Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Nghiên cứu một số đặc tính sinh dược học của dịch chiết từ cây rau muống (Ipomoea aquatica forsk.)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 66 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay tốc độ phát triển kinh tế ngày càng mạnh, đời sống vật chất và
tinh thần ngày càng tăng cao, kéo theo đó là sự phát triển nhanh của một số
loại bệnh có tác động xấu đến chất lượng cuộc sống của con người. Trong số
đó có tình trạng thừa cân, BP và ĐTĐ.
Béo phì là tình trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại
một vùng cơ thể hay toàn thân đến mức ảnh hưởng đến sức khỏe như: bệnh
tim mạch, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, tiểu đường, đột quỵ, giảm khả
năng sinh sản, giảm chức năng hô hấp, tăng viêm xương, khớp, ung thư, bệnh
đường tiêu hóa, ….[16].
Đái tháo đường (Diabetes mellitus) là một trong những bệnh rối loạn
chuyển hóa có mức tăng nhanh chóng trong thời gian gần đây cả về số lượng
cũng như chi phí điều trị, ngày càng trở thành gánh nặng về kinh tế và xã hội
đối với nhiều quốc gia trên thế giới.
Đái tháo đường với biểu hiện chung nhất là tăng glucose huyết do tế
bào β của đảo tụy Langerhan bị phá hủy mất khả năng sản xuất insulin (ĐTĐ
typ I) hoặc do rối loạn trao đổi lipid-glucid dẫn đến đối kháng insulin (ĐTĐ
typ II) [1].
Bệnh đái tháo đường và BP có quan hệ chặt chẽ, trong đó ĐTĐ là
hậu quả của BP (Obesity) và thừa cân quá mức [24].
Y học hiện đại đã cho ra đời nhiều loại thuốc chữa ĐTĐ hiệu quả như
insulin, biguanid… Tuy nhiên các loại thuốc này có nhiều tác dụng phụ và chi
phí điều trị đắt đỏ.
Chính vì thế, WHO khuyến cáo nghiên cứu phát triển các loại thuốc có
nguồn gốc từ thảo dược, với ưu điểm là nguồn dược liệu sẵn có, dễ sử dụng,


giá thành rẻ, ít tác dụng phụ, dễ được cộng đồng chấp nhận, đặc biệt là các


nước kém phát triển và đang phát triển.
Thực tế có nhiều loại thảo dược có khả năng hỗ trợ điều trị bệnh BP và
ĐTĐ. Trong đó cây rau muống, một thực phẩm quen thuộc ở nhiều quốc gia
trên thế giới đã được nghiên cứu chứng tỏ về khả năng điều trị ĐTĐ rất tốt.
Điển hình là các nghiên cứu ở Trung Hoa, Vienna (Áo), Viện Đại Học North
Carolina State University [6]…
Ở nước ta, những nghiên cứu về các dược liệu điều trị bệnh ĐTĐ và BP
được bắt đầu từ khoảng 5 năm trở lại đây [15], [16], [18], đáng chú ý là ở 4
trung tâm lớn: Đại học Y Hà Nội, Đại học Dược Hà Nội, Đại học Quốc Gia
Hà Nội và Viện Dược Liệu Trung Ương.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã chứng minh được tác dụng hạ đường
huyết của nhiều dược liệu, trong đó có những vị thuốc cổ truyền lâu đời như
Mướp đắng, Thổ phục linh, và những cây thuốc hoàn toàn mới phân bố rất
nhiều tại Việt Nam. Không chỉ dừng ở những nghiên cứu sàng lọc tác dụng
của chất hoạt tính từ thực vật trên động vật thí nghiệm, nhiều nghiên cứu đã
bước đầu đi vào tách, tinh chế các thành phần hoạt chất từ những dược liệu có
tác dụng chữa bệnh ĐTĐ.
Gần đây, các nghiên cứu bước đầu đã cho thấy một số hoạt chất trong
các phân đoạn dịch chiết của vài loài thực vật thuộc họ chua me (Oxali daceae),
Tử vi (Lythra ceae), họ Cam chanh (Rutaceae) có chất lượng cao trong điều trị
bệnh BP và ĐTĐ.
Ở Việt Nam cây rau muống cũng được biết đến trong việc chữa một số
bệnh giải nhiệt, giải độc, thông máu bổ máu, lợi tiểu, nhuận trường …trị các
chứng đau dạ dày, xuất huyết, máu cam… [7].
Tuy nhiên việc nghiên cứu đặc tính hóa sinh, y dược của các hoạt chất
thiên nhiên từ đối tượng này chưa được nghiên cứu một cách thỏa đáng. Chính


vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một số đặc tính sinh dược
học của dịch chiết từ cây rau muống (Ipomoea aquatica Forsk.)”

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tách chiết một số đặc tính sinh dược học của dịch chiết từ
cây rau muống (Ipomoea aquatica Forsk.)
3. Nội dung nghiên cứu
- Tạo mô hình chuột BP và gây ĐTĐ.
- Đánh giá tác dụng hạ glucose huyết của một số phân đoạn dịch chiết từ cây
rau muống (Ipomoea aquatica Forsk.) trên mô hình chuột gây ĐTĐ bằng
STZ.
- Đánh giá khả năng ổn định rối loạn trao đổi glucid-lipid của một số phân
đoạn dịch chiết từ cây rau muống (Ipomoea aquatica Forsk.) trên chuột ĐTĐ
thực nghiệm.
4. Đóng góp mới của đề tài
Cung cấp một số dẫn liệu khoa học về thành phần hóa học, hàm lượng
các nhóm hợp chất hữu cơ, khả năng chống BP của phân đoạn dịch chiết từ
cây rau muống (Ipomoea aquatica Forsk.)


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Hợp chất thứ sinh thực vật
Ở thực vật, ngoài protein, saccarid, lipid, vitamin, còn có những chất
khác có vai trò quan trọng trong trao
đổi chất của cây được gọi là các chất thực vật thứ sinh (plant secondary
metabolites). Căn cứ vào tính chất hóa học, các hợp chất thực vật thứ sinh
được chia thành một số nhóm chính như: nhóm phenolic, nhóm terpen và
nhóm alkaloid.
1.1.1. Hợp chất phenolic
Dựa vào thành phần và cấu trúc người ta chia hợp chất phenolic thành 3
nhóm nhỏ [25].
Nhóm hợp chất phenolic đơn giản: Trong phân tử chỉ có một vòng

benzene và một vài nhóm hydroxyl. Tùy thuộc vào số lượng nhóm OH mà
chúng được

gọi là các monophenol (phenol), diphenol (pyrocatechin,

hydroquynone), triphenol (pyrogalol, oxyhydroquynol…).
Nhóm hợp chất phenolic phức tạp: Trong thành phần cấu trúc phân tử
của chúng ngoài vòng thơm benzene (C6) chúng còn có dị vòng, mạch nhánh.
Đại diện nhóm này có axid cyamic, axid ceramic.
Nhóm hợp chất phenolic đa vòng: Là nhóm đa dạng nhất trong các hợp
chất phenol, có cấu trúc phức tạp do sự liên kết hoặc trùng hợp của các đơn
phân. Ngoài gốc phenol còn có các nhóm phụ dị vòng mạch nhánh hoặc đa
vòng. Nhóm này có flavonoid, tannin và coumarin.
1.1.1.1. Flavonoid thực vật
Flavonoid là một nhóm hợp chất tự nhiên lớn thường gặp trong thực
vật, phần lớn có màu vàng.


Flavonoids là một chuỗi polyphenolic gồm có 15 nguyên tử cacbon và
hai vòng benzen liên kết bởi một đường thẳng có 3 cacbon.

Flavonoid gồm 2 vòng thơm và một vòng pyran

*Hoạt tính sinh học của flavonoid
Tác dụng chống oxy hóa (antioxidant): flavonoid có khả năng kìm hãm
các quá trình oxy hóa dây truyền sinh ra bởi gốc tự do hoạt động. Những
flavonoid có các nhóm hydroxyl sắp xếp ở vị trí octo dễ dàng bị oxy hóa dưới
tác dụng của các enzyme polyphenoloxydase và peroxydase tạo thành dạng
semiquinon hoặc quinon.



O2 + Flavonoid (dạng khử)

polyphenoloxydase

(dạng Hydroquinon)
H2O2 + Flavonoid (dạng khử)

Flavonoid (dạng oxy hóa)
(Semiquinon hoặc Quinon)

Peroxydaxe

(dạng Hydroquinon)

Flavonoid (dạng oxy hóa)
(Semiquinon hoặc Quinon) +H2O

- Flavonoid có khả năng điều hòa hoạt động enzyme do khả năng liên kết với
nhóm amin trong phân tử protein, làm thay đổi cấu hình không gian của
enzyme do đó tạo hiệu ứng điều hòa dị lập thể.
- Flavonoid có tính kháng khuẩn, kháng virut, tăng khả năng đề kháng của cơ
thể do kích thích lympho bào, tăng sản xuất interferon, ức chế hiện tựơng
thoát bọng (digramilation).
- Flavonoid có hoạt tính của vitamin pp, làm tăng tính bền và đàn hồi của
thành mạch, giảm sức sống của mao mạch.
- Flavonoid có tác dụng chống ung thư do kìm hãm các enzyme oxy hóa
khử, quá trình đường phân và hô hấp, kìm hãm phân bào, phá vỡ cân
bằng trong quá trình trao đổi chất của tế bào ung thư.
- Tác dụng giảm BP và lipid máu

- Tác dụng hạ glucose huyết
1.1.1.2. Tannin thực vật
Tannin (tannin , tannoid) là một chất làm se, có mặt trong cấu trúc tế
bào thực vật. chúng có thể là một dạng polyphenolic đóng vai trò là hợp chất
liên kết và kết tủa protein cũng như các hợp chất hữu cơ khác nhau bao gồm
cả axit amin và alkaloids.
Các hợp chất tannin được phân phối rộng rãi ở nhiều loài thực vật.
Chúng đóng một vai trò quan trọng trong bảo vệ thực vật chống lại sự ăn thịt.
Đồng thời góp phần quy định tăng trưởng thực vật. Tương tự như vậy, sự phá
hủy hoặc sửa đổi của các tannin với thời gian đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình chín của trái cây.


Tannin được tìm thấy ở các loài trong thế giới thực vật. Tannin được
tìm thấy trong lá, chồi, hạt, rễ, và các mô gốc. Trong tế bào gốc tannin
thường được tìm thấy trong các giai đoạn tăng trưởng của cây, chẳng hạn như
phloem và xylem thứ cấp và lớp giữa vỏ và lớp biểu bì. Tannin có thể giúp
điều chỉnh sự phát triển của các mô.
Các polyphenol có nhiều nhất là tannin cô đặc , được tìm thấy trong
hầu như tất cả các cơ quan thực vật, chiếm 50% trọng lượng khô

của

lá.Tannin có trọng lượng phân tử khác nhau, từ 500 đến hơn 3.000 ( axit
galic este ) và lên đến 20.000 (proanthocyanidins). Tannin là không tương
thích với chất kiềm , gelatin , kim loại nặng, sắt , nước chanh , muối kim loại,
chất oxy hóa mạnh và sulfat kẽm.

Cơ sở Đơn
vị:

Gallic axit

Flavone

Phloroglucinol

Các đơn vị cấu thành chính của tanin
1.1.1.3. Hợp chất coumarin
Coumarin là chất của α-purone có cấu trúc C6 - C3 dị vòng chứa oxy.
Coumarin kết tinh không màu hoặc màu vàng nhạt, vị đắng, cay, có mùi thơm
[30]. Tính chất hóa học đặc trưng là dễ dàng kết hợp với đường glucose tạo
thành glycosid dễ tan trong nước.


Coumarin
Coumarin sử dụng trong đời sống hằng ngày như làm nước hoa, hương
liệu, làm chất chống đông máu và chất diệt loài nhặm nhấm. Trong y học dẫn
xuất của coumarin có tác dụng chống co thắt, giãn nở động mạch vành, làm
bền và bảo vệ thành mạch, ngăn cản đột quỵ. Một số coumarin khác có tác
dụng kháng khuẩn, kháng nấm, kháng khối u, trừ giun sán và giảm đau.
1.1.2. Alkaloid
Alkaloid là hợp chất chứa nitơ, đa số có nhân dị vòng và có tính kiềm,
thường gặp ở thực vật và động vật. Đa số các alkaloid thành phần chứa oxy ở
thể rắn (cafein), không có oxy thường ở thể lỏng dễ bay hơi

(nicotin).

Alkaloid thường không có màu, không mùi và vị đắng. Một số alkaloid có
màu vàng như berberin, palmitin. Các alkaloid ở dạng base thường không tan
trong nước [40].


N

O

N

N

O

N
H 3C

HO

CH 3

N
O

C affein

CH 3

H
HO

M o r p h in
e


NH

N

Nicotin

CH3


Alkaloid có tính kiềm yếu, do các mạch cacbon chứa nitơ quyết định.
Chúng phản ứng với một số thuốc thử đặc trưng như: Bouchardat (kết tủa nâu
sẫm), Vans-Mayer (kết tủa trắng vàng) hay Dragendroff (cam). Có khoảng
20% loài thực vật có hoa có khả năng sinh alkaloid. Trong y học nhiều thuốc
chữa bệnh có thành phần alkaloid như thuốc gây kích thích hoặc ức chế hệ
thần kinh trung ương, thuốc điều hòa huyết áp, chữa rối loạn nhịp tim…. Một
số nghiên cứu gần đây cho thấy các alkaloid chiết từ thực vật cũng có tác
dụng hạ glucose huyết như: Berberin (Tinosporacordifolia, Coptis sinensis),
Casuarine 6-O-α- glucoside (Syzygium malaccense).
1.1.3. Steroid
Steroid là một loại hợp chất hữu cơ có chứa một sự sắp xếp đặc trưng của
bốn vòng cycloalkane được nối với nhau. Ví dụ về các steroid bao gồm các
chất béo ăn cholesterol, hormon sinh dục estradiol, testosterone, và thuốc
chống viêm dexamethasone.
Lõi của steroid bao gồm 20 nguyên tử cacbon liên kết với nhau mang
hình thức của bốn vòng hợp nhất: ba vòng cyclohexane (được xem như là
vòng A, B, và C) và một vòng cyclopentane (vòng D). Các steroid khác nhau
đối với từng nhóm chức năng gắn liền với cốt lõi bốn vòng và oxi hóa của các
vòng.
Steroid là các hợp chất béo hữu cơ hòa tan có nguồn gốc tự nhiên hoặc

tổng hợp, có công thức từ 17 nguyên tử cacbon sắp xếp thành 4 vòng và bao
gồm cả các sterol và axit mật, thượng thận, và kích thích tố giới tính. Một số
steroid có nguồn gốc thiên nhiên như: hợp chất digitalis và các tiền chất của
một số loại vitamin nhất định. Steroid rất đa dạng và phong phú, bao gồm các
hình thức của một số loại vitamin D, digitalis, sterol (ví dụ: cholesterol) và
các axit mật. Các sterol là các dạng đặc biệt của các steroid, với một
nhóm hydroxyl tại vị trí 3 và một khung lấy từ cholestane. Hàng trăm steroid


riêng biệt được tìm thấy ở thực vật, động vật và nấm. Tất cả các steroid được
sản xuất ở các tế bào từ các sterol lanosterol (động vật và nấm) hoặc
từ cycloartenol (thực vật). Cả lanosterol và cycloartenol lấy từ cyclization
của triterpene squalene.

1.1.4. Terpen thực vật
Terpen là nhóm hydrocacbon thực vật lớn và đa dạng nhất ,được hình
thành từ quá trình polymer hóa các tiểu đơn vị isopren 5C (C5H8) ,có công
thức cấu tạo chung là (C5H8)n .Trong thực vật terpen được tổng hợp thông qua
con đường trao đổi chất acetate)/mevalonate hoặc con đường glyceraldehydes
3-phosphate/pyruvate. Hầu hết các terpen đều thuộc nhóm hydrocarbon, tuy
nhiên chúng có thể bị khử hoặc bị oxy hóa để hình thành các hợp chất
terpenoid khác nhau như alcohol, ketone, acid và aldehyd.
1.2. Bệnh béo phì (Obesity)
Bệnh BP (obesity) được tổ chức y tế thế giới WHO định nghĩa là: tình
trạng tích lỹ mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn
thân tới mức ảnh hưởng tới sức khỏe. Tổ chức này dùng chỉ số khối cơ thể
BMI (Body Mass Index) để đánh giá tình trạng dư thừa hay thiếu hụt mỡ của
mỗi người.



Chỉ số khối cơ thể được tính theo công thức sau:
BMI =

W

H2

Trong đó :

W:
H:

Khối lượng (kg).
Chiều cao (m).

Bảng 1.1. Phân loại BMI của người trưởng thành châu Âu và châu Á [3]
Mức độ thể trọng

Người trưởng thành châu Âu

Người trưởng thành châu Á

Nhẹ cân

<18.5

< 18.5

Bình thường


18.5 - 24.9

18.5 - 22.9

Quá cân

≥ 25 - 29.9

≥ 23

BP độ 1

30 - 34.9

>23 - 24.9

BP độ 2

35 - 39.9

25 - 29.9

BP độ 3

≥ 40

≥ 30

1.2.1. Thực trạng béo phì trên thế giới và Việt Nam.
* Trên thế giới:

Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hiện nay số người BP đã lên tới 1.7
tỉ người [3], không chỉ gặp nhiều ở các quốc gia phát triển mà còn gặp ở các
quốc gia đang phát triển. Mỹ là nước có số dân mắc bệnh cao nhất thế giới,
khoảng 60 triệu người (chiếm 30% dân số ), tăng gấp 3 lần so với điều tra
năm 1991. Ở châu Âu, Anh là quốc gia đứng đầu bảng với 23% dân số. Theo
số liệu 2010, khoảng 171 triệu trẻ em trên thế giới bị còi do thiếu ăn, chế độ
thiếu vitamin và khoáng chất, chăm sóc trẻ không đầy đủ và bệnh tật. Tại
châu Á tỉ lệ thừa cân BP ở một số nước như: Thái Lan 3.5%, Philipin 4.27%,
Malaysia 3.01%, Nhật 3%, Trung Quốc 2%, Hồng kông 3%.
* Ở Việt Nam:
Tại Việt Nam, theo tiêu chuẩn cho người châu Á, số người thừa cân BP
cũng tăng theo thời gian. Năm 1991 theo điều tra của Lê Huy Liệu [17] và


cộng sự thì tỉ lệ thừa cân mắc bệnh BP nói chung tại Hà Nội là 1.1%. Đến
năm 2000 con số này đã là 2.62% tăng gần 2.5 lần trong vòng 10 năm [điều
tra của Lê Văn Hải) [17].
Năm 2007, Viện dinh dưỡng Quốc gia điều tra trên đối tượng người
trưởng thành 25-64 tuổi cho thấy tỉ lệ thừa cân BP là 16.8% và còn có xu
hướng tăng lên. Theo Viện trưởng TS. Nguyễn Công Khẩn thì tỉ lệ này ở
thành thị lớn hơn nông thôn, ở nữ giới cao hơn nam giới. Trẻ em Việt Nam
cũng có 16.3% mắc thừa cân BP [24]. Hà Nội có 4.9% trẻ 4-6 tuổi mắc bệnh,
Thành Phố Hồ Chí Minh 6% trẻ dưới 5 tuổi và 22.7% học sinh tiểu học cũng
mắc vào tình trạng này. Với những hiểu biết hiện nay, thừa cân, BP được coi
là những đối tượng “nghiễm nhiên” tiến tới ĐTĐ type 2, đặc biệt với những
người có chỉ số BMI cao lại có vòng eo lớn - béo trung tâm [13]. Trước tình
hình đó bộ y tế đã ký quyết định thành lập “ Trung tâm phục hồi dinh dưỡng
và kiểm soát BP” trực thuộc viện dinh dưỡng, chính thức tuyên chiến với
bệnh BP.
1.2.2. Tác hại của bệnh béo phì

Tình trạng thừa cân và BP đã và đang trở thành một nguy cơ của sức
khỏe. Tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, tình trạng này đang
tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây nhất là ở trẻ em bên cạnh một
số lượng không nhỏ các bệnh nhân bị suy dinh dưỡng.
Thừa cân BP là nguyên nhân làm gia tăng bệnh lý mạn tính nguy hiểm
như tim mạch, tăng huyết áp, ĐTĐ... trong đó hệ xương khớp là một trong
những căn bệnh chịu tác hại nghiêm trọng của tình trạng này [14], [18], [23], [41].
1.2.3. Nguyên nhân gây béo phì
Béo phì do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể kể đến những nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Thói quen ăn uống


- Thói quen vận động
- Yếu tố “di truyền”
1.2.4. Giải pháp và điều trị bệnh béo phì
Để phòng bệnh BP có hiệu quả, mỗi cá nhân cần nâng cao nhận thức
về dinh dưỡng và hoạt động thể lực. Trên phạm vi xã hội, việc phòng bệnh
cần tập trung vào nhóm có nguy cơ mắc bệnh này [9], [23], [25].
Điều trị thừa cân BP dựa trên nguyên tắc kết hợp giữa chế độ ăn uống,
luyện tập và dùng thuốc. Trong đó thuốc và phẫu thuận chỉ dùng trong trường
hợp bắt buộc.
1.2.5. Rối loạn trao đổi lipid
1.2.5.1. Khái niệm
Rối loạn lipid máu là tình trạng tăng cholesterol, triglycerides (TGs)
huyết tương hoặc cả hai, hoặc giảm nồng độ lipoprotein phân tử lượng cao,
tăng nồng độ lipoprotein phân tử lượng thấp làm gia tăng quá trình xơ vỡ
động mạch. Nguyên nhân có thể tiên phát (do di truyền) hoặc thứ phát. Chẩn
đoán bằng xét nghiệm cholesterol, triglycerides và các thành phần lipoprotein
máu. Điều trị bằng thay đổi chế độ ăn uống, hoạt động thể lực và dùng thuốc

hạ lipid máu.
1.2.5.2. Phân loại
Rối loạn lipid máu phân loại kinh điển dựa trên đặc điểm tăng nồng độ
lipid và lipoprotein máu. Trên thực hành lâm sàng, phân loại rối loạn lipid
máu dựa trên những rối loạn tiên phát hoặc thứ phát và tính chất tăng lipid
máu, ví dụ tăng cholesterol đơn thuần, tăng TGs đơn độc hay tăng cả
cholesterol và TGs (tăng lipid máu hỗn hợp). Phân loại này có bất cập là
không tính đến các bất thường của lipoprotein (ví dụ giảm HDL hoặc tăng
LDL) mà đây là những rối loạn có thể gây ra các biến cố tim mạch mặc dù
cholesterol và TGs máu bình thường [19], [26], [27], [36].


1.2.5.3. Nguyên nhân và triệu trứng rối loạn lipid
- Nguyên nhân gây rối loạn lipid máu có thể là nguyên phát (do các bệnh về gen)
hoặc thứ phát (do thói quen ăn uống, sinh hoạt hoặc một số bệnh lý).
- Rối loạn lipid máu thường không có triệu chứng đặc trưng. Hầu hết là những
triệu chứng “mượn” của các cơ quan khác vì xơ vỡ động mạch là một bệnh
toàn thân. Bệnh nhân có thể biểu hiện bằng các triệu chứng của bệnh tim mạch
như bệnh mạch vành (BMV), bệnh mạch máu ngoại biên, bệnh động mạch
cảnh. Nồng độ TGs cao (> 1000 mg/dL [> 11.3 mmol/L]) có thể gây viêm
tụy cấp. LDL-c có thể gây ra u mỡ vàng bám ở mi mắt; giác mạc, gân
Achilles, khuỷu tay, khớp gối. Rối loạn betalipoprotein có thể có u mỡ vàng ở
lòng bàn tay hoặc thân người. Triglycerides máu tăng quá cao (> 2000 mg/dL
[> 22.6 mmol/L]) còn có thể gây ra những mảng trắng như kem ở động, tĩnh
mạch võng mạc. Ở mức độ cực kỳ cao, TGs có thể làm huyết tương trắng như
sữa. Triệu chứng có thể gặp là bệnh nhân khó thở, lẫn lộn, dị cảm…[19], [26],
[27], [36].
1.2.5.4. Chẩn đoán và điều trị
- Rối loạn lipid máu được đặt ra ở những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng
hoặc biến chứng của rối loạn lipid máu (ví dụ bệnh xơ vỡ động mạch). Rối

loạn lipid tiên phát được nghi ngờ ở những bệnh nhân có dấu hiệu lâm
sàng của rối loạn lipid máu, bệnh xơ vỡ động mạch xuất hiện sớm (trước
60tuổi), tiền sử gia đình có người mắc bệnh động mạch hoặc cholesterol máu
> 240 mg/dL (> 6.2mmol/L). Chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm các thành
phần lipid máu: cholesterol toàn phần (TC), HDL-cholesterol (HDL-c) và
LDL-cholesterol (LDL-c).
1.3. Bệnh đái tháo đường.
1.3.1. Khái niệm và phân loại.
1.3.1.1. Khái niệm.
Theo WHO, ĐTĐ là một hội chứng rối loạn chuyển hóa cacbohydrat có
đặc tính biểu hiện bằng tăng glucose máu do hậu quả của việc thiếu hoặc mất


hoàn toàn insulin hoặc do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết và hoạt
động của insulin.
ĐTĐ là một nhóm các bệnh chuyển hóa có đặc điểm là tăng glucose
trong máu, hậu quả của sự thiếu hụt bài tiết insulin, khiếm khuyết trong hoạt
động của insulin hoặc cả hai. Tăng glucose máu mạn tính thường kết hợp với
sự hủy hoại, sự tăng rối loạn chức năng và sự suy yếu chức năng của nhiều cơ
quan đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu [11,26].
ĐTĐ trong giai đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu
ban đêm và do đó làm khát nước. Bệnh tiểu đường là một trong những
nguyên nhân chính của nhiều bệnh hiểm nghèo, điển hình là bệnh tim mạch
vành, tai biến mạch máu não, mù mắt, suy thận, liệt dương, hoại thư, cắt cụt
chi[24,25]....
WHO đã nhận định rằng: “Thế kỷ XXI là thế kỷ của các bệnh nội tiết
và rối loạn chuyển hóa mà điển hình là bệnh ĐTĐ. Những gì mà đại dịch
HIV/AIDS đã hoành hành 20 năm cuối thế kỷ XX, thì đó sẽ là ĐTĐ trong 20
năm đầu thế kỷ XXI”.
1.3.1.2. Phân loại

Dựa vào những hiểu biết về nguyên nhân phát sinh bệnh, ủy ban
chuyên gia về chuẩn đoán và phân loại ĐTĐ của WHO chia ĐTĐ thành các
loại như sau:
ĐTĐ type 1: Thường xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên, khởi phát ở
các cá thể có tính mẫn cảm về di truyền với bệnh. Nguyên nhân chính của
bệnh là tế bào β đảo tụy Langerhans bị phân hủy dẫn đến mất khả năng sản
xuất insulin, một hormone điều hòa lượng đường trong máu. Quá trình hủy
hoại tế bào β do cơ chế tự miễn. Người ta đã biết đến 18 vùng gen liên quan
đến type này và được ký hiệu từ IDDM1 đến IDDM18. Các gen này chủ yếu


liên quan đến những yếu tố kháng nguyên bạch cầu người HLA hoặc là gen
mã hóa insulin.
ĐTĐ type 2: Chiếm 80% - 90% bệnh nhân, có tính quy tụ gia đình và
hay gặp ở những người trên 30 tuổi. Hai yếu tố chính đóng vai trò quan trọng
trong cơ chế sinh ĐTĐ type 2 là khiếm khiết chức năng tế bào β tuyến tụy và
tình trạng kháng insulin, bất thường về số lượng receptor insulin hoặc ái lực
gắn hormone của insulin và cũng có thể do acid béo tự do tăng cao gián tiếp
làm ảnh hưởng quá trình truyền tin nội bào của insulin ở tế bào đích. Bởi vậy,
bệnh BP là một trong những nguyên nhân môi trường được đề cập đến nhiều
nhất vì chính BP làm gia tăng tình trạng kháng insulin.
1.3.2. Thực trạng đái tháo đường trên thế giới và Việt Nam
* Trên thế giới:
Theo Tổ chức Y tế thế giới: Năm 1995 cả thế giới có 135 triệu người
mắc bệnh ĐTĐ chiếm 4% dân số thế giới, đến năm 2010 có 221 triệu người
và dự báo đến năm 2025 là 330 triệu người mắc căn bệnh này, chiếm 6.0%.
Tỷ lệ bệnh tăng lên ở các nước phát triển là 42%, nhưng ở các nước đang phát
triển (như Việt Nam) sẽ là 170%.
Như vậy, ĐTĐ là bệnh không lây nhiễm có tốc độ phát triển nhanh
chóng nhất trên thế giới chủ yếu là các nước đang phát triển. Nó đang là gánh

nặng thực sự cho sự phát triển kinh tế, xã hội và sức khỏe của con người toàn
thế giới trong thế kỷ 21[25].
* Ở Việt Nam:
Tại Việt Nam, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế xã hội, tỷ lệ mắc
bệnh ĐTĐ trong 10 năm qua có xu hướng gia tăng[4]. Tỷ lệ người mắc bệnh
đái tháo đường năm 2002 chiếm 2.7%, đến 2008 đã tăng lên 5.7% dân số.
Nghiên cứu của bệnh viện Nội tiết TW trên phạm vi toàn quốc năm
2001 thì tỷ lệ ĐTĐ tại 4 tỉnh TP lớn của Việt Nam (Hà Nội, Hải Phòng, Đà


Nẵng, TP Hồ Chí Minh) trong lứa tuổi 30-64 là 4.0%, tỷ lệ rối loạn dung nạp
Glucose là 5.1%, riêng quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) lên tới 7%. Tỷ lệ đối tượng
điều tra có các yếu tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ là 38.5%. Cũng qua số liệu điều
tra, số bệnh nhân ĐTĐ không được chẩn đoán là 44%. Phần lớn người bệnh
phát hiện và điều trị muộn. Vì vậy, mỗi năm có trên 70% bệnh nhân không
được phát hiện và điều trị kịp thời.
Ở nước ta, đối tượng mắc bệnh ĐTĐ thường ở độ tuổi từ 30-65, tuy
nhiên hiện nay có những bệnh nhân ĐTĐ mới chỉ 9-10 tuổi, điều này phản
ánh sự trẻ hóa về bệnh này. Bên cạnh đó, biến chứng tim mạch do bệnh ĐTĐ
luôn là biến chứng phổ biến và là nguyên nhân gây đột quỵ và tử vong hàng
đầu ở người bệnh ĐTĐ. Vì thế, ĐTĐ không chỉ là mối quan tâm của ngành y
tế mà còn thu hút cả sự chú ý của các nhà quản lý xã hội.
1.3.3. Phân loại và cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ
Năm 1997, WHO đã đề nghị phân loại ĐTĐ mới dựa trên những tiến
bộ khoa học trong những năm gần đây. Phân loại này dựa vào hiểu biết về
nguyên nhân sinh bệnh:
a) Đái tháo đường type 1 (ĐTĐ phụ thuộc insulin)
Đái tháo đường type 1 là tình trạng tăng đường huyết mãn tính do hậu
quả của tình trạng thiếu hụt insulin tuyệt đối hoặc tương đối kèm theo các rối
loạn chuyển hóa protein, lipid. Các rối loạn này có thể đưa đến các biến

chứng cấp tính và mãn tính.
+ Cơ chế bệnh sinh:
Do yếu tố di truyền kém sản xuất insulin, phát bệnh tự nhiên, ít phụ
thuộc vào điều kiện môi trường. Bệnh gặp ở 0.2-0.5 % số người trong quần
thể và chiếm 5-10% số người mắc bệnh tiểu đường.
Các giai đoạn trong ĐTĐ type 1[11]:
- Giai đoạn 1: Bản chất di truyền–nhạy cảm gene


- Giai đoạn 2: Khởi phát quá trình tự miễn
- Giai đoạn 3: Phát triển một loạt các kháng thể
- Giai đoạn 4: Tổn thương chức năng tế bào β đảo tụy
- Giai đoạn 5: Đái tháo đường lâm sàng, phá hủy hoàn toàn hoặc gần như
hoàn toàn tế bào β đảo tụy. Biểu hiện lâm sàng là ĐTĐ phụ thuộc insulin có
kèm biến chứng.
+ Đặc điểm lâm sàng:
Bệnh nhân ĐTĐ type 1 có đặc điểm lâm sàng phức tạp. Thiếu hụt
insulin tuyệt đối làm tăng đường huyết và axit béo quá mức dẫn tới tăng áp
lực thẩm thấu. Bệnh nhân thường đi tiểu nhiều, khát nhiều, sụt cân, mờ mắt,
mệt mỏi…Bệnh nhân ĐTĐ type1 bắt buộc phải điều trị bằng insulin.
b) Đái tháo đường type 2 (ĐTĐ không phụ thuộc insulin)
Đái tháo đường type 2 là tình trạng tăng đường huyết do hậu quả của
kháng insulin ở cơ quan đích kèm theo suy giảm chức năng tế bào β hoặc do
suy giảm chức năng tế bào β kèm theo kháng insulin của cơ quan đích. Đây là
đạng ĐTĐ thường gặp nhất. Thường gặp ở bệnh nhân lớn tuổi.
+ Cơ chế bệnh sinh:
Sinh bệnh học ĐTĐ type 2 diễn biến qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Nồng độ glucose trong máu vẫn ở mức bình thường, nhưng
có hiện tượng kháng insulin vì mức insulin tăng cao hơn mức bình
thường trong máu.

- Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng nặng dần và xuất hiện
tăng glucose huyết sau bữa ăn.
- Giai đoạn 3: Sự kháng insulin không thay đổi, nhưng bài tiết insulin suy
giảm và gây tăng glucose huyết lúc đói. Bệnh ĐTĐ biểu hiện qua bên
ngoài [11].


Một số dạng DTĐ khác:
+ Đái tháo đường thai kỳ:
Đây là dạng đái tháo đường xảy ra ở một số phụ nữ mang thai và sẽ
biến mất sau khi sinh. Có thể gây ra các biến chứng cho mẹ và con trong quá
trình mang thai. Phụ nữ bị ĐTĐ thai kỳ có nhiều khả năng phát triển thành
bệnh đái tháo đường type 2 sau này.
1.3.4. Tác hại và biến chứng
ĐTĐ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và khả năng làm việc của người
lao động, nhưng hơn cả là nguy cơ biến chứng của bệnh nhân thường rất cao [4].
Biến chứng mắt như: bệnh lý võng mạc (27.8%), đục thủy tinh thể
(6.1%) tăng sinh gây mù lòa (1.1%).... Bệnh về võng mạc tăng dần theo thời
gian phát hiện bệnh.
Biến chứng thận như: microalbumin niệu (11.6%), macroalbumin (3%),
suy thận từ độ 1 đến độ 4 (3.5%) …
Biến chứng thần kinh ngoại vi: giảm hoặc mất phản xạ gân xương hoặc
cảm giác rung …
Tổn thương bàn chân: tùy từng mức độ như phỏng rộp, biến dạng, loét,
hoại thư, cắt cụt, …
Biến chứng mạch máu lớn: mạch vành có tới (38%), đột quỵ (1.2%),
tăng huyết áp (27.6%) …
1.3.5. Một số thuốc tổng hợp điều trị bệnh ĐTĐ
Dựa vào tác dụng và cơ chế tác dụng, các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ
được chia thành các nhóm chính:

- Các thuốc giảm đường huyết
- Insulin
- Glucosidase Inhibitors
- Thiazolidinediones
- Tainsulin


1.3.6. Đái tháo đường với y học cổ truyền (YHCT)
Theo Đông Y, bệnh ĐTĐ thuộc phạm vi chứng tiêu khát, với ba triệu
chứng chủ yếu là ăn nhiều, uống nhiều và tiểu nhiều. Do ăn nhiều các chất
cay, béo ngọt làm mất cân bằng âm dương trong cơ thể, tạo thành hỏa nhiệt,
uất nhiệt, làm phần âm của phủ tạng như âm, vị thận bị hao tổn. Hỏa nhiệt
làm phế hư gây chứng tiêu khát, vị âm gây chứng gầy đói, thận âm hư gây
tiểu nhiều và tiểu ra đường. Xuất phát từ quan niệm trên, nên phương pháp
điều trị chủ yếu là dưỡng âm, thanh nhiệt sinh tân dịch làm cơ sở để lập lại
cân bằng âm dương trong cơ thể [2], [3], [4], [5].
Việt Nam là nước có nguồn dược liệu rất phong phú. Bên cạnh chế độ ăn
uống và tập luyện hợp lý thì việc sử dụng thảo mộc trong điều trị bệnh ĐTĐ từ
lâu đã được biết đến với nhiều tác dụng tích cực. Các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ
của Đông Y chủ yếu là các thuốc có nguồn gốc từ dược liệu. Một số thảo mộc
rất sẵn trong nước có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh ĐTĐ [4], [5] như: Bầu đắng,
tỏi, nghệ, quế, hành tây, bí đao, mướp đắng, khế, rau muống…
1.4. Mối quan hệ giữa béo phì và đái tháo đường
BP và ĐTĐ là hai bệnh không truyền nhiễm nguy hiểm nhất của thế kỉ
21. Hai căn bệnh này có mối liên quan chặt chẽ với nhau thể hiện ở chỗ tỉ lệ
người BP luôn tăng tương đương với số bệnh nhân bị ĐTĐ. Một cuộc khảo sát
của Mỹ gần đây đã chỉ ra rằng có tới 58% số người bị ĐTĐ type 2 được quy
cho là do BP. BP liên quan tới ĐTĐ type 2 thông qua sự đề kháng insulin [20].
Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy acid béo tự do có vai trò trong
bệnh sinh ĐTĐ type 2. Phần lớn người BP có nồng độ acid béo trong huyết

tương tăng cao. Sự tăng này ức chế quá trình hấp thu glucose ngoại vi dưới
tác dụng của insulin, ức chế sử dụng glucose.
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa BP và bệnh ĐTĐ
type 2 bao gồm: chỉ số khối cơ thể, thời gian BP, chế độ dinh dưỡng, sự vận


động thân thể. Một thống kê đã chỉ rằng những người có chỉ số khối cơ thể
2

lớn hơn 30kg/m trong 10 năm có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ type 2 cao gấp hai
lần người bị BP dưới 5 năm và nếu trọng lượng cơ thể tăng một kilogram thì
rủi ro về bệnh ĐTĐ type 2 tăng 4.5% [37]. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho
thấy acid béo tự do có vai trò trong bệnh sinh ĐTĐ type 2. Phần lớn người BP
có nồng độ acid béo trong huyết tương tăng cao. Sự tăng này ức chế quá trình
hấp thu glucose ngoại vi dưới tác dụng của insulin, ức chế sử dụng glucose
của toàn cơ thể, ức chế oxy hóa glucose ở cơ.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã thấy rằng thừa cân và BP có một mối
liên quan chặt chẽ đến tính kháng insulin và bệnh ĐTĐ type 2 và điều đó
cũng không loại trừ ở các bệnh nhân ĐTĐ Việt Nam. ĐTĐ đặc trưng bởi sự
rối loạn chuyển hóa glucid, sự rối loạn này ảnh hưởng đến môi trường nội
môi do đó kéo theo hoặc làm quá trình rối loạn chuyển hóa lipit ở mỗi loại
ĐTĐ mang những đặc trưng riêng. Đặc trưng chung của rối loạn chuyển hóa
lipit trong ĐTĐ là sự tăng triglyceride, giảm HDL-c và LDL-c vẫn nằm trong
giới hạn bình thường. Tuy nhiên ở ĐTĐ type1 rối loạn tăng triglyceride sẽ
mất đi khiểm soát được glucose máu khác với type2, rối loạn này có thể vẫn
kéo dài mặc dù có sự điều trị giảm glucose máu thích hợp. LDL-c của type2
cũng có thể tăng nhẹ và xuất hiện nhiều LDL-c với kích thước nhỏ và nặng
hơn khi việc kiểm soát glucose kém. Đây chính là yếu tố làm tăng nguy cơ
bệnh xơ vỡ động mạch [18].
1.5. Phương pháp gây đái tháo đường thực nghiệm STZ Streptozotocin

(STZ: 2-deoxy -2 (3-mety-3 nitrosoureido)-D-glucopyranose)
là chất có hoạt tính ung thư được chiết xuất từ nấm Stretomycer achromogens.
Khả năng gây ĐTĐ của STZ đã được phát hiện vào năm 1963. Kể từ đó STZ
được sử dụng rộng rãi trong mô hình động vật ĐTĐ type 1 và type 2 phục vụ
trong các nghiên cứu về thuốc [10].


Streptozotocin
Tùy vào liều lượng STZ và cách thức tiến hành người ta có thể gây
ĐTĐ type 1 hay type2.
ĐTĐ type1: với chuột cống trưởng thành, tiêm liều duy nhất từ 4060mg/kg thể trọng.
ĐTĐ type 2: với chuột cống, tiêm STZ liều 100mg/kg thể trọng vào
ngày đầu tiên sau khi sinh. Với chuột nhắt có thể nuôi với chế độ dinh dưỡng
giàu lượng mỡ sau đó tiêm STZ với liều 50-110mg/kg thể trọng cơ thể.
STZ được nhận biết và xâm nhập vào tế bào β qua kênh vận chuyển
glucose GLUT2. Hoạt động của nó trong tế bào làm tổn thương và alkyl hóa
ADN và cuối cùng dẫn tới hoại tư tế bào. Hoạt tính alkyl hóa của STZ do hoạt
6

động của nhóm nitrosourea của nó, đặc biệt là ở vị trí 0 cuả guanine.
1.6. Vài nét về cây rau muống (Ipomea aquatica Forssk.)
1.6.1. Giới thiệu
Rau muống (Ipomoea aquatic) là một loài thực vật nhiệt đới bán thủy
sinh thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae), là loại rau ăn lá. Phân bố tự nhiên
chính xác của loài này hiện chưa rõ do được trồng phổ biến khắp các vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới. Tại Việt Nam, nó là một loại rau rất
phổ thông, và các món ăn từ rau muống rất được ưa chuộng, thậm chí
"nghiện".



Cây mọc bò, ở mặt nước hoặc trên cạn. Thân rỗng, dày, có rễ mắt,
không lông. Lá hình ba cạnh, đầu nhọn, đôi khi hẹp và dài. Hoa to, có màu
trắng hay hồng tím, ống hoa tím nhạt, mọc từng 1-2 hoa trên một cuống. Quả
nang tròn, đường kính 7–9 mm, chứa 4 hạt có lông màu hung, đường kính
mỗi hạt khoảng 4 mm [6], [7], [8], [11], [12].
1.6.2. Phân loại và mô tả
* Tùy theo điều kiện trồng trọt, có thể phân ra các giống:
+ Rau muống ruộng có hai giống trắng và đỏ: rau muống trắng thường
được trồng cạn, trên luống đất, cần không nhiều nước, thân thường trắng
xanh, nhỏ, kém chịu ngập; rau muống đỏ trồng được cả ở trên cạn và ở nước
ngập, ưa nhiệt độ 20-30 °C, giống này thân to, cuống thường có màu đỏ,
mọng.
+ Rau muống phao: Cấy xuống bùn, cho rau nổi trên mặt nước, cắt ăn
quanh năm.
+ Rau muống bè: Kết thành bè thả trên mặt nước ao, hồ, kênh, mương
quanh năm, những tháng rét năng suất kém.
+Rau muống thúng: Trồng vào thúng có đất và phân, đặt lên giá cắm
ở ao sâu để thúng nổi lên khoảng 1/4 chiều cao, cho rau bò kín mặt ao.
Các giống rau muống nước thường luộc ngon hơn xào hay ăn sống,
giống trồng cạn thường thích hợp với xào hoặc có thể ăn sống.
+ Mô tả thực vật:
Thân Cỏ bò trên đất ẩm hay mặt nước, có thân dài ở trường hợp rau
muống nước có thể đạt đến 2 - 3 m hay hơn, có rễ bất định ở mắt, lóng bộng,
nên có thể nổi trên mặt nước, không lông, mủ trắng [6].
Lá hình tam giác hay đầu tên, không lông, dài từ 5-15cm; rộng từ 2-8
cm, có cuống dài. Phát hoa ở nách lá, mang ít hoa thường trắng với trung tâm


hơi tím tím, hoa có dạng cái kèn loa,đường kính từ 3-5 cm, lá đài bằng nhau,
tiểu nhụy 5 không bằng nhau gắn trên ống vành.

Nang tròn to khoảng 8 - 9 mm, hột 4 có lông hoe.
1.6.3. Thành phần hóa học
Trong 100g chất khô của cây rau muống có chứa 20-28% protein, 1014% chất xơ, 1-1.3% chất khoáng (Fe, Ca, vitamin).
Ngoài ra lá non hay ngọn rau muống có nhiều chất dinh dưỡng như
acid amin, vitamin B,C….


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Mẫu thực vật
+ Cây rau muống ( Ipomoea aquatica Forsk.)
+ Bộ phận sử dụng: thân, lá, ngọn của cây rau muống.
+ Địa điểm thu mẫu : Phương Khoan - Sông Lô - Vĩnh Phúc. Sấy khô ở
º

60ºC sau đó được ngâm kiệt trong Ethanol 90 thu dịch cao phục vụ cho các
bước nghiên cứu.

Hình 2.1. cây rau muống (Ipomoea aquatica Forsk.)
2.1.2. Mẫu động vật
Chuột bạch chủng Swiss nặng từ 18 - 20g được nuôi BP và gây ĐTĐ typ


×