Tải bản đầy đủ (.doc) (191 trang)

So sánh tuyệt cú và haiku về phương diện loại hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.32 KB, 191 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

----------------------

NGUYỄN THỊ NGUYỆT TRINH

SO SÁNH TUYỆT CÚ VÀ HAIKU
VỀ PHƯƠNG DIỆN LOẠI HÌNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

TP HỒ CHÍ MINH - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH

----------------------

NGUYỄN THỊ NGUYỆT TRINH

SO SÁNH TUYỆT CÚ VÀ HAIKU
VỀ PHƯƠNG DIỆN LOẠI HÌNH
Chuyên ngành: Văn học Trung Quốc
Mã ngành: 62.22.30.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Hồ Sĩ Hiệp


TP HỒ CHÍ MINH - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 11 năm 2017
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Nguyệt Trinh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................14
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................15
5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................16
6. Những đóng góp của luận án...........................................................16
7. Kết cấu của luận án..........................................................................17
Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH NÊN SỰ TƯƠNG
ĐỒNG – DỊ BIỆT CỦA TUYỆT CÚ VÀ HAIKU

1.1 Những tiền đề cho sự hình thành thơ tuyệt cú và haiku............19
1.1.1 Điều kiện lịch sử - tự nhiên .........................................................19
1.1.2 Nền tảng văn hóa – tư tưởng......................................................21
1.1.3 Sự phát triển tự thân của văn học...............................................24
1.2 Sự hình thành thơ tuyệt cú và haiku...........................................25
1.2.1 Sự hình thành thơ tuyệt cú..........................................................25
1.2.2 Sự hình thành thơ haiku..............................................................28
1.2.3 Hai thể loại tinh hoa thuộc loại hình thơ cổ điển
phương Đông.................................................................................................30


1.3

Quan niệm thơ ca.......................................................................35

1.3.1 Khởi từ tâm hay bản chất trữ tình của thơ ca..............................35
1.3.2 Tính chính trị và tính duy mĩ........................................................39
1.3.3 Phong cốt và mono no aware – cốt tủy của trữ tình Trung Hoa và
Nhật Bản.........................................................................................................42
Chương 2: HỨNG THÚ TỰ NHIÊN, CẢM NGHIỆM NHÂN
SINH VÀ SUY TƯ TÔN GIÁO TRONG TUYỆT CÚ VÀ HAIKU
2.1 Hứng thú tự nhiên trong tuyệt cú và haiku................................51
2.1.1 Vẻ đẹp ý cảnh ..............................................................................62
2.1.1.1 Ý cảnh tinh tế hài hòa...............................................................66
2.1.1.2 Ý cảnh tịch tĩnh không hư.........................................................68
2.1.1.3 Tráng mĩ và bi mĩ......................................................................70
2.1.2 Thiên nhiên tượng trưng..............................................................74
2.1.2.1 Thiên nhiên và bước đi bốn mùa...............................................77
2.1.2.2 Màu sắc, hương thơm và âm thanh tương ứng…………


……81

2.1.2.3 Tỷ đức và như như....................................................................86
2.2 Cảm nghiệm nhân sinh trong tuyệt cú và haiku........................92
2.2.1 Bức tranh cuộc sống trong tuyệt cú và haiku..............................92
2.2.1.1 Vấn đề thân phận và tình cảm con người................................93
2.2.1.2 Hình ảnh quá khứ và cái nhìn hoài cổ thương kim.................101
2.2.1.3 Cái lớn lao và cái bình dị.......................................................103
2.2.2 Sự thể hiện con người trong tuyệt cú và haiku...........................105
2.2.2.1 Con người vũ trụ.....................................................................105
2.2.2.2 Con người thế tục....................................................................109
2.3 Suy tư tôn giáo trong tuyệt cú và haiku....................................112
2.3.1 Dấu ấn của Thiền.......................................................................113


2.3.2 Vai trò của Đạo..........................................................................122
2.3.3 Ảnh hưởng của Nho...................................................................125
Chương 3: VẺ ĐẸP NGHỆ THUẬT THƠ TUYỆT CÚ VÀ HAIKU
3.1 “Dĩ thiểu kiến đa” – “sự tình vắn tắt” hay sự phù hợp giữa nội
dung và hình thức của tuyệt cú và haiku..................................................131
3.1.1 Sự phong phú của tuyệt cú và sự đơn thuần của haiku về
phương diện đề tài........................................................................................132
3.1.2 Lát cắt của đời sống hay là phương thức xử lý không gian.......133
3.1.3 Thơ ca của khoảnh khắc hay là năng lực làm chủ thời gian...136
3.2 Âm luật.........................................................................................138
3.2.1 Những đặc thù về mặt âm học của ngôn ngữ dân tộc................138
3.2.2 Âm số ít oi hay là sự tinh giản của thơ ca.................................141
3.2.3 Âm vận hài hòa trong tuyệt cú và sự đơn thuần đạm bạc của
haiku....................................................................................................144
3.3 Từ ngữ và kết cấu........................................................................147

3.3.1 Ý tượng giản đơn và danh từ thiện mĩ.......................................147
3.3.2 Các thủ pháp nghệ thuật……………………………………………
153
3.3.2.1 Các thủ pháp tỉnh lược...........................................................153
3.3.2.2 Các thủ pháp dựa trên sự liên tưởng......................................156
3.3.3 Kết cấu mở hay khoảng trống trong thơ....................................160
3.3.3.1 Kết cấu nghi vấn.....................................................................160
3.3.3.2 Kết cấu trùng điệp...................................................................162
KẾT LUẬN........................................................................................172
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................175
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ................................186


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Nxb: Nhà xuất bản
H.: Hà Nội
TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
Tr.: Trang


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
01 Bảng 2.1 Thống kê những hình ảnh thiên nhiên thường gặp

Trang
55

02


trong tuyệt cú
Bảng 2.2 Thống kê những hình ảnh thiên nhiên thường gặp

58

03

trong haiku
Bảng 3.1 Cấu trúc một số ý tượng giản đơn thường gặp trong

149

04

tuyệt cú
Bảng 3.2 Cấu trúc một số ý tượng giản đơn thường gặp trong

150

haiku


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuyệt cú và haiku – hai thể thơ hội tụ tinh túy vẻ đẹp thơ cổ điển
phương Đông. Nếu tuyệt cú – “hạt minh châu của thơ ca Trung Hoa” – long
lanh vẻ sáng hàm súc, dư ba đầy ý vị Đường thi thì haiku là thể thơ nhỏ xinh
như một đóa anh đào là niềm tự hào của thơ ca Nhật Bản vươn ra thế giới.

Trong khi nhiều thể thơ khác chịu sự hạn chế của lịch sử - thời đại thì tuyệt cú
và haiku có được sự năng động và sức sống mạnh mẽ với sự lan tỏa, ảnh
hưởng vượt không gian – thời gian. Mỗi thể thơ, trong một dạng thức bé nhỏ,
lại mang một khả năng biểu đạt dồi dào, là một niềm ngạc nhiên thú vị cho
người yêu thơ và các nhà nghiên cứu. Vì những lý do này, tuyệt cú và haiku
luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt, và cùng với lòng yêu không hề vơi theo
năm tháng, những công trình nghiên cứu về chúng ngày càng dày dặn thêm.
Chọn đề tài này, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu mảnh đất thơ cổ điển phương
Đông muôn đời “quen mà lạ”, đầy bí ẩn mà chứa đựng bao vẻ đẹp không nói
hết.
So với những công trình nghiên cứu đã có về tuyệt cú và haiku – chủ
yếu nghiên cứu từng thể loại độc lập, riêng rẽ - đề tài của chúng tôi đóng góp
một hướng tiếp cận khá mới. Dưới góc nhìn so sánh, tuyệt cú và haiku sẽ thể
hiện nhiều đặc điểm trên nhiều phương diện – hơn là nghiên cứu độc lập. Từ
đó đề tài góp phần làm sáng tỏ những nét đồng dị của hai thể thơ đặc sắc
trong thế giới thơ ca phương Đông.
Trong văn học trung đại Việt Nam, tuyệt cú – thường được gọi là tứ
tuyệt - cũng là một thể thơ được yêu thích và sáng tác rộng rãi, sức sống của
thể loại đã vượt qua những giới hạn không thời gian, không ngừng biến đổi và


2

tỏa sáng. Vì vậy nghiên cứu so sánh tuyệt cú (Trung Hoa) và haiku (Nhật
Bản) cũng là để hiểu rõ hơn văn học của nước nhà.
Từ lâu thơ Đường – trong đó tuyệt cú đóng vai trò quan trọng – đã
được lưu tâm trong nhà trường phổ thông. Haiku được thế giới biết đến ởViệt
Nam vẫn còn tương đối lạ lẫm, gần đây mới được đưa vào giảng dạy. Việc
dạy học hai thể thơ này đối với giáo viên luôn là một công việc hay mà khó.
Cấu trúc chương trình Ngữ văn trên cơ sở kết hợp trục lịch sử văn học và trục

thể loại theo định hướng vận dụng nguyên tắc tích hợp và mở rộng tri thức
“cửa sổ văn hóa”, thơ Đường luật (Việt Nam) – Thơ Đường (Trung Quốc) và
thơ Haiku (Nhật Bản) được đặt bên cạnh nhau. Với đề tài này, chúng tôi hy
vọng góp phần giúp dạy học tốt hơn thơ tuyệt cú và haiku nói riêng, thơ cổ
điển phương Đông nói chung trong nhà trường, khi tiếp cận văn bản, ngoài
tính chỉnh thể tác phẩm như một sinh mệnh trọn vẹn, phần nào có ý thức về
sự tương đồng loại hình, quan hệ ảnh hưởng văn học và cả sự khác biệt ở tính
cách bản sắc dân tộc.
Nghiên cứu – so sánh tuyệt cú và haiku trong bối cảnh thế giới hội nhập
ngày nay cũng là tìm hiểu thêm về hai quốc gia – hai nền văn hóa Trung Hoa
và Nhật Bản – cũng như sức sống của thơ ca qua những bờ cõi và giới hạn,
đồng vọng tiếng lòng nhân loại trong một tiếng nói chung.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Với vẻ đẹp đặc trưng của thể loại, có thể nói tuyệt cú và haiku từ lâu đã
thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Ở đây chúng tôi khảo
sát lịch sử nghiên cứu tuyệt cú và haiku chủ yếu dựa trên các mảng tư liệu
sau:
2.1 Ở mảng tài liệu tiếng Việt
Chưa đi sâu và cụ thể vào hình thức thể loại thơ, xét trên trục lịch sử và
văn hóa “đồng văn” Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, Vĩnh Sính – giáo sư


3

đại học Alberta, Canada cho rằng: “Thái độ của Việt Nam đối với Trung
Quốc: đề kháng xâm lăng quân sự và chấp nhận khuôn mẫu văn hóa” [101,
tr.19]; còn “thái độ của Nhật Bản đối với Trung Quốc: kính nể hoặc phủ nhận
văn hóa Trung Hoa” [101, tr.27]. Từ định hướng mang tính gợi ý đó, có thể
nghĩ về những mối quan hệ tương tác – song hành nghệ thuật ngôn từ thi ca
(chữ Hán – chữ Nôm – chữ Kana), hình thức thể loại (tuyệt cú – tứ tuyệt –

haiku) vai trò và sự ảnh hưởng thơ ca (Đường thi – thơ chữ Hán và thơ Nôm
Đường luật – thơ haiku)…
Tuyệt cú song hành cùng với chiều dài truyền thống văn học Việt Nam
hàng ngàn năm, vì vậy đã được biết đến từ rất lâu, còn haiku mãi đến đầu thế
kỷ XX mới được biết đến. Và cũng phải mất một khoảng thời gian khá dài để
thể thơ này trở nên gần gũi hơn với tâm thức văn hóa Việt Nam, đến cuối thế
kỷ XX những nét tương đồng giữa tuyệt cú và haiku mới được một số nhà
nghiên cứu nhận ra và bước đầu có những so sánh trên những nét cơ bản.
Nhưng sự so sánh thường diễn ra khi tác giả đi vào tìm hiểu một thể thơ. Khi
đi vào nghiên cứu cụ thể một thể thơ, các tác giả thường nhớ đến thể thơ còn
lại và thao tác so sánh được sử dụng trong trường hợp này nhằm làm sáng tỏ
một luận điểm nhất định. Ở đây xảy ra hai khuynh hướng:
- So sánh tuyệt cú với haiku nhằm làm nổi bật đặc điểm của tuyệt cú.
Tiêu biểu cho hướng đi này là các công trình nghiên cứu của Nguyễn Sĩ Đại,
Nguyễn Kim Châu… Trong luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn Một số đặc trưng
nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường (1995), đã được xuất bản thành sách,
Nguyễn Sĩ Đại nhắc đến những kiểu thơ ngắn, trong đó “Về thơ ba câu, ta
thấy có thơ hai-cư Nhật Bản nổi tiếng” [18, tr.38]. Tác giả đi đến kết luận
“Kiểu tổ chức bốn câu của thơ là phổ biến nhất […] thuộc hàng ưu việt nhất
và có tính ổn định cao” [18, tr.38] và “thơ tứ tuyệt mạnh hơn thơ hai câu, ba
câu, thơ ngũ ngôn, thất ngôn, mạnh hơn thơ tứ ngôn, tam ngôn là chỗ có dư


4

địa để cho đôi cánh của trí tưởng tượng sáng tạo bay lên, cho làn sóng xúc
cảm lan tỏa”[18, tr. 44]. Sự so sánh này nhằm chỉ ra vẻ đẹp của tuyệt cú nên ít
nhiều có tính chất phiến diện, bởi không thể đơn thuần cho rằng tuyệt cú có
nhiều “dư địa” hơn haiku. Cũng với sự liên hệ giữa các thể loại thơ ngắn,
nhưng trong luận án Tiến sĩ Ngữ văn Thơ tứ tuyệt trong Văn học Việt Nam từ

thế kỉ X đến thế kỉ XIX (2001), Nguyễn Kim Châu đã có cái nhìn tương đối
khách quan hơn khi nhận xét “Các hình thái thơ ngắn không xa lạ với thơ ca
cổ điển phương Đông” [8, tr.30] và đặt tuyệt cú trong mối liên hệ với các thể
thơ sijo, tanka, haiku. Tác giả so sánh tuyệt cú với các hình thái thơ ngắn của
văn học cổ điển Nhật Bản và đặt ra vấn đề: “Phải chăng số câu lẻ và tổng số
chữ lẻ trong các hình thái thơ ngắn phổ biến của người Nhật Bản gợi cảm giác
về những lời nói bỏ lửng, chưa trọn ý và lựa chọn giải pháp đánh dấu khoảng
dư địa của những điều không thể nói đó bằng cách cố tình không sử dụng đặc
điểm cân đối, hoàn hảo thường thấy ở những kiến trúc bài thơ có tổng số câu
chẵn và tổng số chữ chẵn?” [8, tr.40]. Như vậy, tác giả đã chỉ ra được những
điểm giống và khác nhau cơ bản của hai thể loại cùng thuộc về loại hình thơ
ca cổ điển phương Đông.
- So sánh haiku với tuyệt cú để làm nổi bật đặc điểm của haiku. Nhật
Chiêu trong Basho và thơ haiku khi nói đến tính chất hàm súc của thơ haiku
đã có điểm qua tuyệt cú: “Thơ ca Á Đông nói chung là cô đọng với các hình
thức ngắn gọn của haiku, tanka, tứ tuyệt […] Haiku tiêu biểu cho phong cách
Đông phương hơn cả, cô đọng, ý ở ngoài lời” [9, tr.53]. Các tác giả Haiku Hoa thời gian thì nhận xét: “trong khi tứ tuyệt chững chạc bốn chân cân xứng,
đường bệ thì haiku trụ vững trên ba chân chông chênh không đều nhau như là
một khiếm khuyết, nhưng lại toàn vẹn như giọt nước bé nhỏ ôm gọn cả vũ trụ
bao la” [36, tr.35].


5

Dù theo hướng đi nào thì các tác giả đều nhận ra nét chung và nổi bật
của hai thể loại thơ tuyệt cú và haiku ở chỗ nó đều là những thể thơ ngắn và
hội tụ tiêu biểu vẻ đẹp thơ cổ điển phương Đông. Nhưng so sánh không bình
đẳng thường khó đảm bảo tính khách quan và không làm rõ được đặc điểm
loại hình của hai thể thơ độc đáo này.
Dưới góc độ văn học so sánh, một số công trình nghiên cứu đã có cái

nhìn tương đối toàn diện hơn dưới nhiều hướng khác nhau:
- So sánh thể loại: Trước hết có thể kể đến bài viết “Phác thảo những
nét tương đồng và dị biệt của ba thể thơ: tuyệt cú, haiku và lục bát” của
Nguyễn Thị Bích Hải. Tác giả nhận xét rằng: “Ba thể thơ tuyệt cú, haiku và
lục bát đều là thể thơ cách luật ngắn nhất trong văn học dân tộc của Trung
Quốc, Nhật Bản và Việt Nam” [85, tr.221], từ đó chỉ ra những điểm giống
nhau và gần gũi khác, như hình thành từ văn học dân gian, là thơ trữ tình, hàm
súc cao độ, trọng tâm ý nghĩa nằm ở câu cuối, dễ làm nhưng khó cho được
hay. Nhà nghiên cứu cũng bước đầu chỉ ra sự khác nhau giữa ba thể thơ về
con đường định hình cũng như ảnh hưởng đối với thơ ca nước ngoài. Có thể
nói, trong một bài viết khá gọn gàng, tác giả đã có những nhận định ban đầu
mang tính chất gợi ý để người đọc tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về những thể thơ
độc đáo của thơ ca phương Đông.
Bài viết “Những nét tương đồng và dị biệt của thơ sijo (Hàn Quốc) và
thơ haiku (Nhật Bản) – nhìn từ đặc trưng thể loại” của Hà Văn Lưỡng cũng
cho chúng ta cái nhìn so sánh đối với các thể thơ ca cổ điển này. Trong đó tác
giả nhìn nhận sự giống nhau giữa các thể thơ cổ điển phương Đông về các
phương diện “cô đúc, ngắn gọn”, “bố cục chặt chẽ”, “trọng tâm ý nghĩa
thường nằm ở câu cuối” [57, tr.52]. Trong Tiếp cận thể loại văn học cổ Trung
Quốc, Đinh Phan Cẩm Vân cũng chỉ ra những nét gặp gỡ và khác biệt của
tuyệt cú và haiku “Thể haiku của Nhật Bản cực ngắn có tính chất khơi gợi


6

[…]. Tứ tuyệt cũng rất ngắn, với ngũ tuyệt mỗi bài thơ chỉ 20 chữ”. Tác giả
cũng chỉ ra đặc điểm loại hình của thể loại: “Haiku, tứ tuyệt hay luật thi đều là
sản phẩm của tư duy phương Đông. Từ cái hữu hình nhằm khơi gợi cái vô
hình. Cái vô hình, trừu tượng lại nhằm giải thích cái hữu hình, cụ thể. Phương
Đông không có hứng thú nói trực tiếp mà nói theo lối gián tiếp, hoặc nói một

phần, để lại dư địa cho người đọc” [100, tr.32]. Như vậy, mặc dù chưa bàn
thật sâu những điểm dị đồng của các thể loại thơ ca cổ điển phương Đông
nhưng các tác giả đã cho ta thấy những đặc điểm tiêu biểu của chúng là sự
hàm súc và khơi gợi.
- So sánh loại hình tác gia: tiêu biểu là các bài viết “Basho (1644-1694)
và Huyền Quang (1254-1334) - Sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tương hợp về
cảm thức thẩm mĩ” [37] của Lê Từ Hiển, “Vương Duy và Matsuo Basho - loại
hình thi tăng của khu vực văn hóa Phật giáo” [45] của Trần Thị Thu Hương.
Các tác giả tìm thấy vẻ đẹp của mĩ học Thiền trong thơ ca của các tác giả,
phần nào bộc lộ qua thể loại - “tứ tuyệt rất gần gũi với hai-kư về sự ngắn gọn,
tính hàm súc, đa nghĩa”, “kết cấu chân không” thể hiện qua “hình thức cực
tiểu” của tuyệt cú và haiku …
- So sánh loại hình thơ Thiền: tiêu biểu là Khảo sát một số đặc trưng
nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIX của Đoàn Thị Thu
Vân, “Ba dòng thơ tiêu biểu phương Đông: thơ Thiền Việt Nam, Đường thi
Trung Hoa và Haiku của Nhật” của Thái Tú Hạp… Nếu Thái Tú Hạp chủ yếu
chỉ ra tinh thần của ba dòng thơ này là “con người hòa nhập với thiên nhiên,
với vũ trụ nhất thể” thì Đoàn Thị Thu Vân cụ thể hơn khi triển khai so sánh
cảm thức Thiền, tính trực cảm, gợi mở, hình ảnh thiên nhiên… trong đó sự
khác nhau giữa tuyệt cú và haiku cũng đã được đề cập đến:
Thơ Thiền Lý Trần đa số là những bài tứ tuyệt Đường luật. Hình
thức này mang tính cân đối hoàn chỉnh. Có cái “ý tại ngôn ngoại”


7

nhưng bản thân nó cũng đã là đầy đủ. Còn thơ haiku với 17 âm tiết chia
làm 3 dòng dài ngắn khác nhau. Không có cái vẻ cân đối đều đặn của
sự gia công trau chuốt bởi bàn tay người như thơ Đường luật nhưng lại
mang được cái tự nhiên của sự sống. Và chính hình thức này đã tạo cho

người đọc bài thơ có cảm giác về một sự còn thiếu, như bức tranh đang
vẽ dở chừng, bài thơ còn muốn viết tiếp. Cảm giác thiếu vắng này tạo
một sức gợi vô cùng mạnh mẽ và thu hút người đọc tham gia quá trình
sáng tạo [101, tr179-180].
Tác giả đã tinh tế chỉ ra được sự khác nhau giữa tính cân đối và tính
thiếu vắng, sự trau chuốt và tính tự nhiên giữa hai thể thơ này. Tuy nhiên, bởi
vì diện so sánh của tác giả là bao quát cả loại hình thơ Thiền nên không
hướng đến tập trung so sánh hai thể loại.
Như vậy, mặc dù đã có nhiều nhà nghiên cứu nhận ra những nét tương
đồng và dị biệt giữa hai thể loại thơ ca tiêu biểu cho thơ ca Á Đông, nhưng
những so sánh chỉ dừng lại ở mức điểm qua hoặc bước đầu mà chưa tập trung
đi vào phân tích thấu đáo. Trên cơ sở những gợi ý của các công trình nghiên
cứu đi trước, chúng tôi triển khai luận án nhằm hướng đến một sự so sánh
công phu hơn hai thể loại thơ ca độc đáo này.
2.2 Ở mảng tài liệu tiếng Trung Quốc:
Văn học so sánh ở Trung Quốc có một bề dày lịch sử khá dày dặn –
hơn trăm năm – vì vậy những vấn đề của văn học so sánh được quan tâm,
trong đó có việc so sánh văn học Trung Hoa với thế giới, trong đó có Nhật
Bản. Cùng với việc so sánh song song hai nền văn học là tìm hiểu giao lưu
ảnh hưởng qua lại trên tất cả các phương diện: văn học dân gian, tiểu thuyết,
tản văn, thơ ca… Và nhắc đến thơ ca không thể bỏ qua hai thể loại thơ tiêu
biểu của dân tộc là tuyệt cú và haiku.


8

Năm 1984, trong bộ Tỷ giảo văn học nghiên cứu tùng thư 比比比比比比比比
của Đại học Bắc Kinh, quyển Tỉ giảo văn học luận văn tập 比比比比比比比 [142]
do Trương Long Khê – Ôn Nho Mẫn biên tuyển có bài viết “Trung Nhật đích
tự nhiên thi quan” của Lâm Lâm, trong đó tìm hiểu ảnh hưởng của Trung Hoa

đến Nhật Bản trong cái nhìn đối với thế giới tự nhiên, trong đó có thơ haiku
của Basho, Buson…
Năm 1987, trong công trình Trung Nhật cổ đại văn học quan hệ sử
khảo 中中中中中中中中中中 [119], Nghiêm Thiệu Đãng đã dành chương 2 để tìm
hiểu hình thái văn học Hán trong loại thơ đoản ca, ông chỉ ra đoản ca là loại
thơ thuần Nhật, đồng thời cũng phát hiện những ảnh hưởng của văn học Hán
đối với thể loại thơ này. Cũng Nghiêm Thiệu Đãng trong công trình Trung
Quốc văn học tại Nhật Bản 中中中中中中中 [120] viết chung với Vương Hiểu Bình
xuất bản năm 1990, đã củng cố và mở rộng những vấn đề đã được đề cập
trong cuốn sách trước, bàn đến “Ý nghĩa của văn học Trung Quốc trong sáng
tác haikai của Matsuo Basho”. Ông nói đến mối liên hệ giữa haiku của Basho
với thơ ca Trung Hoa, đặc biệt là thơ Đường, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Đỗ
Phủ, Lý Bạch… Tuy nhiên, dù so sánh song song hay tìm hiểu ảnh hưởng, thì
tác giả cũng chỉ liên hệ đến thơ ca Trung Hoa chứ chưa xét riêng đến thể loại
tuyệt cú.
Năm 1996, trong công trình Thất thập âm đích thế giới: Nhật Bản bài
cú 中中中中中中—中中中中 [122], tác giả Mã Hưng Quốc cũng dành một chương để
khảo sát “Bài cú dữ Trung Quốc”. Công trình có một bước phát triển mới so
với các công trình của họ Nghiêm ở chỗ tác giả không chỉ nghiên cứu ảnh
hưởng của văn học Trung Quốc đối với haiku mà còn tìm hiểu theo chiều
ngược lại, đó là haiku tại Trung Quốc. Tuy nhiên, sự so sánh chủ yếu tìm hiểu
trên phương diện nội dung, và tuyệt cú vẫn chưa được liên hệ so sánh. Trịnh


9

Dân Khâm với Nhật Bản bài cú sử 中中中中中 (2000) [136] cũng tìm hiểu mối
quan hệ “Bài cú dữ Hán thi”, mà chưa đề cập đến thể loại tuyệt cú.
Trong Đông phương cổ điển mĩ: Trung Nhật truyền thống thẩm mĩ ý
thức tỉ giảo 中中中中中中中中中中中中中中中中(2002) [137], trên sự so sánh rộng về mặt

tư tưởng, ý thức thẩm mĩ, Khương Văn Thanh đã lưu tâm đến haiku trong
dòng chảy của thơ ca từ khởi nguyên. Nhưng khi so sánh, Khương Văn Thanh
đã lựa chọn hòa ca với tuyệt cú như là hai thể loại thơ ca tiêu biểu của hai dân
tộc, mặc dù ông chỉ ra: “hòa ca đã nhỏ bé, haiku lại càng nhỏ bé hơn” [137,
tr.211]. Tác giả đã vận dụng lý thuyết văn bản của Roman Ingarden để so sánh
hai thể loại thơ ca, từ đó chỉ ra:
Vẻ đẹp mang tính đa dạng của âm vận, truyền đạt ý tượng đa
dạng phong phú, ý cảnh cấu tứ hoàn chỉnh, hình thành nên ý vị sâu xa,
đây là đặc tính nghệ thuật của kết cấu văn thể thơ ca cổ điển Trung
Quốc biểu hiện qua tuyệt cú đời Đường; vẻ đẹp bình hòa tự do của âm
vận, đơn thuần giản đạm của ý tượng, tính chất tương đối thoải mái tự
do, để càng nhiều khoảng trống cho tưởng tượng thể nghiệm, đây là đặc
tính nghệ thuật của kết cấu văn thể thơ ca cổ điển Nhật Bản thể hiện
qua đoản ca. Điểm tương đồng là đều theo đuổi tính trữ tình của tình
cảnh giao dung, điểm khác biệt là khi trữ tình biểu hiện hoặc kín đáo
hoặc trực tiếp [137, tr.238].
Có thể nói, trong một sự phạm vi so sánh ngắn, tác giả đã đưa ra được
nhiều kiến giải quan trọng, từ đó cho chúng tôi nhiều gợi ý quý báu.
Công trình nghiên cứu có ý thức so sánh tuyệt cú và haiku có thể kể
đến là Đường tuyệt cú sử 中中中中(1987) [139] của Chu Khiếu Thiên. Trong khi
nghiên cứu ngũ ngôn tuyệt cú của Vương Duy, ông đã nhận thấy với haiku có
những điểm tương đồng: thể thơ nhỏ bé, dung hợp họa ý với triết lý, thủ pháp
tượng trưng, lời ngắn ý dài. Mặc dù tác giả chưa đi sâu phân tích so sánh hai


10

thể thơ mà chỉ dừng lại ở những nhận xét mang tính cảm nhận ban đầu nhưng
có thể nói, đây là những phát hiện quan trọng mang tính gợi ý trong việc so
sánh hai thể loại thơ ca tiêu biểu nhất của hai dân tộc.

Ngoài ra còn có những bài nghiên cứu trên báo – tạp chí viết về ảnh
hưởng của thơ ca cổ điển Trung Hoa đến thơ haiku. Trong đó có thể kể đến
“Tòng Hán thi dữ bài cú đích tỉ giảo khán Trung Nhật văn hóa chi dị đồng”
“从从从从从从从从从从从从从从从从从”[131] của Khưu Minh. Khưu Minh đã so sánh sự
khác biệt giữa Hán thi và bài cú để chỉ ra sự bất đồng về mặt văn hóa giữa
Trung Hoa và Nhật Bản, giữa một bên xem trọng “lý và thiện” trong khi một
bên lại đặt nặng “chân và tình”. Những đặc điểm cơ bản này cũng chính là sự
khác biệt cơ bản giữa tuyệt cú và bài cú.
Bài viết Phan Quý Dân – Điền Thiếu Úc “Bài cú dữ Đường nhân tuyệt
cú đích ý cảnh mĩ – dĩ Ba Tiêu Tùng Vĩ dữ Vương Duy tác phẩm vi lệ” “ 从从从
从从从从从从从从从从从从从从从从从从从从从”(Khảo thí chu san, kỳ 18 – 2008) cũng đã có
những nhận xét xác đáng về sự giống nhau giữa hai thể tài thơ ca này:
Bài cú là một loại hình thức truyền thống vận văn học của Nhật
Bản, cũng là một trong những thơ cách luật ngắn nhất trên thế giới,
trong lịch sử văn học Nhật Bản chiếm địa vị mười phần trọng yếu. Ngũ
ngôn tuyệt cú Đường thi cũng lấy nhỏ thấy lớn, lấy ít nói nhiều, có vận
luật bằng trắc, lưu truyền rất rộng, đến nay vẫn được hậu nhân truyền
tụng rộng rãi. Hai loại thể thơ này, đều đối với đời sau ảnh hưởng sâu
xa, trong văn học sử hai nước đều thực sự có địa vị nổi bật mười phần
quan trọng, đặc biệt đều có câu chữ giản đoản, truyền đạt ý cảnh sâu
sắc thâm u [129, tr.42].
Từ đó các tác giả đi vào so sánh tuyệt cú và haiku về phương diện ý
cảnh với những vẻ đẹp tịch tĩnh, dư tình, tinh tế, cũng như vẻ đẹp “không”,
“hư”, tuy nhiên trong khuôn khổ một bài viết khoảng hai trang, các tác giả chỉ


11

dừng lại ở mức độ bước đầu cảm nhận cùng so sánh một cách giản lược chứ
chưa thực sự đi vào phân tích vẻ đẹp ý cảnh của hai tác gia rất tiêu biểu cho

thơ tuyệt cú và haiku này.
Sau đó bài viết của Chu Kiến Bình “Vương Duy sơn thủy thi dữ Ba
Tiêu bài cú chi tỉ giảo – dĩ Thiền Đạo tư tưởng ảnh hưởng vi trung tâm” “从从从
从从从从从从从从从从从从-从从从从从从从从从从”(Từ Châu công trình học viện học báo, kỳ
quyển 24, kỳ 6 – 2009) đã tiếp tục so sánh thơ Vương Duy với Basho. Tác giả
chỉ ra:
Vương Duy đem ý cảnh Thiền dung nhập vào thơ sơn thủy của
ông, hình thành nên tình thú thẩm mĩ đặc sắc. Cũng như vậy, thơ quan
hệ giữa thơ bài cú của Basho với Thiền cũng vô cùng mật thiết, nhưng
so với những tác phẩm thơ tràn đầy Thiền vị của Trung Quốc, nó càng
nghiêng về bình đạm, phác thực, thuận theo tự nhiên [133, tr.33].
Tác giả đánh giá thơ Vương Duy và Basho đều đạt đến cảnh giới của
nhàn tịch, u huyền, tuy vậy lại cho rằng bởi Vương Duy sống trong thời đại
cực thịnh nên thơ ca mang âm hưởng nhàn nhã lạc quan, trong khi Basho trải
nghiệm cuộc sống bần cùng nên thơ ca mang khí vị lạnh lẽo. Người viết
không nghĩ rằng khí vị lạnh lẽo trong thơ ca của Basho là bởi vì ông trải qua
cuộc đời nghèo túng, mà nó nằm trong truyền thống thẩm mĩ Nhật Bản
nghiêng về vẻ đẹp u buồn, một bi cảm aware xuyên thấm trong nền văn học.
Mặc dù chưa có điều kiện trực tiếp tham khảo những công trình nghiên
cứu so sánh bằng tiếng Nhật, nhưng một số công trình văn học so sánh bằng
tiếng Trung có sự tham gia của các học giả Nhật Bản đã hé mở cho chúng tôi
cách nhìn nhận từ phía Nhật Bản về mối quan hệ giữa hai nền thơ ca này.
Năm 1988, cuốn Trung ngoại tỉ giảo văn học dịch văn tập 中中中中中中中中
中 [140] do Châu Phát Tường biên soạn đã tập hợp các bài viết của các nhà
nghiên cứu Trung Quốc và thế giới, trong đó có các bài của các nhà nghiên


12

cứu Nhật Bản tìm hiểu so sánh thơ ca Trung Quốc và Nhật Bản như “Chính trị

tính dữ trữ tình tính – Trung Nhật thi ca sáng tác đích tỉ giảo” của Linh Mộc
Tu Thứ (Suzuki Shuji), “Ba Tiêu dữ Đường Tống thi” của Tiểu Tây Thậm
Nhất (Konishi Jinichi). Nếu như Linh Mộc Tu Thứ tìm hiểu hai đặc trưng
riêng biệt của văn học Trung Quốc và văn học Nhật Bản thể hiện qua thơ ca
thì Tiếu Tây Thậm Nhất chỉ ra Basho đã tiếp nhận thơ ca Đường Tống từ đó
hình thành phong cách haiku của mình.
Năm 1996, trong bộ sách công phu Trung Nhật văn hóa giao lưu sử đại
hệ, quyển 6 – văn học quyển 中中中中中中中中中 - 中中中 [121] – có sự tham gia của
các nhà nghiên cứu từ hai phía Trung Quốc và Nhật Bản, nhà nghiên cứu
Nhật Bản Nakanishi Susumu đã viết chương 2 của cuốn sách “Nhật Trung thi
ca đích bản thể dữ hình thái cập kỳ nghiên cứu tỉ giảo”, có sự mở rộng so
sánh không chỉ Hòa ca và Hán thi mà còn tìm hiểu mối quan hệ giữa Bài cú
và Hán thi, đồng thời tìm hiểu Hòa ca và bài cú tại Trung Quốc giao lưu và
ảnh hưởng. Đây là một nghiên cứu bổ ích và công phu, từ đó ta có được cái
nhìn đa chiều trong so sánh văn học chứ không đơn thuần nhìn từ một phía.
Nhìn chung, từ mảng tư liệu tiếng Trung, có thể nhận thấy các nhà
nghiên cứu Trung Quốc cũng như Nhật Bản đã quan tâm so sánh thơ ca giữa
hai quốc gia trên các phương diện nội dung và nghệ thuật để tìm ra những ảnh
hưởng cũng như dị đồng, trong đó haiku thường được tìm hiểu trong mối
quan hệ với Hán thi. Sự tương đồng – dị biệt giữa hai thể loại tuyệt cú – haiku
cũng đã được một số nhà nghiên cứu lưu ý, tuy nhiên vẫn còn sơ lược, vẫn
chưa có một công trình nào thực hiện so sánh tuyệt cú và haiku cụ thể và có
hệ thống.
2.3 Ở mảng tài liệu tiếng Anh
Thơ ca cổ điển phương Đông – bao gồm cả tuyệt cú và haiku – từ lâu
đã khơi được niềm ngạc nhiên, hứng thú và say mê của các nhà nghiên cứu


13


phương Tây. Bên cạnh đó, một số học giả gốc Nhật và gốc Trung Hoa cũng
muốn giới thiệu tinh túy của nền văn học dân tộc mình ra thế giới. Vì vậy tiếp
xúc với mảng tài liệu bằng tiếng Anh, chúng tôi đã gặp được nhiều công trình
nghiên cứu có giá trị.
Thơ haiku được biết tới ở mảng tài liệu tiếng Anh trước hết là ở dạng
những tuyển tập thơ dịch, chẳng hạn các công trình One hundred famous
haiku, Classic Haiku A master’s Selection, 1020 haiku in
translation – The heart of Basho, Buson and Issa … Bên cạnh đó
là những công trình giới thiệu thơ haiku Nhật Bản, trong đó những đặc trưng
nổi bật của thơ haiku được lưu tâm phân tích. Có thể kể đến Japanese Haiku
của Kenneth Yasuda như là cuốn sách tuyệt vời hàng đầu với người phương
Tây để tìm hiểu về thơ haiku cũng như thơ ca Nhật Bản nói chung. K. Yasuda
đã phân tích cách tiếp cận thơ haiku, những nguyên lý cơ bản và những vấn
đề bản chất của thi pháp như quan niệm thẩm mĩ, khoảnh khắc haiku…
Haiku and Modernist Poetics của nhà nghiên cứu Yoshinobu Hakutani lại
cho người đọc một cái nhìn bao quát thơ haiku từ cổ điển Nhật Bản đến sức
lan tỏa mạnh mẽ của nó đến các nhà thơ hiện đại của thế giới. Trong phần
Basho và thi pháp thơ haiku tác giả đã đề cập đến sự ảnh hưởng của Thiền,
vai trò của thiết tự (kireji), quý ngữ (kigo) cũng như như hòa hợp giữa chủ thể
- khách thể, thiên nhiên – con người… trong thơ haiku.
Ở mảng tài liệu tiếng Anh thơ ca Nhật Bản nói chung và haiku nói
riêng được nghiên cứu độc lập, vì vậy mà chúng tôi không tìm thấy có sự so
sánh haiku với tuyệt cú. Mặc dù vậy khi tìm hiểu về quan niệm thẩm mĩ Nhật
Bản thì dấu ấn Trung Hoa được thừa nhận. Như Donald Keene khẳng định
trong Japanese Aesthetics: “Phần lớn những gì được coi là tiêu biểu nhất
trong mỹ học Nhật Bản đều bắt nguồn từ Thiền. Hay nói một cách chính xác
hơn là nó đồng nhất với Thiền […]. Người Nhật Bản cũng tiếp nhận quan


14


điểm thẩm mĩ của các họa sĩ và thi nhân đời Tống là những người yêu thích
những bức tranh đơn sắc” [110, 297].
Tình hình cũng tương tự với thơ tuyệt cú khi thể loại này được các nhà
nghiên cứu giới thiệu ra phương Tây. Các nhà nghiên cứu thường giới thiệu
về thơ ca Trung Hoa cổ điển nói chung, còn riêng về tuyệt cú có thể kể đến
Daniel Hsieh với The Evolution of jueju verse. Trong cuốn sách này tác giả đã
phân tích sự hình thành cũng như các chặng đường phát triển của thơ tuyệt cú
theo chiều dài lịch sử văn học. Có thể coi đây là công trình khảo cứu về tuyệt
cú công phu nhất bằng Tiếng Anh. Tuy nhiên chúng tôi vẫn không tìm thấy có
sự so sánh nào giữa tuyệt cú Trung Hoa và thơ haiku Nhật Bản.
Như vậy, trong phạm vi tài liệu tham khảo mà chúng tôi có được, cho
đến nay vẫn chưa có một công trình nào so sánh tuyệt cú và haiku trên
phương diện loại hình. Những công trình của các nhà nghiên cứu đi trước đã
cho chúng tôi những gợi ý cũng như cách tiếp cận quý báu để trên cơ sở đó
chúng tôi triển khai thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận án: đề tài đi vào so sánh hai thể thơ tuyệt cú (Trung
Quốc) và haiku (Nhật Bản) để làm sáng tỏ một số nét tương đồng – dị biệt
giữa hai thể thơ, từ đó thấy được vẻ đẹp của hai thể loại tiêu biểu cho thơ ca
cổ điển phương Đông này.
- Nhiệm vụ của luận án: trên cơ sở tìm hiểu những điều kiện lịch sử văn hóa – văn học làm nền tảng, luận án đi vào so sánh những đặc trưng tiêu
biểu nhất của tuyệt cú và haiku trên các phương diện: nội dung tư tưởng và
hình thức nghệ thuật. Từ đó thấy được những đặc điểm mang tính chất loại
hình của thể loại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


15


Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là thơ tuyệt cú của Trung Quốc
và haiku của Nhật Bản – trọng tâm là những tác phẩm thuộc giai đoạn cổ
điển, so sánh để làm nổi bật những đặc điểm mang tính chất loại hình của
những thể loại tiêu biểu của thơ cổ điển phương Đông. Hướng đi của chúng
tôi là so sánh trên những nét cơ bản nhất về đặc trưng thể loại (điều kiện hình
thành, nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật) mà rút ra những tương đồng –
dị biệt của hai thể thơ ca này.
Để khảo sát đề tài, chúng tôi tập trung vào những tuyển thơ tuyệt cú và
haiku sau:
- Tuyệt cú tam bách thủ, Cát Kiệt, Thương Dương Khanh tuyển chú,
Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1980.
- One hundred famous haiku, selected and translated into English by
Daniel C. Buchanan, Japan Publications, Inc., Tokyo, 1973.
- 1020 haiku in translation – The heart of Basho, Buson and Issa,
translated by Takafumi Saito, William R. Nelson, BookSurge, LLC, North
Charleston, South Carolina.
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo thêm một số công trình tuyển thơ
Đường, thơ tuyệt cú và haiku được dịch sang tiếng Việt như Đường thi tuyển
dịch, Basho và thơ haiku... Chúng tôi cũng kế thừa những bản dịch thơ của
các dịch giả thơ Đường và thơ haiku, có một số bài chúng tôi dịch lại cũng
như trường hợp có những bài chưa có bản dịch chúng tôi tự tìm tòi và đưa ra
bản dịch mới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp so sánh: đây là phương pháp mang tính chất trung tâm
xuyên suốt qua các chương của luận án. Sự giống và khác nhau giữa hai thể


16


loại tuyệt cú và haiku vừa mang tính chất gặp gỡ tương đồng vừa mang tính
ảnh hưởng – vì vậy chúng tôi kết hợp cả hai dạng thức so sánh này để làm
sáng tỏ vấn đề đặt ra.
- Phương pháp phân tích thi pháp học: phương pháp này là cần thiết để
đi vào thế giới nghệ thuật thơ ca, tìm hiểu thơ trên các phương diện không
gian, thời gian, quan niệm… cũng như vẻ đẹp ngôn ngữ. Ở đây, chúng tôi tiếp
cận văn bản thơ ca trên các bình diện ngôn ngữ khác nhau, bao gồm ngữ âm,
ngữ nghĩa và cấu trúc.
- Phương pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa: tuyệt cú và
haiku với những thành tựu rực rỡ của mình là kết quả phát triển của văn học,
nhưng đồng thời là kết tinh những thành quả văn hóa của mỗi dân tộc. Nghiên
cứu tuyệt cú và haiku không thể đặt hai thể loại này ra khỏi dòng chảy văn
hóa ấy.
- Phương pháp loại hình: vận dụng những đặc trưng của loại hình trữ
tình để so sánh hai thể thơ.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng những phương pháp khác như thống kê
– phân loại, phân tích - tổng hợp… xuyên suốt trong quá trình thực hiện luận
án.
6. Những đóng góp của luận án
Tuyệt cú và haiku là những thể thơ vô cùng đặc sắc của Trung Hoa và
Nhật Bản, kết tinh vẻ đẹp thơ ca, tâm hồn và minh triết phương Đông. Vì thế
khi đi vào tìm hiểu hai thể thơ này chúng ta hiểu sâu hơn về tâm hồn, trí tuệ
Trung Hoa, Nhật Bản nói riêng và phương Đông nói chung.
Dưới góc nhìn so sánh, chúng tôi góp phần phân tích, làm sáng tỏ thêm
những đặc điểm của hai thể thơ ca tiêu biểu của khu vực văn hóa Đông Á về
cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Luận án mở ra hướng tiếp cận hai
thể thơ từ phương diện so sánh loại hình.


17


Tuyệt cú và haiku đều là những thể loại thơ hay mà khó, haiku gần đây
được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông, trong khi tuyệt cú là
thể loại xuyên suốt trong chương trình Ngữ văn – vì vậy luận án có thể làm tư
liệu tham khảo hữu ích cho việc dạy học hai thể loại thơ ca này nói riêng và
thơ cổ điển phương Đông nói chung trong nhà trường.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án của chúng
tôi được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Những tiền đề hình thành nên sự tương đồng – dị biệt của
tuyệt cú và haiku
Ở chương này, người viết tìm hiểu những nền tảng để hình thành nên
những điểm tương đồng – dị biệt giữa hai thể loại tuyệt cú và haiku bao gồm
điều kiện tự nhiên – lịch sử, điều kiện văn hóa – tư tưởng và sự phát triển tự
thân của văn học. Từ đó tìm hiểu quá trình phát triển của hai thể loại thơ ca,
cũng như so sánh nền tảng quan niệm thẩm mĩ để làm tiền đề so sánh hai thể
loại thơ ca này trong những chương sau.
Chương 2: Hứng thú tự nhiên, cảm nghiệm nhân sinh và suy tư tôn giáo
trong tuyệt cú và haiku
Trong chương này, người viết tập trung giải quyết so sánh những đặc
điểm về nội dung – đề tài – tư tưởng của tuyệt cú và haiku. Cụ thể là phân tích
hứng thú đối với tự nhiên, cảm nghiệm của thi nhân đối với cuộc đời – con
người cũng như phân tích vai trò của những hệ tư tưởng xuyên thấm trong cả
hai thể loại thơ ca.
Chương 3: Vẻ đẹp nghệ thuật thơ tuyệt cú và haiku
Chương này người viết tập trung vào so sánh những vẻ đẹp nghệ thuật
của tuyệt cú và haiku, cụ thể là sự hài hòa của hình thức đối với nội dung,
phân tích so sánh trên các bình diện ngữ âm, ngữ nghĩa và kết cấu – những



×