
trí khác. Điều này làm xuất hiện thị trường vui chơi, giải trí. Trong lĩnh vực này,
truyền hình đã tỏ ra lợi thế cạnh tranh của mình. Khả năng quảng bá của màn
ảnh nhỏ làm cho truyền hình trở thành là người tổ chức các cuộc thi, vui chơi
giải trí mang tính toàn quốc. Các chương trình Chiếc nón kỳ diệu, Sao Mai điểm
hẹn, Hãy chọn giá đúng… xuất hiện trên VTV đã trở thành những sân chơi hấp
dẫn, bổ ích, với khả năng thu hút rất đông đảo khán giả.
Có thể nói, với hình ảnh và âm thanh sống động, truyền hình đã can thiệp
vào thị trường giải trí và chi phối thị trường này. Chúng ta đã thấy giới bầu sô
âm nhạc đã từng bị lép vế trong các cuộc chơi lớn từ khi Sao mai điểm hẹnra
đời. Và chúng ta cũng đã thấy, phải nhờ có truyền hình mà một số loại hình sân
khấu truyền thống như Kịch nói, Chèo tuồng, Cải lương… lại có thêm điều kiện
đến với công chúng.Truyền hình đã và đang trở thành một rạp hát khổng lồ, đa
năng, giúp cho công chúng có thể tìm thấy gần như tất cả những loại hình sân
khấu, giải trí phù hợp với nhu cầu của mình; để rồi, thay vì đến các địa điểm vui
chơi giải trí, công chúng có thể lựa chọn hình thức ở nhà để thực sự thư giãn đầu
óc với vòng quay "Chiếc nón kỳ diệu" hay cùng hồi hộp với những người chơi
trong chương trình "Hãy chọn giá đúng"…
Nhu cầu của công chúng hiện đại đã khiến cho truyềnhình không chỉ là
nhà cung cấp thông tin thời sự chính trị mang đậm dấu ấn của báo chí nữa, mà
còn đòi hỏi truyền hình phải tích cực hơn trong xã hội hóa các loại hình chương
trình phục vụ nhu cầu ngày một đa dạng, phong phú của công chúng. Tất nhiên
nhu cầu của công chúng ở đây không phải là phép cộng thuần tuý nhu cầu của
các cá nhân. Bởi theo nhu cầu của tất cả công chúng truyền hình dễ sa vào thoả
mãn cả những nhu cầu phi văn hóa.
Trên phương diện kỹ thuật cũng đang dần thể hiện rõ xu thế hóa của

truyền hình. Nhờ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật,mà các loại thiết bị phục
18


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
vụ cho sản xuất các chương trình truyền hình cũng trở nên ngày một hiện đại,
tiện nghi và đặc biệt là rẻ hơn rất nhiều so với trước. Cách đây không lâu đ có
một thiết bị sản xuất chương trình đúng quy chuẩn người ta phải bỏ ra ít nhất
hàng trăm ngàn USD. Điều đó khiến cho khả năng được tham gia vào các hoạt
động của truyền hình trở nên xa sỉ với tất cả mọi người dân. Nhưng nay nhờ có
công nghệ số hóa Digital, giá thành của những chiếc máy ghi hình đã giảm hàng
trăm lần so với trước. chỉ với 1.000 USD là công chúng có thể mua được một
chiếc máy quay kỹ thuật số hóa và có thể bắt tay vào công đoạn đầu tiên sản
xuất chương trình truyền hình. Điều này mở ra một khả năng hợp tác vô cùng
rộng lớn cho cả truyền hình và công chúng. Về phía công chúng, có thể tham gia
trực tiếp vào thực hiện các chương trình truyền hình. Và cũng chính điều ấy mà
nội dung, hình thức thông tin của truyền hình sẽ ngày một đa dạng và mới hơn.
Trong cuộc đua thông tin luôn không có chỗ đứng chongười đến sau, Thì sự
tham gia ngày một nhiều hơn của công chúng vào hoạt động cung cấp hình ảnh
và các sự kiện mới nhất đang diễn ra trong cuộc sống cho truyền hình là hết sức
quan trọng và cần thiết. Dù muốn hay không thì đây là xu hướng tất yếu trong
tương lai của truyền hình.
Cũng trên phương diện kỹ thuật, nhưng dưới một góc nhìn khác cũng có
thể ghi nhận được điều tương tự. Trong tương lai, gianh giới giữa truyền hình và
các loại báo điện tử chắc chắn sẽ không còn. Cuộc cách mạng của công nghệ
thông tin đã cho phép các tờ báo mạng cũng có thể tham gia vào quá trình thông
tin bằng hình ảnh. Hiện nay, tuy chưa thực sự phổ biến nhưng công chúng cũng
có thể xem phim truyện, theo dõi các cuộc phỏng vấn, hay bình luận, phân tích,
các phóng sự bằng hình ảnh trên mạng Internet. Vị trí "mặt tiền" của truyền hình
đang bị đe doạ và chắc chắn sẽ không còn ở thế độc tôn như trước. Thực tế này

buộc truyền hình phải tham gia vào tiến trình hội nhập, phải ứng dụng mạnh mẽ
công nghệ hiện đại và thực hiện khẩn trương xã hội hóa các hình thức quảng bá
sản phẩm và sức ảnh hưởng của mình.Nếu như các nhà làm báo mạng tìm kiếm
lợi thế của thông tin hình ảnh đưa truyền hình lên Internet để làm sang cho tờ
19


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
báo của mình thì truyền hình cũng cần phải nhanh chóng tận dụng ưu thế của
công nghệ thông tin đưa các sản phẩm của mình lên mạng để thực sự bình đẳng
trong cuộc cạnh tranh về mặt công nghệ, tiếp tục chiếm lợi thế về chất lượng sản
phẩm. Mới đây hợp tác giữa ngành bưu chính viễn thông, chuẩn bị đưa dịch vụ
truyền hình trên mạng điện thoại di động thế hệ 3G có thể xem như một động
thái tích cực của truyền hình trong quá trình xã hội hóa chính mình.
Đứng trước yêu cầu của sự phát triển, xu hướng xã hội hóa hoạt động
quản lý cũng là một đòi hỏi tất yếu đối với truyền hình hiện đại. Xét trên cả hai
phương diện quản lý nội dung và quản lý con người đều có thể thấy rõ được xu
hướng này. Về mặt quản lý nội dung, là một cơ quan thông tin đạichúng, đặt
dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, và hoạt động theo những quy định của
pháp luật, tất cả các sản phẩm truyền hình đều cần được quản lý thống nhất về
mặt nội dung. Tuy nhiên, quản lý nội dung không đồng nghĩa với việc phải quản
lý tất cả các công đoạn làm ra sản phẩm truyền hình. Và càng không có nghĩa
hoạt động quản lý của truyền hình không thể tham gia vào tiến trình xã hội hóa.
Để truyền hình phát triển, đi cùng với yêu cầu đảm bảotính định hướng, tính tư
tưởng trong từng sản phẩm, nhất định các công đoạn sản xuất chương trình
truyền hình phải được chuyên môn hóa cao, phân công lao động chặt chẽ và
giảm bớt được chi phí đầu vào, tiết kiệm thời gian và hạ giá thành sản phẩm.
Điều này đòi hỏi truyền hình luôn phải cân nhắc nhiều hơn với các phương án
đầu tư cho hoạt động tác nghiệp của mình. Và sẽ không có một lý do nào khiến
các nhà quản lý truyền hình có thể từ chối khai thác các nguồn chương trình đảm

bảo được yêu cầu về nội dung, kỹ thuật và cả giá thành hạ do xã hội cung cấp.
Trước những toan tính về mặt lợi ích, hiển nhiên truyền hình sẽ buộc phải nghĩ
nhiều đến việc có thể giao, khoán, mua, trao đổi một công đoạn nào đó trong
quy trình sản xuất cho một đơn vị kinh tế nghiệp vụ khác (bất kể đơn vị đó là
của Nhà nước hay của tư nhân), hơn là quyết định đầu tư công sức và một khoản
kinh phí lớn hơn gấp nhiều lần để tự làm ra một sản phẩm có chất lượng tương
tự.
20


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
Gần đây, việc chỉ đạo các Trung tâm truyền hình Việt Nam sản xuất linh
kiện cho phóng sự của các ban biên tập trong Đài, hay việc tích cực khai thác
các tin bài có chất lượng của các đài địa phương trong các bản tin thời sự ít
nhiều cũng đã phản ánh khuynh hướng giao cho các đơn vị ngoài Đài tham gia
vào sản xuất chương trình. Phương án quản lý sản xuất theo cách làm này, ít
nhất cũng đã tiết kiệm được cho truyền hình một khoản kinh phí không nhỏ nhờ
cắt giảm các khoản đầu tư dành cho việc đi lại của phóng viên, vận chuyển máy
móc thiết bị tới nơi sự kiện xảy ra. Trước xu thế trên, việc có các công ty tư
nhân tham gia thực hiện chương trình và bán cho đài truyền hình có thể là một
xu hướng tất yếu.Vấn đề còn lại đối với truyền hình là phải hướng dẫn, quản lý
về nội dung và xây dựng cho được những quy chuẩn mang tính nghiệp vụ cao
cho các loại hình sản phẩm của mình. Chỉ có như vậy việc trao đổi, mua bán và
định giá sản phẩm mới trở nên dễ dàng.
Dưới góc độ quản lý con người, truyền hình cũng bướcvào giai đoạn xã
hội hóa quyết liệt. Như đã biết, xã hội càng phát triển, trí tuệ xã hội ngày càng
được nâng lên, và trí tuệ ấy ngày càng được quảng bá trên truyền hình nhiều
hơn. Nhưng ngược lại, chính truyền hình cũng đang tìm mọi cách để hấp thu trí
tuệ xã hội để đầu tư cho sự phát triển. Điều đó sẽ càng trở nên quan trọng khi
phân công lao động và chuyên môn hóa các hoạt động sản xuất chương trình

truyền hình đạt đến trình độ cao.
Hiện tại công việc của truyền hình bao gồm rất nhiềungành nghề khác
nhau: quản lý, kỹ thuật, nghệ thuật, kinh tế, xã hội, chính trị... với các vị trí công
tác khác nhau. Tất cả đều có chức năng nhiệm vụ rõ ràng trong hoạt động dây
chuyền tạo ra sản phẩm truyền hình. Nói một cách khác, sản phẩm truyền hình
là kết quả của một chuỗi các công đoạn kế tiếp nhau.Và để có những sản phẩm
hoàn chỉnh, chất lượng cao, tất cả các công đoạn đều phải có sự phối hợp nhịp
nhàng và được hoàn thành với trình độ chuyên môn cao. Yêu cầu công việc cho
thấy việc tự đào tạo lẫn nhau, tự nâng cao trình độ là điều cần nhưng chưa thể là
điều kiện đủ. Truyền hình sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ của mình khi không
21


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
tuyển dụng được một nguồn nhân lực có tay nghề cao trong xã hội để phục vụ
cho chiến lược phát triển của ngành. Trong hoạt động quản lý ở truyền hình, xã
hội hóa các nguồn lực lao động là một xu hướng tất nhiên không thể cưỡng lại
được.
Trên một bình diện khác, để đảm đương được là một binhchủng tiên
phong trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, có vai trò quyết định trong định hướng
dư luận và hành động của công chúng, tất cả các chương trình truyền hình đều
đứng trước yêu cầu về trí tuệ và tính khoa học. Mỗi luận điểm, nhận định trong
phóng sự, trong bình luận, và trong các thể loại khác của truyền hình đều ảnh
hưởng đến nhận thức và hành vi của toàn xã hội. Và để đạt đến sự chuẩn xác
trong thông tin, đòi hỏi nhất thiết phải có sự tham gia của tất cả các chuyên gia
trên lĩnh vực trong cuộc sống. Trí tuệ, tính khoa học và mức độ tin cậy của
truyền hình chỉ có được khi có sự tham gia ngày một nhiều hơn của các lực
lượng khác trong xã hội.
Việc đầu tư và thường xuyên sử dụng các nhà khoa học,các nhà nghiên
cứu chuyên sâu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội

làm cố vấn cho các chương trình, truyền hình trong thời gian gần đây như một
biểu hiện mang tính tất yếu của xu thế xã hội hóa nguồn lực cho truyền hình.
Trong lao động quản lý, nhất định truyền hình phải quan tâm tới điều này, từ đó
có chính sách thoả đáng để thu hút các nguồn chất xám trong xã hội phục vụ cho
việc đổi mới nâng cao chất lượng chương trình truyền hình.
3. Xã hội hóa Truyền hình: Nên đưa vào Luật báo chí
Trước tháng 5-2009 gần như không có văn bản pháp luật nào điều chỉnh,
cho phép các hoạt động hợp tác đầu tư trong lĩnh vực truyền hình. Lâu nay, việc
hợp tác đầu tư như vậy thường được hiểu như là một phần chủ trương khuyến
khích xã hội hóa của Nhà nước. Thế nhưng, nếu nghiên cứu kỹ tinh thần của các
văn bản quy định về chính sách khuyến khích xã hội hóa, từ Nghị quyết số 90CP ngày 21-8-1997 đến các Nghị định 73/1999/NĐ-CP, 53/2006/NĐ-CP và mới
22


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
nhất là Nghị định 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ đều thấy rằng truyền hình
không thuộc diện được Nhà nước khuyến khích xã hội hóa.
Tuy nhiên, phong trào hợp tác đầu tư vốn trong lĩnh vực truyền hình thời
gian qua vẫn rộ lên rất mạnh, điều đó cho thấy nhu cầu đầu tư vào lĩnh vực
truyền hình rất cao trong khi “cung” pháp lý đã không đáp ứng kịp. Phong trào
xã hội hóa lĩnh vực truyền hình đã được “cứu nguy” bằng Thông tư 09/2009/TTBTTTT ngày 28-5-2009 của Bộ Thông tin Truyền thông. Có thể nói, đây là văn
bản đầu tiên tạo cơ sở pháp lý, đồng thời chấm dứt một thời kỳ hợp tác đầu tư
“công-tư” theo kiểu “tranh tối tranh sáng” trong lĩnh vực truyền hình tại Việt
Nam. Các đài truyền hình thở phào. Hơn nữa, văn bản này tỏ ra cởi mở khi cho
phép các doanh nghiệp “có tư cách pháp nhân và đăng ký kinh doanh theo pháp
luật Việt Nam” được hợp tác với đài truyền hình để sản xuất không chỉ một phần
mà toàn bộ kênh chương trình truyền hình, áp dụng không chỉ truyền hình trả
tiền mà cả với truyền hình không trả tiền, phạm vi điều chỉnh không chỉ truyền
hình mà cả với lĩnh vực phát thanh. Đài truyền hình muốn thực hiện hợp tác chỉ
cần làm thủ tục đăng ký hoặc thông báo với Bộ Thông tin Truyền thông.

Trong khi đó, vẫn còn một số ý kiến băn khoăn. Cơ sở pháp lý để ban
hành Thông tư 09/2009/TT-BTTTT là Luật Báo chí và Nghị định 51/2002/NĐCP hướng dẫn chi tiết Luật Báo chí (xin lưu ý, văn bản này không dựa trên các
quy định về chính sách xã hội hóa). Tuy nhiên, pháp luật về báo chí hiện chỉ mới
cho phép cơ quan báo chí được “tổ chức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực in
ấn, chế bản, phát hành sách, quảng cáo, quay phim, nhiếp ảnh và kinh doanh vật
tư thiết bị liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ báo chí để tạo nguồn thu đầu tư
trở lại cho sự nghiệp phát triển báo chí” (khoản 2, điều 7, Nghị định
51/2002/NĐ-CP).
Như vậy, hợp tác để sản xuất chương trình truyền hình có thuộc diện được
phép nói trên? Theo các ý kiến, vấn đề này cần được điều chỉnh bởi một văn bản
luật có giá trị pháp lý cao hơn, tốt nhất là bổ sung, đưa vào dự thảo Luật Báo chí
sửa đổi hiện đang lấy ý kiến để trình Quốc hội thông qua.
23


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay
Ngoài ra, nội dung Thông tư 09/2009/TT-BTTTT vẫn còn một số điểm
cần làm rõ. Chẳng hạn, doanh nghiệp “có tư cách pháp nhân và đăng ký kinh
doanh theo pháp luật Việt Nam” được hợp tác với đài truyền hình có bao gồm
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài? Theo quy định của Luật Đầu tư, văn
hóa, thông tin, báo chí... là những lĩnh vực đầu tư có điều kiện và nhà đầu tư
nước ngoài được phép tham gia. Trong khi đó, theo cam kết của Việt Nam với
WTO, lĩnh vực nghe nhìn (sản xuất, phát hành và chiếu các chương trình truyền
hình, tác phẩm điện ảnh) vẫn chưa được mở cửa và nếu mở thì chỉ ở mức độ các
hiệp định song phương nhằm thúc đẩy văn hóa giữa hai nước, đồng thời thuộc
danh mục được phép miễn trừ đối xử tối huệ quốc (không áp dụng cho các thành
viên khác thuộc WTO). Thực tế, hiện nay chỉ mới có một doanh nghiệp nước
ngoài được phép đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực truyền hình là Tập đoàn Canal+
(Pháp). Vậy liên doanh này được thành lập trên cơ sở nào? "Tất cả những vấn đề
này cần được quy định cụ thể và minh bạch" - Giám đốc một kênh truyền hình

liên kết phát biểu.

24


Thực trạng của vấn đề xã hội hóa truyền hình ở Việt Nam hiện nay

KẾT LUẬN
Truyền hìnhlà loại sản phẩm vật chất đặc biệt, nó không chỉ là hàng hóa
thông thường mà còn là một loại sản phẩm mang tính đại chúng, tính công cộng
cao. Trước yêu cầu phát triển, cần phải có một quan điểm tích cực trong triển
khai các hoạt động kinh doanh, tìm kiếm nguồn thu. Tuy nhiên, trước kinh
doanh, các sản phẩm truyền hình phải đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin, giải trí
lành mạnh của công chúng. Việc xã hội hóa các hoạt động của truyền hình đã và
sẽ là một khuynh hướng tất yếu trong thời gian tới. Chỉ có thể để cho công
chúng ngày một tham gia nhiều hơn vào các công đoạn sản xuất của mình, và
hướng hoạt động sản xuất đến phục vụ và thoả mãn nhu cầu xem của công
chúng, truyền hình mới có điều kiện thuận lợi để phát triển, giữ được ưu thế
cạnh tranh trong bối cảnh thông tin bùng nổ hiện nay.
Việc tham gia mạnh mẽ vào tiến trình xã hội hóa, tận dụng được mọi
nguồn lực trong xã hội để đầu tư cho phát triển sẽ là cơ sở để truyền hình tiếp
tục củng cố chỗ đứng của mình. Khi làn sóng xã hội hóa truyền hình phát triển
cũng là lúc câu chuyện quyền và lợi của khán giả trở nên nóng theo. Cùng với
sự phong phú về số lượng kênh, chương trình truyền hình cũng là sự tăng theo
cấp số nhân của... các loại quảng cáo. Khán giả thì cảm thấy như nhai phải sạn
khi đang xem chương trình ưa thích mà bị xen quảng cáo, còn nhà đài thì phân
trần rằng, nếu không có quảng cáo thì chắc chắn không có chương trình hay...
Nói về vấn đề này, đạo diễn Khải Hưng - Nguyên Giám đốc Trung tâm
sản xuất phim Truyền hình Đài THVN đã từng khẳng định rằng đó là chuyện
hợp lý, vì quảng cáo là "thước đo cho tính ăn khách của một chương trình. Có

thể nói, quảng cáo không thể thiếu được với truyền hình. Người xem ở Việt Nam
hay kêu ca về việc có quá nhiều quảng cáo trong phim mà không ý thức được
rằng mình đang xem miễn phí. Đài truyền hình hiện nay không còn nhận được

25


×