Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Nghiên cứu đặc tính hoá sinh dược của một số phân đoạn dịch chiết từ quả Bí Đao (Benincasa hispida Cogn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.33 MB, 68 trang )

1

Lời cảm ơn

Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt ngiệp,
tôi đã nhận được những lời chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của cô giáo: Tiến sĩ
Trần Thị Phương Liên.
Bên cạnh đó, Ban giám hiệu, Phòng sau đại học, Trung tâm chuyển
giao công nghệ, các Phòng, Ban trường ĐHSP Hà Nội 2 đã tạo các điều kiện
thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình làm việc. Cùng với đó là sự hỗ trợ nhất
định từ gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu đó!

Xuân Hòa, ngày 26 tháng 11 năm 2011
Học viên

Nguyễn Mạnh Cường


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Những số liệu, kết quả trong luận văn là trung
thực. Công trình chưa được công bố trên bất cứ một tài
liệu nào.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!

Xuân Hòa, ngày 26 tháng 11 năm 2011
Học viên

Nguyễn Mạnh Cường




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN

ĐTD

Đái tháo đường

HDL –c

High density lipoprotein cholesterol (Cholesterol tỉ
trọng cao)

VLDL –c

Very low dentisy lipoprotein (Lipoprotein tỷ trọng
thấp

LDL –c

liên kết cholesterol)

Low dentisy lipoprotein cholesterol (Lipoprotein
liên kết cholesterol)

STZ

Streptozotocin

TC


Total cholesterol (Cholesterol toàn phần)

TG

Triglyxeride

MỤC LỤC

Trang


Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt dùng trong luận văn.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi ngiên cứu nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu

6. Đóng góp mới của đề tài.
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.
1.1. Giới thiệu về một số hợp chất tự nhiên ở thực vật.
1.2. Bệnh béo phì (Obesity).
1.2.1. Thực trạng béo phì trên thế giới và Việt Nam.
1.2.2. Tác hại và nguy cơ của bệnh béo phì.

1.2.3. Nguyên nhân và giải pháp phòng, điều trị béo phì.
1.2.4. Rối loạn trao đổi lipid máu.
1.3. Bệnh đái tháo đường (Diabetes mellitus).
1.3.1. Khái niệm và phân loại.
1.3.2. Thực trạng đái tháo đường trên thế giới và Việt Nam.
1.3.3. Tác hại và biến chứng…
1.3.4. Phòng và điều trị bệnh ĐTĐ.
1.3.5. Chuyển hóa glucose và sự điều hòa glucose huyết.
1.4. Mối quan hệ giữa béo phì và đái tháo đường.
1.5. Phương pháp gây đái tháo đường thực nghiệm bằng STZ .
1.6. Vài nét chung về cây bí đao.
1.6.1. Giới thiêu.
1.6.2. Nguồn gốc.
1.6.3. Phân loại, mô tả.
1.6.4. Thành phần hóa học.
1.6.5. Một số tác dụng sinh – Dược và công dụng của cây bí đao.
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Phương pháp tách chiết mẫu nghiên cứu.
2.2.2. Phương pháp khảo sát thành phần hóa học của quả Bí đao.
2.2.2.1. Định tính.
2.2.2.2. Định lượng pholyphenol tổng số theo phương pháp Folin- Ciocalteau.

1
1
4
4
4
4

4
5
5
12
13
14
15
16
16
17
18
18
19
20
21
23
23
24
24
24
24
26
26
28
28
28
28
30



2.2.3. Nghiên cứu tác dụng của dịch chiết các phân đoạn quả Bí đao
(Benincasa hispida Cogn.) lên trọng lượng và một số chỉ số hóa sinh máu của
chuột béo phì thực nghiệm.
2.2.3.1. Thử độc tính cấp, xác định LD50.
2.2.3.2. Xây dựng mô hình chuột béo phì thực nghiệm.
2.2.4. Phương pháp nghiên cứu tác dụng hạ glucose huyết của các phân đoạn
dịch chiết quả Bí đao (Benincasa hispida Cogn.) trên mô hình chuột đái tháo
đường mô phỏng type2.
2.2.5. Một số kĩ thuật phân tích hóa sinh.
2.2.6. Xử lý số liệu.
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Qui trình tách chiết các phân đoạn từ quả Bí đao.
3.2. Kết quả khảo sát thành phần các hợp chất tự nhiên có trong các phân
đoạn dịch chiết quả Bí đao.
3.2.1. Định tính một số hợp chất tự nhiên có trong quả Bí đao.
3.2.2. Định lượng polyphenol tổng số các phân đoạn dịch chiết.
3.3. Kết quả xác định liều độc cấp.
3.4. Kết quả mô hình chuột béo phì thực nghiệm.
3.5. Tác dụng hạ glucose huyết của quả Bí đao trên mô hình chuột đái tháo
đường type 2.
3.5.1. Kết quả tạo mô hình chuột đái tháo đường type 2 thực nghiệm.
3.5.2. Tác dụng của các phân đoạn dịch chiết từ quả Bí đao đến nồng độ
glucose huyết lúc đói của chuột ĐTĐ.
3.6. Tác dụng đến chuyển hóa lipid của quả Bí đao trên mô hình chuột ĐTĐ
type 2.
KẾT LUẬN.
KIẾN NGHỊ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.

MỞ ĐẦU


29
29
30
32
33
35
36
36
37
37
39
41
41
46
46
49
52
55
56
57


1. Lý do chọn đề tài.
Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn trao đổi chất với biểu hiện chung
nhất là chứng tăng đường huyết. Căn bệnh này đang trở thành mối nguy hại đối với
toàn cầu bởi trung bình 10 giây có một người tử vong vì ĐTĐ.
Hiện trên toàn thế giới có khoảng 180 triệu người mắc bệnh đái tháo đường.
Dự báo đến năm 2030, con số này sẽ tăng lên 366 triệu người. Mỗi năm, thế giới có
khoảng 3,2 triệu người chết vì bệnh Đái tháo đường, tương đương số người chết

hàng năm vì bệnh HIV/AIDS. Đáng chú ý là bệnh có xu hướng gia tăng mạnh tại
các quốc gia đang phát triển ở châu Phi, châu Mỹ La Tinh và châu Á, đặc biệt ở độ
tuổi lao động.
Riêng châu Á, số liệu công bố tại hội nghị ĐTĐ quốc tế tổ chức vào tháng 12
năm 1997 tại Singapo công bố: năm 1995 có khoảng 62 triệu người mắc bệnh ĐTĐ,
cuối năm 2002 con số này là 89 triệu người. Theo đánh giá của Hiệp hội ĐTĐ quốc
tế (IDF) năm 2005 số người mắc bệnh ĐTĐ tại châu Á tăng lên 1.7 lần. WHO đã
cảnh báo có thể xuất hiện “đại dịch ĐTĐ” ở châu Á vào thế kỷ 21 [24], [2], [3].
Tính đến nay, Việt Nam có gần 5 triệu người mắc bệnh đái tháo đường. Với
tỷ lệ tăng từ 8-20% mỗi năm, Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ bệnh đái
tháo đường tăng nhanh nhất trên thế giới. Thống kê của Hội Người giáo dục bệnh
ĐTĐ Việt Nam cho thấy, nếu như năm 2002, tỷ lệ người mắc ĐTĐ chiếm 2,7% dân
số thì hiện con số này đã lên trên 7,2%, trong đó khu vực các đô thị, thành phố lớn
tập trung nhiều người mắc nhất. Đối tượng mắc ĐTĐ thường ở độ tuổi từ 30 - 65,
nhưng hiện đã có những bệnh nhân bị ĐTĐ mới chỉ 9 - 10 tuổi, điều này phản ánh
sự trẻ hóa về bệnh này ở nước ta.
ĐTĐ không chỉ có tính chất là một bệnh mạn tính, ĐTĐ còn kèm theo nhiều
biến chứng nguy hiểm như các bệnh về thận dẫn đến suy thận, bệnh về mắt dẫn đến
mù lòa, tổn thương hệ thần kinh và đặc biệt là các biến chứng về mạch máu (xơ vữa
động mạch) có thể dẫn đến tử vong như bệnh mạch vành, nhồi máu não, xuất huyết
não…[17], [45], [23], [7], [16].


Ngày 21 tháng 12 năm 2006, Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua một
nghị quyết thống nhất chung, tuyên bố ĐTĐ là một vấn đề sức khỏe cộng đồng
quốc tế.
Đây là lần đầu tiên một bệnh không truyền nhiễm lại được xem là một vấn đề
sức khỏe cộng đồng quốc tế và ĐTĐ là bệnh thứ hai chỉ sau AIDS đạt đến tầm quan
trọng như vậy. Trong những năm sắp đến, ĐTĐ là mối đe dọa sức khỏe cộng đồng
đang tăng lên ở các nước phát triển và đang phát triển. Y học ngày nay đã có nhiều

loại thuốc chữa bệnh ĐTĐ có hiệu quả như insulin, sulfonylurea, biguanid, ... Tuy
nhiên, hầu hết các loại thuốc này đều có tác dụng phụ và chi phí điều trị đắt đỏ [10],
[30], [2], [22].
Sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ người mắc bệnh làm cho ĐTĐ trở thành một
vấn đề lớn cho sức khỏe vì bệnh có tỷ lệ mắc, chết trầm trọng trong quá trình trị liệu
lâu dài, đặc biệt là ĐTĐ type 2 một trong những bệnh phổ biến nhất trong bệnh
ĐTĐ. ĐTĐ có thể mang nhiều biến chứng nguy hiểm như: biến chứng võng mạc,
suy thận, biến chứng mạch máu lớn, tổn thương bàn chân dẫn đến cụt....Vì vậy đại
đa số người bệnh đều có nhu cầu chữa bệnh một cách an toàn. Mỗi năm nước Mỹ
đã phải chi hàng tỉ đô la cho điều trị ĐTĐ bằng các thuốc do tổ chức an toàn thực
phẩm và dược phẩm Mỹ phê chuẩn (Food and Drug Aministration - FDA) như:
Metformin, Orlistat, Sibutramin, Ephedrin, Fenfluramin. Song hầu hết các thuốc
này đều có nguồn gốc tổng hợp, thường có tác dụng phụ và đắt tiền. Trước tình
hình đó ủy ban chuyên gia của (WHO) đã khuyến nghị nên sử dụng các thuốc
có nguồn gốc thảo dược sẵn có, giá thành rẻ và ít độc tính [4], [2].
Trong lịch sử Y học từ 1550 năm trước công nguyên, con người đã biết dùng
cây cỏ để chữa ĐTĐ. Nhiều loại thảo dược đó chứng tỏ có tác dụng rất tốt trong
việc điều trị ĐTĐ như: mướp đắng, sinh địa, hoàng kỳ, huyền sâm, cỏ ngọt, chè
xanh, khoai lang,…Việc nghiên cứu, khảo sát về thành phần hóa học và tác dụng
dược lý của các loài cây thuốc có giá trị của Việt Nam nhằm đặt cơ sở khoa học cho
việc sử dụng chúng một cách hợp lý, hiệu quả có tầm quan trọng đặc biệt.


Quả Bí đao (Benincasa hispida Cogn.) là loài thực vật thuộc họ Bầu bí
(Cucurbitaceae). Bí đao gốc ở Ấn Độ, được trồng rộng rãi ở khắp các vùng nhiệt
đới và á nhiệt đới của châu á và miền Ðông của châu Ðại Dương. Ở nước ta, quả Bí
đao cũng được trồng khắp nơi để lấy quả.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh tác dụng chống oxy hoá của bí đao trên tế
bào mô gan, não, thận. Đây là cơ sở của những tác dụng dược lý của bí đao đã được
công bố, đó là: kháng viêm, kháng dị ứng, hạ đường huyết, phòng chống

Alzheimer, béo phì, u xơ, ung thư... Nhóm nghiên cứu của Chetan Nandecha và
cộng sự đã khẳng định cao chiết hạt bí đao có hoạt tính ức chế 5α-reductase, giúp C.
Nandecha phòng chống phì đại tiền liệt tuyến trên mô hình thực nghiệm.
Nghiên cứu mới nhất của nhóm tác giả Ấn Độ (T. Jayasree, 2011) cho thấy
cao chiết nước bí đao làm tăng thể tích nước tiểu, tăng bài tiết ion natri và clor,
nhưng lại giảm bài tiết kali. Kết quả này càng khẳng định vai trò của bí đao với
bệnh nhân phù thũng, cao huyết áp.
Những kinh nghiệm cổ truyền và cả những công bố khoa học hiện đại cho
thấy bí đao là món ăn bài thuốc hữu hiệu trong phòng chống các bệnh liên quan đến
oxy hoá, trong đó có thừa cân béo phì và các bệnh tim mạch khác.
Với những lí do trên, nhằm góp phần tìm kiếm và nghiên cứu thuốc điều trị
đái tháo đường từ thành phần hóa học cơ bản của quả Bí đao (Benincasa hispida
Cogn.) trên chuột nhắt gây bệnh ĐTĐ bằng streptozotocin (STZ), chúng tôi quyết
định chọn đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu đặc tính hoá sinh dược của một số
phân đoạn dịch chiết từ quả Bí đao (Benincasa hispida Cogn.)”.
Nghiên cứu được thực hiện với những mục tiêu sau:
- Tìm hiểu thành phần hóa học cơ bản của quả Bí đao.
- Tìm hiểu tác dụng hạ đường huyết của một số phân đoạn dịch chiết quả Bí
đao trên mô hình chuột gây ĐTĐ thực nghiệm bằng STZ.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đánh giá hoạt tính sinh dược học của một số phân đoạn dịch chiết từ quả Bí
đao (Benincasa hispida Cogn.).


3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Khảo sát sơ bộ thành phần các hợp chất tự nhiên có trong quả Bí đao
(Benincasa hispida Cogn.).
3.2. Định lượng polyphenol tổng số theo phương pháp Folin – Ciocalteau.
3.3. Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của các phân đoạn dịch chiết quả
Bí đao (Benincasa hispida Cogn.) trên mô hình chuột ĐTĐ mô phỏng type 2.

4. Đối tượng nghiên cứu
4.1. Mẫu thực vật
- Quả bí đao (Benincasa hispida Cogn.).
- Địa điểm thu mẫu: Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
4.2. Mẫu động vật và vi sinh vật
- Chuột nhắt trắng là chủng Swiss 4 tuần tuổi (18- 20 g), do Viện Vệ sinh
Dịch tễ TW cung cấp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hoá lý và hoá học
5.2. Sử dụng các phương pháp hoá sinh
5.3. Tạo mô hình chuột BP, tạo mô hình chuột ĐTĐ typ II
5.5. Sử dụng phương pháp nghiên cứu hình thái giải phẫu
6. Đóng góp mới của đề tài.
Đánh giá được khả năng hạ glucose huyết của một số phân đoạn dịch chiết
lên mô hình chuột ĐTĐ mô phỏng type 2 thông qua chỉ số glucose huyết, các chỉ số
lipit máu trên chuột sau 21 ngày điều trị.

NỘI DUNG
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu về một số hợp chất tự nhiên ở thực vật.
1.1.1. Flavonoid thực vật.


Trong số các polyphenol tự nhiên, flavonoid là nhóm chất quan trọng vì
chúng phổ biến ở hầu hết các loài thực vật và có nhiều hoạt tính sinh - dược học có
giá trị [9].
1.1.1.1. Cấu tạo hoá học và phân loại.
Về cấu tạo hóa học, khung cacbon của flavonoid là C6 - C3 - C6, gồm 15
nguyên tử cacbon, hai vòng benzene A và B nối với nhau qua dị vòng C, trong đó A
kết hợp với C tạo khung chroman.

2'
7

9

1

2

B

1'

C

A
6

3'

O

8

10
5

3

6'


4'
5'

4

Flavan (2-phenyl chroman)
Tùy theo mức độ oxy hoá của vòng pyran, sự có mặt hay không có mặt của
nối đôi giữa C2 và C3 và nhóm cacbonyl ở C4 mà có thể phân biệt flavonoid thành
các nhóm phụ sau: flavon, flavonol, flavanon, chalcon và auron, antoxyanidin,
leucoantoxyanidin, catechin, isoflavonoid, rotenoid, neoflavonoid.
Flavonoid tồn tại ở hai dạng: dạng tự do gọi là aglycon và dạng liên kết với
đường gọi là glycoside. Các glycoside khi bị thuỷ phân bằng acid hoặc enzyme sẽ
giải phóng ra đường và aglycon tương ứng. Có 2 dạng glycoside là O-glycoside và
C-glycoside. Đối với O-glycoside phân tử đường liên kết với flavonoid thông qua
nhóm hydroxyl như rutin; đối với C-glycoside, flavonoid liên kết với đường thông
qua nguyên tử cacbon như saponin.
OH

HO

OH

O - Rhamnose - gluco
O

Rutin
1.1.1.2. Hoạt tính sinh học của flavonoid.

Gluco

se

OH

Saponin

O


- Tác dụng chống oxy hoá (antioxydant): flavonoid có khả năng kìm hãm các
quá trình oxy hoá dây chuyền sinh ra bởi gốc tự do hoạt động. Những flavonoid có
các nhóm hydroxyl sắp xếp ở vị trí octo dễ dàng bị oxy hoá dưới tác dụng của các
enzyme polyphenoloxydase và peroxydase tạo thành dạng semiquinon hoặc quinon.
Polyphenoloxydase
O2 + Flavonoid (dạng khử)

Flavonoid (dạng oxi hoá)

(dạng Hydroquinon)
Peroxydase
H2O2 + Flavonoid (dạng khử )
(dạng Hydroquinon)

(Semiquinon hoặc Quinon)
Flavonoid (dạng oxi hoá)
(Semiquinon hoặc Quinon) + H2O

Semiquinon hoặc quinon là những gốc tự do bền vững, chúng có thể nhận
điện tử và hydro từ chất cho khác nhau để trở lại dạng hydroquinon. Các chất này
có khả năng phản ứng với các gốc tự do hoạt động sinh ra trong quá trình sinh lý và

bệnh lý để tiêu diệt chúng.
- Flavonoid có khả năng điều hòa hoạt độ enzyme do khả năng liên kết với
nhóm amin trong phân tử protein, làm thay đổi cấu hình không gian của enzyme do
đó tạo hiệu ứng điều hòa dị lập thể.
- Flavonoid có tính kháng khuẩn, kháng virus, tăng khả năng đề kháng của
cơ thể do kích thích lympho bào, tăng sản xuất interferon, ức chế hiện tượng thoát
bọng (digramilation).
- Flavonoid có hoạt tính của vitamin PP, làm tăng tính bền và đàn hồi của
thành mạch, giảm sức thấm của mao mạch.
- Flavonoid có tác dụng chống ung thư do kìm hãm các enzyme oxy hoá khử,
quá trình đường phân và hô hấp, kìm hãm phân bào, phá vỡ cân bằng trong các quá
trình trao đổi chất của tế bào ung thư [6].
- Tác dụng giảm béo phì và lipid máu
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật cho thấy khi chuột béo
phì được điều trị bằng dịch chiết giàu flavonoid từ lá Bằng lăng (Lagerstroemia
specciosa L.) thì có trọng lượng giảm đáng kể (~ 10% ). Thí nghiệm tương tự với


flavonoid từ lá Kim ngân (Lonicera japonica Thunb.) đối với chuột cống trắng uống
cholesterol cũng cho thấy có tác dụng làm giảm các chỉ số cholesterol, triglycerid,
LDL-c đồng thời tăng HDL-c [34]. Naringin (C17H32O4) và hesperidin (C28H34O15)
là những flavonoid có hàm lượng cao trên họ cam chanh (Rutaceae) đã được nhiều
nhà nghiên cứu chiết xuất và thử tác dụng trên mô hình chuột béo phì cho kết quả
tốt trong việc làm hạ các chỉ số lipid máu [33], [38].
- Tác dụng hạ glucose huyết
OH
OH
HO

O


OH

OH
H3OC

O

O

HO

HO

O

OH

O

OH
OH

CH3

O

OH

OH

HO

OH

Quercetin

O

OO

HO

OH

OH

Hesperidin

HO

Epicatechin

Một số flavonoid được tách chiết từ nguyên liệu thực vật đã được chứng
minh là có tác dụng điều hòa glucose huyết như: quercetin có trong Đỗ trọng
(Eucommia ulmoides Oliver.) [59], Hesperidin và Naringin có trong các cây thuộc
họ Rutaceae, Genistein và Daidzein có trong Đậu nành (Glycine max L.) [12],
Myricetin có trong cây Vông vang (Abelmoschus moschatus) [12].
1.1.2. Hợp chất phenolic.
1.1.2.1. Phân loại.
Hợp chất phenolic là nhóm các chất khác nhau rất phổ biến trong thực vật.

Đặc điểm chung của chúng là trong phân tử có vòng thơm (benzen) mang một, hai
hay ba nhóm hydroxyl (OH) gắn trực tiếp vào vòng benzen. Dựa vào thành phần và
cấu trúc, người ta chia hợp chất phenolic thành 3 nhóm:
- Nhóm hợp chất phenolic đơn giản: trong phân tử chỉ có một vòng benzen
và một vài nhóm hydroxyl. Tuỳ thuộc vào số lượng nhóm hydroxyl mà chúng được
gọi là các monophenol (phenol), diphenol (pyrocatechin, hydroquinon, ...), triphenol
(pyrogalol, oxyhydroquinol, ...).


- Nhóm hợp chất phenolic phức tạp: trong thành phần cấu trúc phân tử của
chúng ngoài vòng thơm benzen (C6) chúng còn có dị vòng, mạch nhánh. Đại diện
nhóm này có acid cynamic, acid cumaric.
- Nhóm hợp chất phenolic đa vòng: là nhóm đa dạng nhất trong các hợp chất
phenol, có cấu trúc phức tạp do sự liên kết hoặc trùng hợp của các đơn phân. Ngoài
gốc phenol còn có các nhóm phụ dị vòng mạch nhánh hoặc đa vòng. Nhóm này có
flavonoid, tannin và coumarin.
1.1.2.2. Vai trò của hợp chất phenolic trong thực vật.
Hợp chất phenolic được hình thành từ những sản phẩm của quá trình đường
phân và con đường pentose qua acid cynamic hay theo con đường acetate malonate
qua Acetyl- CoA. Nhóm hợp chất này có một số chức năng trong đời sống thực vật
[8], [60].
- Các hợp chất phenolic tham gia vào quá trình hô hấp như là một chất vận
chuyển hydro.
- Các polyphenol có thể hình thành liên kết hydro với các protein và enzyme
làm thay đổi hoạt động của các enzyme này tương tự như hiệu ứng điều hòa dị lập thể.
- Tác dụng mạnh lên quá trình sinh trưởng, nó đóng vai trò là chất hoạt hoá
IAA- oxydase và tham gia vào quá trình sinh tổng hợp enzyme này. Hợp chất
phenol tác dụng như chất điều hoà các chất điều khiển sinh trưởng ở thực vật.
- Hợp chất phenol có tính chất kháng khuẩn.
1.1.3. Tannin thực vật.

1.1.3.1. Cấu trúc hoá học và phân loại.
Tannin là hợp chất phenol có trọng lượng phân tử cao, có chứa các nhóm
chức hydroxyl và các nhóm chức khác (như cacboxyl), có khả năng tạo phức với
protein và các phân tử lớn khác trong điều kiện môi trường đặc biệt. [8], [30].


OH
HO

O

OH
OH

OH

O

HO

OH
OH

Procyanidin

Quebracho

Tannin được cấu tạo dựa trên acid gallic và acid tanic. Tannin có 2 nhóm
chính: tannin thuỷ phân và tannin ngưng tụ.
- Tannin thuỷ phân: gồm có các tannin mà thành phần chính để tạo polymer

thường là ester của acid gallic với gốc đường, các ester không mang đường của acid
phenolcacbonic và ester của acid ellagovic với đường.
- Tannin ngưng tụ: là các oligomer hay polymer của các đơn vị flavonoid
(flavan 3-ol) nối với các dây nối C - C không bị cắt khi thuỷ phân như catechin,
epicatechin hoặc các chất tương tự. Tannin ngưng tụ có thể có từ 2 tới 50 hay hơn
các đơn vị flavonoid.
Tannin thường là hợp chất vô định hình hoặc tinh thể, không màu, có tính
quang học, vị chát. Tannin tan trong nước tạo dung dịch keo và độ hoà tan thay đổi
tuỳ thuộc vào mức độ polymer hoá. Chúng tan tốt trong ethanol, acetone.
1.1.3.2. Tác dụng sinh học.
- Tannin là chất cầm rửa do có tác dụng giảm sự bài tiết trong ống tiêu hóa,
kết tủa protein tạo thành một màng che niêm mạc.
- Tannin có tác dụng chống ung thư do có khả năng kết hợp với các chất gây
ung thư.
- Tannin ở nồng độ cao ức chế hoạt động của các enzyme nhưng ở nồng độ
thấp chúng thường kích hoạt enzyme.
- Tannin có tác dụng ức chế và diệt khuẩn, tác dụng cầm máu do làm se hệ
mao mạch hay tác dụng làm giảm đau tại chỗ do làm giảm tác dụng ở đầu dây thần


kinh trung ương. Tannin còn chữa ngộ độc kim loại nặng và alkaloid do tạo tủa với
chúng.
1.1.4. Alkaloid.
1.1.4.1. Khái quát về Alkaloid.
Alkaloid là hợp chất chứa nitơ, đa số có nhân dị vòng và có tính kiềm, thường
gặp ở thực vật và động vật [8], [30]. Đa số các alkaloid trong thành phần có chứa oxy
ở thể rắn (cafein), không có oxy thường ở thể lỏng dễ bay hơi (nicotin). Alkaloid
thường không có màu, không mùi và vị đắng. Một số alkaloid có màu vàng như
berberin, palmitin. Các alkaloid ở dạng base thường không tan trong nước [40].
HO


CH3
N

O

N

N

O

N

N

H3C

CH3

O

H
HO

C a f fe
in

M o rp
hine


NH

N

CH3

Nicotin

Alkaloid có tính kiềm yếu, do các mạch cacbon chứa nitơ quyết định. Chúng
có thể liên kết với kim loại nặng tạo phức và phản ứng với một số thuốc thử đặc
trưng như: Bouchardat (kết tủa màu nâu sẫm), Vans-Mayer (kết tủa trắng ánh vàng)
hay Dragendroff (màu da cam, nâu đỏ).
1.1.4.2. Tác dụng sinh học.
Alkaloid được hình thành từ các sản phẩm của quá trình trao đổi chất như
trao đổi protein. Ở trong cây, alkaloid được coi như là chất dự trữ cho tổng hợp
protein, các chất bảo vệ cây, tham gia vào sự chuyển hoá hydro ở các mức độ khác
nhau, ... [8], [30].
Alkaloid được sử dụng nhiều trong công nghiệp dược, có rất nhiều thuốc
chữa bệnh được sử dụng trong y học là các alkaloid tự nhiên hoặc nhân tạo, ví dụ
như: atrophin, morphin, cocain, ...


1.1.5. Hợp chất coumarin.
Coumarin là dẫn chất của α- purone có cấu trúc C6- C3 dị vòng chứa oxy.
Coumarin kết tinh không màu hoặc màu vàng nhạt, vị đắng, cay, có mùi thơm [30].
Tính chất hóa học đặc trưng là dễ dàng kết hợp với đường glucose tạo thành
glycosid dễ tan trong nước.
Hiện nay chúng ta biết đến 1500 hợp chất coumarin khác nhau khi nghiên
cứu 800 loài thực vật. Ta cũng dễ dàng tìm thấy coumarin trong tất cả các bộ phận

khác nhau của cây như: áo hạt, quả, hoa, rễ, lá, thân…Coumarin cũng có vai trò là
một nhóm chất phòng thủ hóa học hữu hiệu chống lại vi khuẩn và tác nhân có hại
của môi trường. Tuy nhiên cho tới nay con đường tổng hợp coumarin vẫn chưa
hoàn toàn sáng tỏ [38].

O

O

Coumarin
Coumarin sử dụng trong đời sống hàng ngày như làm nước hoa, hương liệu,
làm chất chống đông máu và chất diệt loài gặm nhấm. Trong y học dẫn xuất của
coumarin có tác dụng chống co thắt, giãn nở động mạch vành, làm bền và bảo vệ
thành mạch, ngăn cản đột qụy [38]. Một số coumarin khác có tác dụng kháng
khuẩn, kháng nấm, kháng khối u, trừ giun sán và giảm đau.
1.1.6. Terpen thực vật.
Terpen là nhóm hydrocacbon thực vật lớn và đa dạng nhất, được hình thành
từ quá trình polyme hoá các tiểu đơn vị isopren 5-carbon (C5H8), có công thức cấu
tạo chung là (C5H8)n. Trong thực vật terpen được tổng hợp thông qua con đường
trao

đổi

chất

acetate/mevalonate

hoặc

con


đường

glyceraldehyde

3-

phosphate/pyruvate. Hầu hết các terpen đều thuộc nhóm hydrocarbon, tuy nhiên
chúng có thể bị khử hoặc bị oxy hóa để hình thành các hợp chất terpenoid khác
nhau như alcohol, ketone, acid và aldehyd. Vì vậy, một số tác giả sử dụng thuật ngữ
“terpenes” để chỉ chung một nhóm lớn các hợp chất bao gồm cả terpen và


terpenoid. Terpen là thành phần chính của các loại tinh dầu, được dùng trong công
nghệ hương mỹ phẩm, thực phẩm và dược phẩm. Những terpen bậc cao thường là
các chất có hoạt tính sinh học.
1.2. Bệnh béo phì (Obesity).
Tổ chức y tế thế giới (WHO) định nghĩa béo phì (Obesity) là tình trạng tích
lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng hay toàn bộ cơ thể gây ảnh
hưởng tới sức khỏe. Tổ chức này dùng chỉ số khối cơ thể BMI (Body Mass Index)
để đánh giá tình trạng dư thừa hay thiếu hụt mỡ của mỗi người.
Chỉ số khối cơ thể được tính theo công thức như sau:
Trong đó:

W: Khối lượng (kg )
H: Chiều cao (m )

Bảng 1.1. Phân loại BMI của người trưởng thành châu Âu và châu Á [2].
Người trưởng thành châu ÂuNgười trưởng thành châu Á
< 18.5

< 18.5
18.5 - 24.9
18.5 - 22.9
≥ 25 - 29.9
≥ 23
Nhẹ cân Bình thường Quá cân
30 - 34.9
>23 - 24.9
Béo phì độ 1
35
39.9
25 - 29.9
Béo phì độ 2 Béo phì độ 3
≥ 40
≥ 30
Mức độ thể trọng

1.2.1. Thực trạng béo phì trên thế giới và Việt Nam.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) hiện nay số người béo phì đã lên tới 1,7 tỉ
người [3], không chỉ gặp nhiều ở các quốc gia phát triển mà còn gặp cả ở các quốc
gia đang phát triển. Mỹ là nước có số dân mắc bệnh cao nhất thế giới, khoảng 60
triệu người (chiếm 30% dân số), tăng gấp 3 lần so với điều tra năm 1991. Ở châu
Âu, Anh là quốc gia đứng đầu bảng với 23% dân số. Theo số liệu năm 2010,
khoảng 171 triệu trẻ em trên thế giới bị còi do thiếu ăn, chế độ ăn thiếu vitamin và
khoáng chất, chăm sóc trẻ không đầy đủ và bệnh tật.Tại châu Á tỉ lệ thừa cân béo


phì ở một số nước như sau: Thái Lan 3,5%, Philipin 4,27%, Malaysia 3,01%, Nhật
3%, Trung Quốc 2%, Hồng Kông 3%.
Tại Việt Nam, theo tiêu chuẩn cho người châu Á, số người thừa cân béo phì

cũng tăng theo thời gian. Năm 1991 theo điều tra của Lê Huy Liệu và cộng sự thì tỉ
lệ thừa cân mắc bệnh béo phì nói chung tại Hà Nội là 1,1%. Đến năm 2000 con số
này đã là 2,62% tăng gần 2,5 lần trong vòng 10 năm (điều tra của Lê Văn Hải) [3].
Năm 2007, Viện dinh dưỡng Quốc gia điều tra trên đối tượng người trưởng
thành 25 - 64 tuổi cho thấy tỉ lệ thừa cân béo phì là 16,8% và còn có xu hướng tăng
lên. Theo Viện trưởng TS. Nguyễn Công Khẩn thì tỉ lệ này ở thành thị lớn hơn nông
thôn, ở nữ giới cao hơn nam giới. Trẻ em Việt Nam cũng có 16,3% mắc thừa cân
béo phì [14]. Hà Nội có 4,9% trẻ 4 - 6 tuổi mắc bệnh, Thành phố Hồ Chí Minh 6%
trẻ dưới 5 tuổi và 22,7% học sinh tiểu học cũng rơi vào tình trạng này [56]. Với
những hiểu biết hiện nay, thừa cân, béo phì được coi là những đối tượng “ngiễm
nhiên” tiến tới ĐTĐ typ 2, đặc biệt với những người có chỉ số BMI cao lại có vòng
eo lớn – béo trung tâm [2]. Trước tình hình đó Bộ y tế đã kí quyết định thành lập
“Trung tâm phục hồi dinh dưỡng và kiểm soát béo phì” trực thuộc Viện dinh dưỡng,
chính thức tuyên chiến với bệnh béo phì.
1.2.3. Tác hại và nguy cơ của bệnh béo phì.
Chứng thừa cân và bệnh béo phì gây nhiều tác hại cho cuộc sống con người
như mất thoải mái trong sinh hoạt, giảm hiệu suất lao động, khối lượng cơ thể nặng
nề kém lanh lợi.
Người béo phì có nguy cơ bệnh tật cao hơn so với người thường do nhiễm
độc mỡ máu, tiêu biểu như:
* Bệnh tim mạch: do mỡ tạng làm tim khó co bóp và mỡ máu làm xơ cứng
mạch vành và các mạch máu khác gây nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp.
* Rối loạn lipid máu: tình trạng này rất hay gặp ở người béo bụng và có biểu
hiện đặc trưng là tăng triglycerid và lipid có hại (LDL-c), giảm lipid có lợi (HDL-c).
* Tiểu đường: béo phì toàn thân có nguy cơ mắc ĐTĐ type 2.


* Đột qụy: những người có BMI > 30 dễ bị tử vong do bệnh liên quan đến
mạch máu não.
* Ngoài ra béo phì còn làm gia tăng nguy cơ của nhiều bệnh khác: xấu đi

tình trạng rối loạn tiền mãn kinh ở phụ nữ, suy giảm chức năng hô hấp, rối loạn hoạt
động cơ xương, ung thư, sỏi mật và các vấn đề bệnh lý tâm thần khác [3], [13], [36].
1.2.4. Nguyên nhân và giải pháp phòng, điều trị béo phì.
Nguyên nhân chính dẫn đến thừa cân béo phì là do khẩu phần và thói quen
dinh dưỡng không hợp lý, hoạt động thể lực kém dẫn đến năng lượng hấp thụ
vào cơ thể vượt quá mức cần thiết và tích lũy dưới dạng mỡ. Ngoài ra một số
bệnh lý nội tiết như: hội chứng Cushing (do hormone cortisosteroid trong cơ
thể tăng quá cao), bệnh suy tuyến giáp trạng, bệnh trứng đa nang hoặc có chứa
gen béo phì di truyền.
Để phòng bệnh béo phì có hiệu quả, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận thức về
dinh dưỡng và hoạt động thể lực. Trên phạm vi xã hội, việc phòng bệnh cần tập
trung vào nhóm có nguy cơ cao mắc bệnh này.
Điều trị thừa cân béo phì dựa trên nguyên tắc kết hợp giữa chế độ ăn uống,
luyện tập và dùng thuốc. Trong đó thuốc và phẫu thuật chỉ dùng trong trường hợp
bắt buộc. Thuốc chống béo phì được chia làm hai nhóm lớn.
* Nhóm có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương.
* Nhóm tác dụng lên hệ tiêu hóa.
Thuốc điều trị béo phì phổ biến hiện nay là Metformin thuộc nhóm hai với
tác dụng chủ yếu là ức chế phân giải glycogen thành glucose ở gan, làm tăng tính
nhạy cảm của insulin ngoại vi, tác động hạ glucose trong khoảng 2 - 4 mmol/l, giảm
HbA1C đến 2%. Vì thế, Metformin được dùng cho cả bệnh nhân béo phì và tiểu
đường. Tuy nhiên thuốc cũng có một số tác dụng phụ với đường tiêu hóa, chống chỉ
định với người suy tim nặng, bệnh gan, bệnh thận và những người từng có tiền sử
nhiễm toan lactic.
1.2.5. Rối loạn trao đổi lipid máu.
Huyết thanh người bình thường có 5 - 7g/l lipid toàn phần bao gồm acid béo


tự do, triglycerid, cholesterol toàn phần với hai dạng cholesterol tự do và cholesterol
este, các photpholipid. Vì không tan trong nước nên lipid được vận chuyển trong

máu dưới dạng kết hợp với các protein đặc hiệu. Các acid béo tự do được vận
chuyển chủ yếu bởi albumin, các lipid khác được lưu hành trong máu dưới dạng
phức hợp lipoprotein như: các hạt chymomicron, VLDL, HDL, IDL, LDL. Các
lipoprotein này có kích thước, thành phần, tỉ trọng và chức năng khác nhau trong
quá trình chuyển hóa lipid [9], [26], [57].
Để đánh giá lượng mỡ trong máu người ta làm xét nghiệm với các chỉ số:
* Cholesterol toàn phần (2,9 – 5,2 mmol/l);
* Triglycerid (0,8 – 2,3 mmol/l);
* HDL-c (0,90 – 1,50 mmol/l);
* LDL-c (0,5 – 3,4 mmol/l).
Tình trạng rối loạn và hoặc tăng nồng độ các thành phần lipid trong máu, hậu
quả là sự tạo thành các mảng xơ vữa gây tắc mạch làm tăng nguy cơ biến chứng tim
mạch và đột qụy, tăng các biến chứng mạch máu khác, hậu quả nặng nề nhất là dẫn
đến tử vong hoặc tàn phế gọi là rối loạn chuyển hóa [2]. Ngày nay người ta đã xem
là có rối loạn lipid máu ngay từ khi tỉ lệ thành phần của lipid máu có sự thay đổi.
Khái niệm này chỉ rõ rối loạn lipid máu có thể xảy ra từ rất sớm, ngay cả khi chưa
có tăng các giá trị tuyệt đối nồng độ của các thành phần trong máu [2]. Rối loạn này
có thể tiên phát do di truyền hoặc thứ phát sau các bệnh khác như: béo phì, ĐTĐ,
nghiện rượu, suy giáp trạng. Fredrickson căn cứ vào kĩ thuật điện di và siêu ly tâm
với các thành phần huyết thanh đã phân loại chứng tăng lipid máu thành 5 type dựa
trên những thay đổi thành phần lipoprotein. Cách phân loại này đã được WHO
chính thức sử dụng vào năm 1970 [25]. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh người
mắc bệnh béo phì có nguy cơ cao mắc các bệnh rối loạn lipid máu dẫn đến xơ vữa
động mạch (liên quan chủ yếu đến các lipoprotein) hoặc hiện tượng “nhiễm độc mỡ
tế bào” [18], [25].


1.3. Bệnh đái tháo đường (Diabetes mellitus).
1.3.1. Khái niệm và phân loại.
Danh từ đái tháo đường (Diabetes mellitus) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp

(Diabetes: nước chảy trong ống syphon) và tiếng Latinh (mellitus: ngọt) [65].
Khoảng 1550 năm trước công nguyên các thầy thuốc Hy Lạp đã mô tả bệnh này với
các triệu chứng ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, nước tiểu có đường và sút cân
nhanh [4]. PGS. TS Tạ Văn Bình định nghĩa đái tháo đường là một hội chứng có
đặc tính biểu hiện bằng tăng đường máu, do hậu quả của việc mất hoàn toàn insulin
hoặc là do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết và hoạt động của insulin. Bệnh
ĐTĐ được xác định dựa vào những tiêu chí trong bảng 1.2 [4].
Bảng 1.2. Các tiêu chí để chuẩn đoán ĐTĐ theo WHO.
Đường huyết
Kết luận

lúc đói
(mmol/l)

Đái tháo đường
Rối loạn dung nạp
đường huyết
Bình thường

Đường huyết 2 giờ sau
khi làm nghiệm pháp
tăng đường huyết

Đường huyết tại
thời điểm bất kì
(mmol/l)

(mmol/l)

>7


> 11.1

5.6 - 7

7.8 - 11.1

< 5.6

< 7.8

>11.1
kèm triệu chứng
uống nhiều, đái
nhiều và gầy sút.

Dựa vào những hiểu biết về nguyên nhân phát sinh bệnh, ủy ban chuyên gia
về chuẩn đoán và phân loại ĐTĐ của WHO chia ĐTĐ thành các loại như sau:
ĐTĐ type 1: Thường xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên, khởi phát ở các cá
thể có tính mẫn cảm về di truyền với bệnh. Nguyên nhân chính của bệnh là tế bào β
đảo tụy Langerhans bị phân hủy dẫn đến mất khả năng sản xuất insulin, một
hormon điều hòa lượng đường trong máu. Quá trình hủy hoại tế bào β do cơ chế tự
miễn [4], [27]. Người ta đã biết đến 18 vùng gen liên quan đến type này được kí
hiệu từ IDDM1 đến IDDM18. Các gen này chủ yếu liên quan đến những yếu tố
kháng nguyên bạch cầu người HLA hoặc là gen mã hóa insulin [16].


ĐTĐ type 2: Chiếm 80% - 90% bệnh nhân, có tính quy tụ gia đình và hay
gặp ở những người trên 30 tuổi. Hai yếu tố chính đóng vai trò quan trọng trong cơ
chế sinh ĐTĐ type 2 là khiếm khuyết chức năng tế bào β tuyến tụy và tình trạng

kháng insulin [4], [36]. Hai yếu tố này luôn có tác động qua lại với nhau và không
thể kết luận yếu tố nào xuất hiện trước. Kháng insulin có thể do bất thường ở hậu
thụ thể insulin, bất thường về số lượng receptor insulin hoặc ái lực gắn hormon của
insulin và cũng có thể do acid béo tự do tăng cao gián tiếp làm ảnh hưởng quá trình
truyền tin nội bào của insulin ở tế bào đích. Bởi vậy, bệnh béo bệu là một trong
những nguyên nhân môi trường được đề cập đến nhiều nhất vì chính béo bệu làm
gia tăng tình trạng kháng insulin [16].
Sinh bệnh học ĐTĐ type 2 diễn biến qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Mặc dù nồng độ glucose trong máu vẫn bình thường, nhưng có
hiện tượng kháng insulin vì insulin tăng cao hơn mức bình thường trong máu.
- Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng nặng dần do có hiện
tượng tăng glucose huyết sau ăn.
- Giai đoạn 3: Kháng insulin không đổi nhưng bài tiết insulin suy giảm gây
tăng glucose huyết lúc đói, bệnh ĐTĐ biểu hiện ra bên ngoài.
Ngoài ra còn có ĐTĐ thai nghén và một số type ĐTĐ đặc biệt khác như
thiếu hụt chức năng tế bào β, thiếu hụt di truyền về tác động của insulin, bệnh tụy
ngoại tiết, ...
1.3.2. Thực trạng đái tháo đường trên thế giới và Việt Nam.
Cùng với các bệnh không lây nhiễm khác, bệnh ĐTĐ đang phát triển với tốc
độ nhanh chóng cùng sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Năm 1994, toàn thế giới
có 98,9 triệu người mắc ĐTĐ. Năm 1995 đã tăng lên 135 triệu người chiếm 4% dân
số thế giới, cuối năm 2002 có khoảng 177 triệu người [2] . Dự đoán đến năm 2010
có khoảng 222 triệu và năm 2025 có khảng 300 triệu bệnh nhân chiếm 5,4% dân số
thế giới [2]. Đặc biệt ngày nay tỉ lệ người mắc bệnh ở châu Á đã vượt xa châu Âu nơi vẫn được xem là ổ bệnh [1]. Tại Tây Thái Bình Dương có 12 quốc gia có tỉ lệ
ĐTĐ type 2 trên 8%, cá biệt có quốc đảo có tỉ lệ bệnh vượt 40% .


Việt Nam hiện nay ĐTĐ đang gia tăng rất nhanh. Năm 1990, Hà Nội có tỉ lệ
mắc bệnh là 1,2%, Huế 0,96%, Thành phố Hồ Chí Minh là 2,52%. Theo điều tra
quốc gia năm 2002 cho thấy tỉ lệ người mắc bệnh ĐTĐ lứa tuổi từ 30 - 64 trong

toàn quốc là 2,7% (khu vực đô thị và khu công nghiệp tỉ lệ tới 4,4%). Đặc biệt bệnh
này trong nhóm người có yếu tố nguy cơ là rất cao (10,3%). Hiện nay, có khoảng
hai triệu người mắc bệnh ĐTĐ nhưng có tới 65% số đó không biết mình đã mắc
bệnh. Theo PGS. TS Tạ Văn Bình: ĐTĐ type 2 ở lứa tuổi thanh thiếu niên ngày một
tăng nhanh, đây là một vấn đề rất đáng lưu tâm [2].
1.3.3. Tác hại và biến chứng.
ĐTĐ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và khả năng làm việc của người lao
động, nhưng hơn cả là nguy cơ biến chứng của bệnh nhân thường rất cao [4].
Biến chứng mắt như: bệnh lý võng mạc (27,8%), đục thủy tinh thể (6,1%),
tăng sinh gây mù lòa (1,1%).... Bệnh về võng mạc tăng dần theo thời gian phát hiện
bệnh.
Biến chứng thận như: microalbumin niệu (11,6%), macroalbumin (3%), suy
thận từ độ 1 đến độ 4 (3,5%) …
Biến chứng thần kinh ngoại vi: giảm hoặc mất phản xạ gân xương hoặc cảm
giác rung …
Tổn thương bàn chân: tùy từng mức độ như phỏng rộp, biến dạng, loét, hoại
thư, cắt cụt, …
Biến chứng mạch máu lớn: mạch vành có tới (38%), đột quỵ (1,2%), tăng
huyết áp (27,6%) ...
1.3.4. Phòng và điều trị bệnh ĐTĐ.
Trừ những nguyên nhân di truyền thì ăn uống sinh hoạt hợp lý điều độ và
khám sức khỏe định kỳ là phương thức chung để phòng bệnh nói chung và bệnh
ĐTĐ nói riêng. Tùy theo loại ĐTĐ mà việc điều trị bằng thuốc là khác nhau:
+ Insulin và các thuốc kích thích bài tiết insulin như Sulfonflurea, Nateglinid
(Starlix) …


+ Thuốc làm tăng tính nhạy cảm của thụ thể với insulin như: Biguanid, nhóm
thiazolidinedion…
+ Các thuốc chống tăng glucose huyết sau bữa ăn: thuốc ức chế enzyme αglucosidase…

1.3.5. Chuyển hóa glucose và sự điều hòa glucose huyết.
Glucose trong cơ thể có nguồn gốc chủ yếu từ thức ăn thông qua quá trình
tiêu hóa. Vào các thời điểm xa bữa ăn hoặc khi glucid thức ăn không đủ, cơ thể sẽ
huy động nguồn glucose thứ hai nhờ sự thoái hóa glycogen ở gan, cơ. Ngoài ra
glucose còn có được nhờ quá trình tân tạo glucose nhờ hệ thống enzyme đặc hiệu
riêng biệt (xảy ra ở gan, thận, ruột) từ pyruvat, lactat hay các sản phẩm trung gian
của chu trình Krebs.
Glucose sau khi được hấp thu hoặc tạo thành trong cơ thể sẽ tan trong máu
và được vận chuyển vào trong tế bào nhờ các protein vận chuyển. Cuối cùng
glucose sẽ thoái hóa để tạo năng lượng hay các sản phẩm trung gian thông qua quá
trình đường phân, chu trình pentose phosphat hay con đường tạo uronic và ascorbic.
Glucose dư thừa khi nhu cầu năng lượng của cơ thể thấp lại được chuyển thành
dạng glucid dự trữ là glycogen ở gan [26].
Để duy trì nồng độ glucose ổn định trong máu cơ thể phải huy động nhiều cơ
chế, có sự xúc tác của nhiều loại enzyme khác nhau nhằm cân bằng giữa lượng
glucose đi vào máu và lượng glucose được thu nạp bởi các tổ chức. Trong đó quan
trọng nhất là việc điều hòa quá trình tân tạo glucose và quá trình thoái hóa glucose
có sự tham gia của nhiều protein vận chuyển glucose qua màng tế bào [17].
Glucose trong cơ thể được điều hòa ổn định bởi các hormon mà chủ yếu là
các hormon tuyến tụy nội tiết. Insulin là hormon tiết bởi các tế bào β của đảo tụy
Langerhans có tác dụng làm giảm glucose máu do làm tăng dự trữ glycogen ở gan,
cơ, ức chế quá trình tân tạo đường mới. Glucagon là hormon tiết bởi tế bào α đảo
tụy, có tác dụng ngược với insulin, nghĩa là làm tăng sự phân giải glycogen và tăng
tân tạo đường mới do đó giảm glucose huyết.


1.4. Mối quan hệ giữa béo phì và đái tháo đường.
Béo phì và ĐTĐ là hai bệnh không truyền nhiễm nhưng nguy hiểm nhất của
thế kỉ 21. Hai căn bệnh này có mối liên quan chặt chẽ với nhau thể hiện ở chỗ tỉ lệ
người béo phì luôn tăng tương đương với số bệnh nhân bị ĐTĐ. Một cuộc khảo sát

của Mỹ gần đây đã chỉ ra rằng có tới 58% số người bị ĐTĐ type 2 được quy cho là
do béo phì. Béo phì liên quan tới ĐTĐ type 2 thông qua sự đề kháng insulin. Nồng
độ acid béo tự do cứ tăng 100µM thì mức đề kháng insulin tăng khoảng 5-10% [2].
Thiếu insulin dẫn đến sự tăng trọng lượng cơ thể, tăng đường máu, cuối cùng dẫn
đến bệnh ĐTĐ type 2.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa béo phì và bệnh ĐTĐ type
2 bao gồm: chỉ số khối cơ thể, thời gian béo phì, chế độ dinh dưỡng, sự vận động
thân thể. Một thống kê đã chỉ ra rằng những người có chỉ số khối cơ thể lớn hơn 30
2

kg/m trong 10 năm có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ type 2 cao gấp hai lần người bị béo
phì dưới 5 năm và nếu trọng lượng cơ thể tăng một kilogam thì rủi ro về bệnh ĐTĐ
type 2 tăng 4,5% [36]. Đây chính là cơ sở để Reed và cộng sự đưa ra phương pháp
gây mô hình ĐTĐ thực nghiệm ở động vật bằng cách tiêm STZ liều đơn cho chuột
đã được vỗ béo nhiều ngày [64], [66]. Tại Việt Nam, Trần Thị Chi Mai đã áp dụng
phương pháp này và đạt hiệu quả 90% chuột xuất hiện ĐTĐ với nồng độ glucose
máu ≥10 mmol/l [19].
Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy acid béo tự do có vai trò trong bệnh
sinh ĐTĐ type 2. Phần lớn người béo phì có nồng độ acid béo trong huyết tương
tăng cao. Sự tăng này ức chế quá trình hấp thu glucose ngoại vi dưới tác dụng của
insulin, ức chế sử dụng glucose của toàn cơ thể, ức chế oxy hóa glucose ở cơ .
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã thấy rằng thừa cân và béo phì có một mối
liên quan chặt chẽ đến tính kháng Insulin và bệnh ĐTĐ týp 2 và điều đó cũng không
loại trừ ở các bệnh nhân ĐTĐ Việt Nam. Tuy nhiên các nghiên cứu sâu của Việt
Nam về vấn đề này còn chưa nhiều và toàn diện cũng như cập nhật thường xuyên.
Cơ sở dữ liệu chủ yếu dựa trên các đề tài khoa học của một số tác giả. (tiêu chuẩn


×