Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

So sánh tuyệt cú và haiku về phương diện loại hình tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.73 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuyệt cú và haiku là hai thể thơ hội tụ tinh túy vẻ đẹp thơ cổ điển phương Đông. Nếu
tuyệt cú – “hạt minh châu của thơ ca Trung Hoa” – long lanh vẻ sáng hàm súc, dư ba đầy ý
vị Đường thi thì haiku nhỏ xinh như một đóa anh đào là niềm tự hào của thơ ca Nhật Bản
vươn ra thế giới. Trong khi nhiều thể thơ khác chịu sự hạn chế của lịch sử - thời đại thì tuyệt
cú và haiku có được sự năng động và sức sống mạnh mẽ với sự lan tỏa, ảnh hưởng vượt
không gian – thời gian. Chọn đề tài này, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu mảnh đất thơ cổ điển
phương Đông muôn đời “quen mà lạ”, đầy bí ẩn mà chứa đựng bao vẻ đẹp không nói hết.
So với những công trình nghiên cứu đã có về tuyệt cú và haiku – chủ yếu nghiên cứu
từng thể loại độc lập, riêng rẽ - đề tài của chúng tôi đóng góp một hướng tiếp cận khá mới.
Dưới góc nhìn so sánh, tuyệt cú và haiku sẽ thể hiện nhiều đặc điểm trên nhiều phương diện
– hơn là nghiên cứu độc lập. Từ đó đề tài góp phần làm sáng tỏ những nét đồng dị của hai
thể thơ đặc sắc trong thế giới thơ ca phương Đông.
Từ lâu thơ Đường – trong đó tuyệt cú đóng vai trò quan trọng – đã được lưu tâm
trong nhà trường phổ thông. Haiku được thế giới biết đến nhưng ở Việt Nam vẫn còn tương
đối lạ lẫm, gần đây mới được đưa vào giảng dạy. Việc dạy học hai thể thơ này đối với giáo
viên luôn là một công việc hay mà khó. Với đề tài này, chúng tôi hy vọng góp phần giúp dạy
học tốt hơn thơ tuyệt cú và haiku nói riêng, thơ cổ điển phương Đông nói chung trong nhà
trường.
Nghiên cứu – so sánh tuyệt cú và haiku trong bối cảnh thế giới hội nhập ngày nay
cũng là tìm hiểu thêm về hai quốc gia – hai nền văn hóa Trung Hoa và Nhật Bản – cũng như
sức sống của thơ ca qua những bờ cõi và giới hạn, đồng vọng tiếng lòng nhân loại trong một
tiếng nói chung.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:
2.1 Ở mảng tài liệu tiếng Việt:
Tuyệt cú song hành cùng với chiều dài truyền thống văn học Việt Nam hàng ngàn
năm, vì vậy đã được biết đến từ rất lâu, còn haiku mãi đến đầu thế kỷ XX mới được biết
đến. Và cũng phải mất một khoảng thời gian khá dài để thơ này trở nên gần gũi hơn với tâm
thức văn hóa Việt Nam, đến cuối thế kỷ XX những nét tương đồng giữa tuyệt cú và haiku
mới được một số nhà nghiên cứu nhận ra và bước đầu có những so sánh trên những nét cơ


1


bản. Nhưng sự so sánh thường diễn ra khi tác giả đi vào tìm hiểu một thể thơ. Ở đây xảy ra
hai khuynh hướng:
- So sánh tuyệt cú với haiku nhằm làm nổi bật đặc điểm của tuyệt cú. Tiêu biểu cho
hướng đi này là các công trình Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời Đường của
Nguyễn Sĩ Đại, Thơ tứ tuyệt trong Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX của Nguyễn
Kim Châu …
- So sánh haiku với tuyệt cú để làm nổi bật đặc điểm của haiku. Có thể kể đến Basho
và thơ haiku của Nhật Chiêu, Haiku - Hoa thời gian của Lê Từ Hiển – Lưu Đức Trung…
Dù theo hướng đi nào thì các tác giả đều nhận ra nét chung và nổi bật của hai thể
loại thơ tuyệt cú và haiku ở chỗ nó đều là những thể thơ ngắn và hội tụ tiêu biểu vẻ đẹp thơ
cổ điển phương Đông. Nhưng so sánh không bình đẳng thường khó đảm bảo tính khách
quan và không làm rõ được đặc điểm loại hình của hai thể thơ độc đáo này.
Dưới góc độ văn học so sánh, một số công trình nghiên cứu đã có cái nhìn tương đối
toàn diện hơn dưới nhiều hướng khác nhau:
- So sánh thể loại: Có thể kể đến bài viết “Phác thảo những nét tương đồng và dị biệt
của ba thể thơ: tuyệt cú, haiku và lục bát” của Nguyễn Thị Bích Hải, “Những nét tương
đồng và dị biệt của thơ sijo (Hàn Quốc) và thơ haiku (Nhật Bản) – nhìn từ đặc trưng thể
loại” của Hà Văn Lưỡng… Các tác giả đã sự giống nhau giữa các thể thơ cổ điển phương
Đông về các phương diện “cô đúc, ngắn gọn”, “bố cục chặt chẽ”, “trọng tâm ý nghĩa thường
nằm ở câu cuối”. Trong Tiếp cận thể loại văn học cổ Trung Quốc, Đinh Phan Cẩm Vân cũng
chỉ ra những nét gặp gỡ và khác biệt của tuyệt cú và haiku. Tác giả cũng chỉ ra đặc điểm
loại hình của thể loại: “Haiku, tứ tuyệt hay luật thi đều là sản phẩm của tư duy phương
Đông”.
- So sánh loại hình tác gia: tiêu biểu là các bài viết “Basho (1644-1694) và Huyền
Quang (1254-1334) - Sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tương hợp về cảm thức thẩm mĩ” của
Lê Từ Hiển, “Vương Duy và Matsuo Basho - loại hình thi tăng của khu vực văn hóa Phật
giáo” của Trần Thị Thu Hương. Các tác giả tìm thấy vẻ đẹp của mĩ học Thiền trong thơ ca

của các tác giả, phần nào bộc lộ qua thể loại - “tứ tuyệt rất gần gũi với hai-kư về sự ngắn
gọn, tính hàm súc, đa nghĩa”, “kết cấu chân không” thể hiện qua “hình thức cực tiểu” của
tuyệt cú và haiku …

2


- So sánh loại hình thơ Thiền: tiêu biểu là Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của
thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIX của Đoàn Thị Thu Vân, “Ba dòng thơ tiêu biểu
phương Đông: thơ Thiền Việt Nam, Đường thi Trung Hoa và Haiku của Nhật” của Thái Tú
Hạp… Nếu Thái Tú Hạp chủ yếu chỉ ra tinh thần của ba dòng thơ này là “con người hòa
nhập với thiên nhiên, với vũ trụ nhất thể” thì Đoàn Thị Thu Vân cụ thể hơn khi triển khai so
sánh cảm thức Thiền, tính trực cảm, gợi mở, hình ảnh thiên nhiên… trong đó sự khác nhau
giữa tuyệt cú và haiku cũng đã được đề cập đến. Tác giả đã tinh tế chỉ ra được sự khác nhau
giữa tính cân đối và tính thiếu vắng, sự trau chuốt và tính tự nhiên giữa hai thể thơ này.
2.2 Ở mảng tài liệu tiếng Trung Quốc:
Năm 1984, trong bộ Tỷ giảo văn học nghiên cứu tùng thư 比比比比比比比比 của Đại học
Bắc Kinh, quyển Tỉ giảo văn học luận văn tập 比比比比比比比 do Trương Long Khê – Ôn Nho
Mẫn biên tuyển có bài viết “Trung Nhật đích tự nhiên thi quan” của Lâm Lâm, trong đó tìm
hiểu ảnh hưởng của Trung Hoa đến Nhật Bản trong cái nhìn đối với thế giới tự nhiên, trong
đó có thơ haiku của Basho, Buson…
Năm 1987, trong công trình Trung Nhật cổ đại văn học quan hệ sử khảo 比比比比比比比比
比比, Nghiêm Thiệu Đãng đã dành chương 2 để tìm hiểu hình thái văn học Hán trong loại thơ
đoản ca, ông chỉ ra đoản ca là loại thơ thuần Nhật, đồng thời cũng phát hiện những ảnh
hưởng của văn học Hán đối với thể loại thơ này. Cũng Nghiêm Thiệu Đãng trong công trình
Trung Quốc văn học tại Nhật Bản 比比比比比比比 viết chung với Vương Hiểu Bình xuất bản năm
1990, đã củng cố và mở rộng những vấn đề đã được đề cập trong cuốn sách trước, bàn đến
“Ý nghĩa của văn học Trung Quốc trong sáng tác haikai của Matsuo Basho”. Ông nói đến
mối liên hệ giữa haiku của Basho với thơ ca Trung Hoa, đặc biệt là thơ Đường, chịu ảnh
hưởng sâu sắc của Đỗ Phủ, Lý Bạch… Tuy nhiên, dù so sánh song song hay tìm hiểu ảnh

hưởng, thì tác giả cũng chỉ liên hệ đến thơ ca Trung Hoa chứ chưa xét riêng đến thể loại
tuyệt cú.
Năm 1996, trong công trình Thất thập âm đích thế giới: Nhật Bản bài cú 比比比比比比—
比比比比, tác giả Mã Hưng Quốc cũng dành một chương để khảo sát “Bài cú dữ Trung Quốc”.
Công trình có một bước phát triển mới so với các công trình của Nghiêm Thiệu Đãng ở chỗ
tác giả không chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với haiku mà còn tìm
hiểu theo chiều ngược lại, đó là haiku tại Trung Quốc. Tuy nhiên, sự so sánh chủ yếu tìm
hiểu trên phương diện nội dung, và tuyệt cú vẫn chưa được liên hệ so sánh. Trịnh Dân Khâm
3


với Nhật Bản bài cú sử 比比比比比(2000) cũng tìm hiểu mối quan hệ “Bài cú dữ Hán thi”, mà
chưa đề cập đến thể loại tuyệt cú.
Trong Đông phương cổ điển mĩ: Trung Nhật truyền thống thẩm mĩ ý thức tỉ giảo 比比
比比比比比比比比比比比比比比(2002), trên sự so sánh rộng về mặt tư tưởng, ý thức thẩm mĩ, Khương
Văn Thanh đã lưu tâm đến haiku trong dòng chảy của thơ ca từ khởi nguyên. Nhưng khi so
sánh, Khương Văn Thanh đã lựa chọn hòa ca với tuyệt cú như là hai thể loại thơ ca tiêu biểu
của hai dân tộc.
Công trình nghiên cứu có ý thức so sánh tuyệt cú và haiku có thể kể đến là Đường
tuyệt cú sử 比比比比(1987) của Chu Khiếu Thiên. Trong khi nghiên cứu ngũ ngôn tuyệt cú của
Vương Duy, ông đã nhận thấy với haiku có những điểm tương đồng: thể thơ nhỏ bé, dung
hợp họa ý với triết lý, thủ pháp tượng trưng, lời ngắn ý dài. Có thể nói, đây là một phát hiện
quan trọng trong việc so sánh hai thể loại thơ ca tiêu biểu nhất của hai dân tộc.
Ngoài ra còn có những bài nghiên cứu trên báo – tạp chí viết về ảnh hưởng của thơ
ca cổ điển Trung Hoa đến thơ haiku.
Mặc dù chưa có điều kiện trực tiếp tham khảo những công trình ngiên cứu so sánh
bằng tiếng Nhật, nhưng một số công trình văn học so sánh bằng tiếng Trung có sự tham gia
của các học giả Nhật Bản đã hé mở cho chúng tôi cách nhìn nhận từ phía Nhật Bản về mối
quan hệ giữa hai nền thơ ca này.
Năm 1988, cuốn Trung ngoại tỉ giảo văn học dịch văn tập 比比比比比比比比比 do Châu

Phát Tường biên soạn đã tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu Trung Quốc và thế
giới, trong đó có các bài của các nhà nghiên cứu Nhật Bản tìm hiểu so sánh thơ ca Trung
Quốc và Nhật Bản như “Chính trị tính dữ trữ tình tính – Trung Nhật thi ca sáng tác đích tỉ
giảo” của Linh Mộc Tu Thứ (Suzuki Shuji), “Ba Tiêu dữ Đường Tống thi” của Tiểu Tây
Thậm Nhất (Konishi Jinichi). Nếu như Linh Mộc Tu Thứ tìm hiểu hai đặc trưng riêng biệt
của văn học Trung Quốc và văn học Nhật Bản thể hiện qua thơ ca thì Tiếu Tây Thậm Nhất
chỉ ra Basho đã tiếp nhận thơ ca Đường Tống từ đó hình thành phong cách haiku của mình.
Năm 1996, trong bộ sách công phu Trung Nhật văn hóa giao lưu sử đại hệ, quyển 6 –
văn học quyển 比比比比比比比比比 - 比比比– có sự tham gia của các nhà nghiên cứu từ hai phía
Trung Quốc và Nhật Bản, nhà nghiên cứu Nhật Bản Trung Tây Tiến (Nakanishi Susumu) đã
viết chương 2 của cuốn sách “Nhật Trung thi ca đích bản thể dữ hình thái cập kỳ nghiên cứu
tỉ giảo”, có sự mở rộng so sánh không chỉ Hòa ca và Hán thi mà còn tìm hiểu mối quan hệ
giữa Bài cú và Hán thi, đồng thời tìm hiểu Hòa ca và bài cú tại Trung Quốc giao lưu và ảnh
4


hưởng. Đây là một nghiên cứu bổ ích và công phu, từ đó ta có được cái nhìn đa chiều trong
so sánh văn học chứ không đơn thuần nhìn từ một phía.
2.3 Ở mảng tài liệu tiếng Anh
Thơ haiku được biết tới ở mảng tài liệu tiếng Anh trước hết là ở dạng những tuyển
tập thơ dịch, chẳng hạn các công trình One hundred famous haiku, Classic Haiku A master’s
Selection, 1020 haiku in translation – The heart of Basho, Buson and Issa … Bên cạnh đó là
những công trình giới thiệu thơ haiku Nhật Bản, trong đó những đặc trưng nổi bật của thơ
haiku được lưu tâm phân tích. Có thể kể đến Japanese Haiku của Kenneth Yasuda, Haiku
and Modernist Poetics Yoshinobu Hakutani… Ở mảng tài liệu tiếng Anh thơ ca Nhật Bản
nói chung và haiku nói riêng được nghiên cứu độc lập, vì vậy mà chúng tôi không tìm thấy
có sự so sánh haiku với tuyệt cú.
Tình hình cũng tương tự với thơ tuyệt cú khi thể loại này được các nhà nghiên cứu
giới thiệu ra phương Tây. Các nhà nghiên cứu thường giới thiệu về thơ ca Trung Hoa cổ
điển nói chung, còn riêng về tuyệt cú có thể kể đến Daniel Hsieh với The Evolution of jueju

verse. Trong cuốn sách này tác giả đã phân tích sự hình thành cũng như các chặng đường
phát triển của thơ tuyệt cú theo chiều dài lịch sử văn học. Có thể coi đây là công trình khảo
cứu về tuyệt cú công phu nhất bằng Tiếng Anh. Mặc dù vậy thì chúng tôi không tìm thấy có
sự so sánh nào giữa tuyệt cú Trung Hoa và thơ haiku Nhật Bản.
Như vậy, trong phạm vi tài liệu tham khảo mà chúng tôi có được, cho đến nay vẫn
chưa có một công trình nào so sánh tuyệt cú và haiku trên phương diện loại hình. Những
công trình của các nhà nghiên cứu đi trước đã cho chúng tôi những gợi ý cũng như cách tiếp
cận quý báu để trên cơ sở đó chúng tôi triển khai thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận án: đề tài đi vào so sánh hai thể thơ tuyệt cú (Trung Quốc) và
haiku (Nhật Bản) để làm sáng tỏ một số nét tương đồng – dị biệt giữa hai thể thơ, từ đó thấy
được vẻ đẹp của hai thể loại tiêu biểu cho thơ ca cổ điển phương Đông này.
- Nhiệm vụ của luận án: dựa trên cơ sở tìm hiểu những điều kiện lịch sử - văn hóa –
văn học làm nền tảng, luận án đi vào so sánh những đặc trưng tiêu biểu nhất của tuyệt cú và
haiku trên các phương diện: nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Từ đó thấy được
những đặc điểm mang tính chất loại hình của thể loại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5


Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là thơ tuyệt cú của Trung Quốc và haiku của
Nhật Bản – trọng tậm là những tác phẩm thuộc giai đoạn cổ điển, so sánh để làm nổi bật
những đặc điểm mang tính chất loại hình của những thể loại tiêu biểu của thơ cổ điển
phương Đông. Hướng đi của chúng tôi là so sánh trên những nét cơ bản nhất về đặc trưng
thể loại (điều kiện hình thành, nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật) mà rút ra những
tương đồng – dị biệt của hai thể thơ ca này.
Để khảo sát đề tài, chúng tôi tập trung vào những tuyển thơ tuyệt cú và haiku sau:
- Tuyệt cú tam bách thủ, Cát Kiệt, Thương Dương Khanh tuyển chú, Thượng Hải cổ
tịch xuất bản xã, 1980.
- One hundred famous haiku, selected and translated into English by Daniel C.

Buchanan, Japan Publications, Inc., Tokyo, 1973.
- 1020 haiku in translation – The heart of Basho, Buson and Issa, translated by
Takafumi Saito, William R. Nelson, BookSurge, LLC, North Charleston, South Carolina.
Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo thêm một số công trình tuyển thơ Đường, thơ tuyệt
cú và haiku được dịch sang tiếng Việt như Đường thi tuyển dịch, Basho và thơ haiku...
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thi pháp học.
- Phương pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa.
- Phương pháp loại hình.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng những phương pháp khác như thống kê – phân loại,
phân tích - tổng hợp… xuyên suốt trong quá trình thực hiện luận án.
6. Những đóng góp của luận án:
Dưới góc nhìn so sánh, chúng tôi góp phần phân tích, làm sáng tỏ thêm những đặc
điểm của hai thể thơ ca tiêu biểu của khu vực văn hóa Á Đông về cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật.

6


Tuyệt cú và haiku đều là những thể loại thơ hay mà khó, haiku gần đây được đưa vào
giảng dạy trong chương trình phổ thông, trong khi tuyệt cú là thể loại xuyên suốt trong
chương trình Ngữ văn – vì vậy luận án có thể làm tư liệu tham khảo hữu ích cho việc dạy
học hai thể loại thơ ca này nói riêng và thơ cổ điển phương Đông nói chung trong nhà
trường.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án của chúng tôi được triển
khai thành ba chương:
Chương 1: Những tiền đề hình thành nên sự tương đồng – dị biệt của tuyệt cú và

haiku
Chương 2: Hứng thú tự nhiên, cảm nghiệm nhân sinh và suy tư tôn giáo trong tuyệt
cú và haiku
Chương 3: Vẻ đẹp nghệ thuật thơ tuyệt cú và haiku

Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH NÊN SỰ TƯƠNG ĐỒNG – DỊ BIỆT
CỦA TUYỆT CÚ VÀ HAIKU
1.1 Những tiền đề cho sự hình thành thơ tuyệt cú và haiku
1.1.1 Điều kiện lịch sử - tự nhiên
Đất nước Trung Quốc có lãnh thổ rộng lớn với sự phong phú về địa hình, sự đa dạng
về khí hậu. Đó là đất nước của những dãy núi cao chót vót, những dòng sông bao la là nơi
khởi phát và nuôi dưỡng nền văn minh vĩ đại, những cao nguyên rộng lớn và bình nguyên
mênh mông… làm nên cảnh quan hùng vĩ và độc đáo.
Nhật Bản có hình thế một chuỗi các hòn đảo tạo thành một vòng cung trải dài hơn
2400 cây số. Với ¾ là núi, Nhật Bản có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ nhưng cũng rất khắc
nghiệt vì thường xuyên phải chịu thiên tai núi lửa, động đất, sóng thần. Quần đảo kéo dài
trên nhiều vĩ độ khác nhau tạo nên nhiều vùng khí hậu, phần lớn lãnh thổ có bốn mùa rõ rệt.
Trên cơ sở điều kiện tự nhiên ấy đã ra đời ở Trung Hoa và Nhật Bản là nền văn minh
nông nghiệp. Nền nông nghiệp trồng lúa khiến con người từ sớm đã gắn bó và biết quan sát
tự nhiên. Cuộc sống gắn bó của tự nhiên cũng đem lại cho người Nhật năng lực cảm thụ tinh
7


tế thế giới tự nhiên với nhịp điệu của bốn mùa. Điều này dẫn đến hiện tượng vì sao thiên
nhiên trong tuyệt cú và haiku lại có dấu ấn vô cùng đậm nét và trở thành một đề tài trở đi trở
lại trong hai thể thơ này. Nhưng điều kiện thiên nhiên của mỗi quốc gia mỗi khác nên hình
bóng thiên nhiên soi vào trong tuyệt cú và haiku cũng mang những vẻ đẹp riêng.
Những đặc điểm về mặt tự nhiên gắn bó mật thiết đến lịch sử của mỗi dân tộc. Nếu
như đất nước Trung Hoa rộng lớn thường xuyên phải trải qua những biến động dữ dội về
mặt lịch sử - nhất là đối mặt với nạn ngoại xâm, thì vị trí ở giữa biển khiến Nhật Bản có

được sự độc lập tương đối. Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử, Trung Quốc thường phải đối
mặt với những cuộc chiến tranh xâm lược, và ngược lại, với vị trí trung tâm, nước lớn,
Trung Quốc cũng thường xuyên tiến hành những cuộc chiến tranh mở rộng bờ cõi. Trong
khi đó, điều kiện địa lý đã tạo nên tính chất vừa đóng vừa mở của Nhật Bản, vừa dễ tiếp
nhận những yếu tố bên ngoài vừa có một nền văn minh riêng biệt. Điều này lý giải tại sao
những vấn đề lớn – vấn đề vận mệnh của quốc gia, dân tộc, số phận của nhân dân trở thành
một đề tài xuyên suốt trong văn học Trung Quốc, trong khi chúng ta thấy văn học Nhật Bản
ít đề cập đến những điều này.
1.1.2 Nền tảng văn hóa – tư tưởng
Cả Trung Quốc và Nhật Bản đều nằm trong vùng văn hóa Hán ngữ. Người Trung
Quốc dùng chữ Hán để sáng tác thơ ca còn người Nhật Bản thì vay mượn chữ Hán để tạo ra
văn tự của riêng mình, thơ ca được sáng tác dựa trên cả hai ngôn ngữ - tiếng Trung Quốc và
tiếng Nhật Bản.
Thời trung đại trong văn học phương Đông luôn có sự giao dung giữa các loại hình
nghệ thuật. Trình độ văn học cực cao của thời Đường không thể không tính đến vai trò quan
trọng của sự phát triển các bộ môn nghệ thuật khác, bao gồm cả hội họa, âm nhạc, vũ đạo.
Thời đại của các thi nhân haiku cũng là sự tôn vinh của các loại hình nghệ thuật, tất cả hòa
tan vào những bài haiku tràn đầy tình thơ ý họa.
Đời Đường – thời đại thơ tuyệt cú đi vào hoàn thiện và định hình thể loại - cũng là
thời kỳ hoàn bị chế độ dĩ thi thủ sĩ bắt nguồn từ đời nhà Tùy, thơ ca được đề cao tột bậc, gắn
với con đường hoạn lộ của sĩ nhân. Trong khi đó, thơ ca Nhật Bản lại khẳng định dấu ấn của
quý tộc, các nhà sư và tầng lớp võ sĩ samurai. Cùng với điều này là mặc dù lực lượng sáng

8


tác thơ ca đời Đường vô cùng phong phú, nhưng sĩ nhân vẫn giữ vai trò chủ đạo, trong khi
đó haiku khởi từ M. Basho lại gắn bó nhiều hơn với các thiền sư.
Gần ba trăm năm đời Đường – thời đại định thể và đạt đỉnh cao của thơ tuyệt cú - tư
tưởng giữ thái độ kiêm dung, dĩ Nho vi chủ, kiêm thủ bách gia. Tư tưởng Nho Phật Đạo

giao dung có thể nói là đặc điểm cơ bản của tư tưởng thời Đường. Nếu ở đời Đường Nho –
Phật – Đạo tam giáo đồng nguyên thì thời Tokugawa nền tảng tư tưởng của văn học Nhật
Bản cũng là Thần – Phật – Nho tập hợp. Bối cảnh bách gia tranh minh của hai thời đại đã
đem lại cho tuyệt cú và haiku một tầm cao mới về mặt tư tưởng, đem lại một chiều sâu về
mặt nội dung cho hai thể thơ này.
1.1.3 Sự phát triển tự thân của văn học
Từ lúc tập thơ ca đầu tiên ra đời cho đến giai đoạn của tuyệt cú và haiku, thơ ca
Trung Hoa và Nhật Bản đã trải qua thời kỳ dài phát triển hàng ngàn năm, đạt đến độ hoàn
thiện về bút pháp nghệ thuật, đạt đến chỗ mẫu mực cổ điển. Chính vì vậy mà hai thể loại thơ
ca này có thể coi là đại diện tiêu biểu cho thành tựu thơ ca cổ điển của hai quốc gia.
1.2 Sự hình thành thơ tuyệt cú và haiku
1.2.1 Sự hình thành thơ tuyệt cú
Trong một thời gian dài, có nhiều cách giải thích khác nhau về tên gọi cũng như
nguồn gốc của tuyệt cú. Nhìn chung, đến nay các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng tuyệt
cú không phải được cắt ra từ luật thi mà là một thể loại độc lập, có lịch sử lâu dài với những
đặc trưng riêng.
Trong The Evolution of Jueju Verse, Daniel Hsieh đã có một sự khu biệt quan trọng
khi chỉ ra tuyệt cú là một thể loại (genre) chứ không phải chỉ là thể (form). Ở Trung Quốc,
tuyệt cú được gọi là thể tài, tức “một loại tác phẩm văn học cụ thể biểu đạt một nội dung
nhất định nào đó” với “những đặc điểm khác nhau về nhiều mặt tổng hợp như phương thức
kết cấu, xây dựng hình tượng, vận dụng ngôn ngữ và thủ pháp biểu đạt”. Tuyệt cú có nguồn
gốc sâu xa từ cổ thi và Nhạc phủ, manh nha và thời Lục triều, đến đời Đường thì thành hình
và đạt được thành tựu cổ điển mẫu mực. Trải qua dòng chảy thời gian, tuyệt cú có những
biến thiên để phù hợp với tinh thần của thời đại..
1.2. 2 Sự hình thành thơ haiku

9


Haiku là thể thơ 3 câu, 5-7-5 âm tiết. Cũng giống như tuyệt cú, haiku có một lịch sử

lâu dài. Nguồn gốc trực tiếp của haiku – tên nguyên thủy là haikai (bài hài) – là renga (liên
ca), bài thơ dài do nhiều người ngâm liên tiếp mà thành. Haiku được cắt ra từ 3 dòng đầu 57-5 âm tiết của một bài tanka 31 âm tiết. Bài haiku đầu tiên được tìm thấy trong một tập thơ
từ thế kỷ XIV, từ đó cũng đã xuất hiện nhiều nhà thơ sáng tác haikai cũng như nhiều trường
phái thơ ca, nhưng haiku chưa thực sự bén rễ trong dòng chảy thơ ca dân tộc. Người thật sự
đưa haiku đạt đến một thể thơ mẫu mực cổ điển là một nhà thơ của thế kỷ XVII – bậc thầy
vĩ đại Matsuo Basho (1644-1694).
1.2.3 Hai thể loại tinh hoa thuộc loại hình thơ cổ điển phương Đông
Trong bài viết “Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ phương Đông
theo phương pháp loại hình”, nhà nghiên cứu B. L. Ríp-tin đã đưa ra cách hiểu về khái niệm
loại hình như sau: “Khái niệm “loại hình” (typologie) được nêu lên trong ngành nghiên cứu
văn học với những ý nghĩa rất khác nhau – khi thì như cách xác định những con đường khác
nhau của sự phát triển văn học, ngược lại, khi thì như cách khảo sát những hiện tượng giống
nhau nảy sinh trong quá trình phát triển nghệ thuật bằng ngôn ngữ. Trong trường hợp này
điều làm chúng ta quan tâm hơn cả là vấn đề xác định một kiểu văn học giống nhau có tính
chất tiêu biểu đối với một thời đại lịch sử”. Theo cách hiểu này, tuyệt cú và haiku thật sự là
một kiểu văn học giống nhau mang đậm những nét tiêu biểu của thơ cổ điển phương Đông.
Haiku vừa là một thể thơ truyền thống nội sinh của Nhật Bản, nhưng cũng lại chịu
ảnh hưởng của Hán thi – trong đó có tuyệt cú – về mặt bút pháp, đề tài... Vì vậy so sánh
tuyệt cú và haiku, chúng tôi triển khai trên cả hai phương diện: vừa là so sánh song song,
vừa là so sánh ảnh hưởng, từ đó thấy được những điểm tương đồng cũng như dị biệt giữa
hai thể thơ độc đáo này.
Về phương diện loại hình, tuyệt cú và haiku đều thuộc loại hình thơ cổ điển phương
Đông. Khái niệm phương Đông mà chúng tôi dùng ở đây để chỉ khu vực Đông Á với các
nước nằm trong khu vực văn hóa Hán tự bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt
Nam.
1.3 Quan niệm thơ ca
1. 3.1 Khởi từ tâm hay là bản chất trữ tình của thơ ca

10



Xét về hệ thống quan niệm, Trung Hoa và Nhật Bản đều có một hệ thống quan niệm
riêng, nhưng vẫn mang đậm những nét tương đồng. Những tương đồng này, có phần do
quan niệm về thơ ca của Nhật Bản chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, nhưng đều xuất phát từ
một tâm thức văn hóa chung trong truyền thống phương Đông, đó là đều xem trọng tính trữ
tình. Tuy nhiên, cùng bản chất trữ tình nhưng phương thức thể hiện trong thơ ca của hai
quốc gia là khác nhau. Dễ dàng nhận ra tình điệu xuyên suốt thơ ca Trung Quốc vẫn là “ôn
nhu đôn hậu”, lúc nào cũng có một phong thái khắc kỷ xứng với người quân tử, tình cảm
được lý trí khắc chế đưa đến sự thâm trầm trong cảm xúc. Điều này không xảy ra trong thơ
ca Nhật Bản. Trên mảnh đất của xứ sở hoa anh đào, cảm xúc như một dòng dung nham tuôn
chảy tự nhiên, tình điệu cũng vì vậy mà vô cùng phong phú. Ở đó nỗi bi ai không bị coi là
ủy mị, tình yêu không bị coi là nam nữ thường tình, giọt nước mắt không bị giữ lại trên
khóe mắt mà có thể chảy tự nhiên như suối tuôn ra từ mạch đất.
1.3.2 Tính chính trị và tính duy mĩ
Trong bài viết “Chính trị tính dữ trữ tình tính – Trung Nhật thi ca sáng tác đích tỉ
giảo” in trong Trung ngoại tỉ giảo văn học dịch văn tập do Châu Phát Tường biên soạn, nhà
nghiên cứu văn học Nhật Bản Suzuki Shuji đã chỉ ra sự khác biệt của thơ ca hai nước là ở
tính chính trị và tính trữ tình, theo đó nếu thơ ca Trung Quốc qua các thời đại luôn quan tâm
đến chính trị thì thơ ca Nhật Bản lại quan tâm đến sự thể hiện tình cảm cá nhân. Thật ra mà
nói, về bản chất cả hai nền thơ ca đều mang đậm tính chất trữ tình đặc trưng phương Đông,
nhưng sự khác biệt là đối tượng để trữ tình, thơ ca Trung Quốc với truyền thống hiện thực
luôn để tâm đến chính trị - xã hội, trong khi đối tượng hướng đến của thơ ca Nhật Bản lại là
cái đẹp.
1.3.3 Phong cốt và vật ai – cốt tủy của trữ tình Trung Hoa và Nhật Bản
Nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang trong bài viết So sánh quan niệm văn học trong văn
học cổ điển Việt Nam và Nhật Bản đã có nhận xét rất đúng rằng, “đặc trưng của trữ tình
Nhật Bản là mononoaware, của Trung Quốc là “phong cốt”.
Có thể hiểu phong cốt chính là phong cách nghệ thuật của tác phẩm văn chương
hướng đến sự mãnh liệt tràn đầy của tình cảm gắn liền với sự mạnh mẽ cứng cáp của ngôn
từ. Đây chính là một đặc trưng của thơ ca Trung Quốc. Vì vậy mà thơ ca Trung Hoa có đau


11


buồn nhưng không có yếu đuối, với sự khắc chế của lý trí, khiến cho thơ giữ được tinh thần
mạnh mẽ.
Nhắc đến cảm thức thẩm mĩ đặc trưng của Nhật Bản, khái niệm mono no aware
thường được nói đến đầu tiên như là “khái niệm thẩm mĩ quan trọng nhất, nền tảng nhất của
văn học Nhật bản nói riêng và ý thức thẩm mĩ của dân tộc Nhật Bản nói chung”. Về cơ bản
các cách hiểu hầu như thống nhất rằng mono no aware là cảm thức rung động pha nỗi buồn
trước thế giới đẹp đẽ mà mong manh.
Nhìn chung, quan niệm của người Trung Quốc thiên về chuộng cái đẹp mạnh mẽ có
tính chất nam tính, trong khi cái đẹp mang tính chất nữ tính lại tiêu biểu cho quan niệm
thẩm mĩ của người Nhật. Nhưng dù là vẻ đẹp mạnh mẽ hay u buồn, thì thơ ca của hai nước
đều khởi phát từ một chữ tâm – khởi từ tấm lòng mà có sức cảm hóa vạn vật, tuy thơ ca
Trung Hoa thiên về chí – sự kiểm soát của lý trí nhiều hơn là thuần túy trữ tình như trường
hợp thơ ca Nhật Bản. Tất cả những điều này sẽ chi phối trong tuyệt cú và haiku để làm nên
sự đồng điệu cũng như khác biệt giữa hai thể loại thơ ca này.
CHƯƠNG 2: HỨNG THÚ TỰ NHIÊN, CẢM NGHIỆM NHÂN SINH VÀ SUY
TƯ TÔN GIÁO TRONG TUYỆT CÚ VÀ HAIKU
2.1 Hứng thú tự nhiên trong tuyệt cú và haiku
Nếu thiên nhiên chiếm địa vị danh dự trong tuyệt cú thì đạo của thơ haiku - haiku no
michi - là tìm về thiên nhiên. Thiên nhiên đã trở thành một phần không thể thiếu được trong
tâm hồn Nhật Bản, mà R. H. Blyth ghi nhận “thiên nhiên là một tôn giáo”. Trong thơ haiku
Nhật Bản, dấu ấn thiên nhiên bốn mùa được quy định thành những kigo (quý ngữ), còn
trong thơ tuyệt cú Trung Hoa, mặc dù không được quy định bắt buộc như trong haiku,
nhưng nó cũng trở thành “luật bất thành văn” mà các thi nhân tìm kiếm. Đó chính là cái gọi
là: “Nói đến cảnh vật, phải xem bốn mùa. Khí sắc xuân hạ thu đông, tùy thời sinh ý” ( Thi
cách – Vương Xương Linh).
2.1.1 Vẻ đẹp ý cảnh

Theo Khái niệm và thuật ngữ lý luận văn học Trung Quốc, ý cảnh là “một cảnh giới
nghệ thuật được hình thành từ sự hài hòa giữa tự nhiên rộng lớn và bức tranh cuộc sống
trong tác phẩm trữ tình thông qua những tình cảm và ý tứ rất phong phú, rất hàm súc của
nhà văn, có thể làm cho độc giả phải tưởng tượng và suy ngẫm nhiều hơn”. Ý cảnh hài hòa
12


là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Mặc dù ý
cảnh không phải là khái niệm quan trọng để dẫn thế giới thơ haiku Nhật Bản giống như đối
với tuyệt cú, nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra sự tương đồng khi mà haiku cũng nhấn mạnh
sự giao hòa giữa tâm và vật. Quả vậy, bước vào thế giới của haiku, cũng như tuyệt cú, ta bắt
gặp vẻ đẹp đa dạng của nhiều loại ý cảnh khác nhau, có vẻ đẹp của ý cảnh tinh tế hài hòa, có
vẻ đẹp của ý cảnh tịch tĩnh không hư, có vẻ đẹp của ý cảnh lớn lao kỳ vĩ cũng như có vẻ đẹp
của những ý cảnh đơn sơ… Tuy nhiên, vẻ đẹp ý cảnh của tuyệt cú và haiku có những điểm
khác biệt nhau. Thiên nhiên trong tuyệt cú cũng in đậm dấu ấn tâm thức văn hóa Trung Hoa
yêu chuộng cái đẹp lớn lao có tính chất tráng mĩ. Trong khi đó, tâm thức văn hóa Nhật Bản
trong haiku lại yêu chuộng cái đẹp nhỏ bé đời thường, vẻ đẹp buồn bi mĩ.
2.1.2 Thiên nhiên tượng trưng
2.1.2.1 Thiên nhiên và bước đi bốn mùa
Con người phương Đông sống chan hòa với thiên nhiên, vì vậy mà họ lắng lòng cảm
biết từng bức thông điệp của từng mùa. Bốn mùa xuân hạ thu đông, không hẹn mà nên đều
để lại những vết di trong tuyệt cú và haiku. Với haiku, nó còn được quy định thành nguyên
tắc thẩm mĩ bắt buộc là các kigo (quý ngữ) –theo đó mỗi hình ảnh thiên nhiên đều mang
theo thông điệp của các mùa. Mùa xuân với hoa anh đào, hoa mơ, mưa xuân, chim oanh,
mùa hạ với lá non, mưa rào, đỗ quyên, mùa thu với trăng thu, chuồn chuồn, tiếng côn trùng,
mùa đông với tuyết trắng, cây tùng… Những hình ảnh của thiên nhiên đi vào thơ ca làm
thức dậy những khoảnh khắc đẹp đẽ nhất, những kỷ niệm sâu lắng nhất trong tâm hồn.
2.1.2.2 Màu sắc, hương thơm và âm thanh tương ứng
Trong tuyệt cú và haiku ta còn gặp sự tương giao giữa các giác quan, làm nên một
cảm nhận đặc biệt về thế giới mà ở đó các sự vật nằm trong mối tương giao, màu sắc, thanh

âm, mùi hương tương ứng. Ở đó có mùi vị quả hồng trong một tiếng chuông, có ánh trăng
lên làm giật mình chim núi, có tiếng ve thấm cả vào đá núi… đánh thức một thế giới lúc nào
cũng tương thông. Thế giới tượng trưng đã làm cho tuyệt cú và haiku giàu tính ám thị, nội
dung rộng mở, gợi lên nhiều liên tưởng… làm cho thơ ca nhỏ bé về hình thức nhưng lại có
sức gợi mở vô tận về nội dung.
2.1.2.3 Tỷ đức và như như
Trong tuyệt cú, người đọc thường bắt gặp thế giới của trời rộng, núi cao, sông dài,
của nhật nguyệt, gió mưa, tinh tú… Nó rộng rãi, bao la như khát vọng của con người. Vì
13


vậy mà thế giới tự nhiên được nhăc đến cũng thường là những con vật kỳ vĩ như kình ngư,
đại bàng, hồng hộc… Nếu là thiên nhiên cây cỏ, thì cũng ưu ái cho những “đông thiên tam
hữu”, “tứ quý” cao quý như khí độ của người quân tử. Đó là thiên nhiên “tỷ đức”, mang
thông điệp những giá trị thẩm mĩ của Nho gia, vì vậy mà có sự phân biệt sang – hèn, quý –
tiện… rõ ràng. Trong khi đó, thế giới thơ haiku lại tràn ngâp những sự vật bình thường, bé
nhỏ, tồn tại bên nhau trong một vũ trụ không sai biệt.
2.2 Cảm nghiệm nhân sinh trong tuyệt cú và haiku
2.2.1 Bức tranh cuộc sống trong tuyệt cú và haiku
2.2.1.1 Vấn đề thân phận và tình cảm con người
Vấn đề thân phận con người bao giờ cũng là sự quan tâm hàng đầu trong văn học.
Trong xã hội phong kiến, cuộc sống của những con người bé nhỏ nạn nhân của xã hội bao
giờ cũng được nhà thơ ưu tiên phản ánh.
Trong tuyệt cú và haiku, chúng ta đều bắt gặp số phận của những người nông dân
chân lấm tay bùn với cuộc sống lao động vất vả của họ. Nhưng nếu trong thơ tuyệt cú, ta
nghe thấy những tiếng nói tố cáo, phản vấn gay gắt của những nhà nho lúc nào cũng quan
tâm tới thời cuộc, thì trong thơ haiku chúng ta thường nghe tiếng nói dịu dàng chia sẻ.
Trong xã hội phong kiến, phụ nữ là những người có thân phận nhỏ bé nhất và chịu nhiều
thiệt thòi. Nếu tuyệt cú quan tâm hơn đến số phận của người cung nữ, khuê phụ, thương phụ
thì đề tài kỹ nữ được ưu ái hơn trong haiku. Điều này không nằm ngoài dòng chảy văn hóa

của dân tộc Nhật vốn giàu yếu tố sắc tình – mà người kỹ nữ lại là những người hội tụ nhiều
tài hoa. Người ta cũng có thể gặp trong tuyệt cú và haiku những tình cảm muôn thuở của
con người, trong đó có tình quê, tình bạn, tình yêu, tình mẫu tử, phụ tử… So với tuyệt cú,
haiku có sự tự do hơn trong thể hiện những tâm tư tình cảm của con người . Có thể nhận thấy
các nhà thơ tuyệt cú và haiku đều quan tâm tới những vấn đề trần thế, trái tim rộng mở nặng
tình duy cảm mà không duy lí, nhưng nếu các nhà thơ Trung Hoa gắn liền tình yêu và ý
thiện thì thi nhân Nhật Bản lại để lòng vào tính thật và cái đẹp.
2.2.1.2 Hình ảnh quá khứ và cái nhìn hoài cổ thương kim
Một trong những đặc điểm nổi bật của thơ cổ điển phương Đông là hướng đến quá
khứ. Quá khứ là chuẩn mực của cái đẹp, là cái đẹp một đi không trở lại, là những mất mát
làm người phải chạnh lòng trước bể dâu.
14


Trong thơ tuyệt cú nhiều khi ta bắt gặp hình ảnh cuộc đời trong quá khứ ở mảng thơ
vịnh sử. Cảm hứng của nhà thơ thường là đi từ những dấu tích còn sót lại mà hoài niệm về
một quá khứ huy hoàng đã qua, mà suy tư về những hưng phế thịnh suy. Tìm về quá khứ
cũng là một cảm hứng chủ đạo trong thơ haiku. Bước vào thế giới nghệ thuật của tuyệt cú
và haiku, người đọc cảm giác như cần phải nhẹ chân mà bước, để dép bên ngoài để đi vào
một thế giới đẹp xưa tịch tĩnh trang nghiêm mà phảng phất hương thơm của nỗi u hoài.
2.2.1.3 Cái lớn lao và cái bình dị
Truyền thống lịch sử và văn hóa Trung Quốc khiến nhà thơ luôn hướng đến những đề
tài có tính chất lớn lao trong cuộc sống. Đó là những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc
gia dân tộc, đến số phận của nhân dân. Tuyệt cú mặc dù có cách phản ánh riêng nhưng cũng
không tách mình ra khỏi truyền thống ấy. Ngược lại với tuyệt cú, nhà thơ haiku thường quan
tâm nhiều hơn đến số phận của những con người bé nhỏ, để tâm đến những vẻ đẹp bình dị
của cuộc sống đời thường. Đó có thể là hình ảnh của một cậu bé học việc nằm mơ thấy đậu
chín trong ngày nghỉ, hay khoảnh khắc cậu bé xay gạo trong chốc lát ngừng tay ngắm
trăng… Những thông điệp từ thơ haiku để lại những đồng cảm nhẹ nhàng mà không kém
phần thấm thía trong tâm trí người đọc.

2.2.2 Sự thể hiện con người trong tuyệt cú và haiku
2.2.2.1 Con người vũ trụ
Trong tuyệt cú, ta thường gặp con người trong tư thế đăng cao, vọng viễn, bước lên
đài cao phóng tầm mắt ra xa mà ý thức được bản thân mình với tầm vóc lớn lao như trong
bài Đăng Quán Tước lâu của Vương Chi Hoán. Đó còn là con người hòa mình vào thiên
nhiên với tinh thần an nhiên tự tại, như trong bài Trúc lý quán của Vương Duy… Trong thơ
haiku con người có thể lắng nghe từng động tĩnh của thiên nhiên, hóa thân vào từng sự vật
bé nhỏ. Con người vũ trụ trong mối quan hệ nhất thể tương giao với tự nhiên là một đặc
điểm nổi bật của thơ cổ điển phương Đông, tinh thần ấy kết tinh đậm nét trong tuyệt cú
Trung Hoa và haiku Nhật Bản. Nhưng nếu trong tuyệt cú, con người hướng đến khát vọng
khẳng định sự tồn tại của mình, thì trong haiku ta có cảm giác con người đã tan biến vào vũ
trụ để xây dựng một thế giới tự nhiên như nó vốn có, như nó là.
2.2.2.2 Con người thế tục

15


Tuyệt cú chảy theo dòng thi cảm của truyền thống Trung Hoa nên con người trong
thơ lúc nào cũng quan tâm đến những vấn đề chính trị - xã hội. Chúng ta gặp trong tuyệt cú
những con người mang hoài bão lớn mong làm nên đại nghiệp, nặng lòng trước nỗi khổ của
nhân dân. Với thơ haiku, chúng ta lại bắt gặp con người bình dị an nhiên hòa điệu vào cuộc
sống đời thường theo kiểu tinh thần “hòa quang đồng trần”, đi giữa ánh sáng và cát bụi như
trong thơ Basho: Dưới hoa lao xao – chén canh đĩa cá – đều vương hoa đào (Nhật Chiêu
dịch). Nhưng dù để tâm đến những vấn đề lớn lao hay bé nhỏ, dù “tỏ chí”, “tỏ lòng” hay chỉ
đơn thuần thương cảm đời thường giản dị, tuyệt cú và haiku đều toát ra phong thái con
người phương Đông điềm tĩnh an nhiên.
2.3 Suy tư tôn giáo trong tuyệt cú và haiku
Một trong những đặc trưng hàng đầu của thơ ca cổ điền phương Đông, như Ríp-tin
và nhiều nhà nghiên cứu khác đã đề cập qua, đó chính là ảnh hưởng của các hệ tư tưởng. Đó
chính là vai trò của ba hệ tư tưởng hàng đầu Nho – Phật và Đạo, các hệ tư tưởng này tùy

theo khuynh hướng tiếp nhận của từng nước mà in bóng vào thơ ca đậm nhạt khác nhau.
2.3.1 Dấu ấn của Thiền
Dạng thức ngắn gọn của tuyệt cú và haiku khiến người đọc liên tưởng đến một công án
thiền. Thiền trong tuyệt cú tồn tại ở cả hai dạng: thiền lý và thiền vị, trong dạng thức 4 câu
nhà thơ trực tiếp phát biểu những kinh nghiệm thiền, hoặc bộc lộ gián tiếp bàng bạc trong
văn bản. Trong thơ haiku lại chủ yếu là thiền vị, các nhà thơ haiku không trực tiếp nói lên
những diệu ngộ về thiền, tất cả những chân lý ấy sẽ được bộc lộ qua hình tượng thơ ca mà
người đọc có thể tự mình lĩnh hội. Ở những bài tuyệt cú và haiku đặc sắc, ta không thấy dấu
vết của thiền lý, nó đã được tan ra, xuyên thấm trong hình tượng nghệ thuật, đạt đến cảnh
giới cao nhất của sự dung hợp thiền – thi.
Ảnh hưởng của Thiền có thể dễ dàng nhận thấy trong cái nhìn về cuộc đời và thế
giới. Đó là cái nhìn vô thường. Vì biết cuộc đời là vô thường nên Thiền rất nhạy cảm nắm
bắt khoảnh khắc. Một khoảnh khắc, rất ngắn ngủi thôi, trong cuộc đời trôi chảy nhưng cũng
đủ thoáng hiện cả một thế giới. Thiền khiến cho nhà thơ hướng đến thiên nhiên trong cái
nhìn hòa hợp tương giao. Ta gặp trong tuyệt cú và haiku một thiên nhiên – thiền với cái nhìn
bình đẳng không sai biệt, con sâu, chú ốc sên nhỏ, chú chuồn chuồn, một bông hoa hồn
nhiên – nở rụng… đều tìm thấy lý do tồn tại của nó trong cuộc đời này.
2.3.2 Vai trò của Đạo
16


Trong tuyệt cú, người đọc nhận ra dấu vết của Đạo trong những vần thơ hướng về
thiên nhiên mà tìm lẽ nhàn, trong những vần thơ vui với đạo nhẹ nhàng đạm bạc. Đọc thơ
haiku, ngoài dấu ấn triết lý Thiền sâu thẳm, người đọc còn dễ dàng nhận ra dấu ấn của tư
tưởng Đạo giáo. Khi nghiên cứu Basho, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy mối liên hệ giữa thơ
haiku và Trang Tử. Ảnh hưởng ấy được thể hiện trên các phương diện: thoải mái hài hước,
vạn vật thiên lại, hồi quy tạo hóa, tự nhiên – phong nhã “thuận tùy tạo hóa, dĩ tứ thời vi
hữu”, vô vi – tự nhiên.
2.3.3 Ảnh hưởng của Nho
Khi phân tích những đặc điểm khác biệt của tuyệt cú so với haiku trên đây, dù ít dù

nhiều chúng tôi đều nhận thấy sự chi phối của hệ tư tưởng này. Ở đây chúng tôi bàn thêm về
ảnh hưởng của Nho giáo trong thơ haiku. Có thể thấy rằng mặc dù Thiền vẫn là hệ tư tưởng
chủ đạo ảnh hưởng trong haiku, nhưng thật ra ở haiku vẫn có sự hài hòa của các hệ tư tưởng
khác nhau. Nho giáo bản xứ, lọc qua cái nhìn của con người xứ sở hoa anh đào, đã mất đi
phần ý nghĩa xã hội trong khi vẫn giữ lại phần ý thức cá nhân, đã nhạt phần ý nghĩa giáo
hóa để giữ lại tiếng nói của cảm xúc và cái đẹp hài hòa hình thức và nội dung. Trong haiku,
mặc dù người đọc thường nhận thấy tư tưởng Thiền nổi trội, nhưng vẫn đậm nhạt tư tưởng
vô vi, phiêu dật của Đạo, và tinh thần an bần lạc đạo của Nho gia.
Chương 3: VẺ ĐẸP NGHỆ THUẬT THƠ TUYỆT CÚ VÀ HAIKU
3.1 “Dĩ thiểu kiến đa” – “sự tình vắn tắt” hay sự phù hợp giữa nội dung và hình
thức của tuyệt cú và haiku
3.1.1 Sự phong phú của tuyệt cú và sự đơn thuần của haiku về phương diện đề tài
Với số câu chữ ít ỏi, tuyệt cú có một hạn chế so với những thể loại thơ ca khác trong
phản ánh hiện thực. Tuyệt cú không có được chiều dài tự do của cổ phong để có thể chứa
đựng một bức tranh xã hội rộng lớn nhiều chiều, hay như luật thi để có được một cái nhìn
bao quát hoàn chỉnh. Mặc dù khuôn khổ nhỏ bé, nhưng tuyệt cú lại có một phạm vi đề tài
hết sức dồi dào. So với tuyệt cú, đề tài trong thơ haiku có phần đơn thuần hơn. Nếu tư tưởng
Nho gia chi phối suốt chiều dài của lịch sử văn học Trung Quốc hướng thi nhân đến cái nhìn
hướng thiện trong khát vọng hoàn thiện bản thân và xã hội từ cỗi rễ “tu thân” thì truyền
thống thẩm mĩ Nhật Bản khiến các nhà thơ haiku Nhật Bản dường như không để tâm mấy

17


đến những vấn đề thế sự mà thường ưu ái đi tìm những cái đẹp trong thiên nhiên và thế giới
con người.
3.1.2 Lát cắt của đời sống hay là phương thức xử lý không gian
Với những đề tài quen thuộc mà cũng hết sức bộn bề của cuộc sống, tuyệt cú và
haiku chọn cho mình cách thức rất riêng trong xử lý đề tài. Không ôm trọn bức tranh rộng
lớn như những bài thơ có dung lượng dài, tuyệt cú và haiku chọn cho mình một thời điểm,

một lát cắt của không gian, thời gian và tâm trạng. Vì vậy, sức phản ánh của tuyệt cú và
haiku đi vào bề sâu hơn là chiều rộng. Như Trần Bá Hải trong Đường thi học dẫn luận đã
chỉ ra: “Tới thời đại nhà Đường, do sự định hình hóa luật thi, tuyệt cú, bốn câu, tám câu
thành bài đã thành lệ thường, các kiểu thể thơ theo hình thức mới này càng thịnh hành, cũng
vì vậy mà cấu tạo ra một kiểu thủ pháp biểu hiện “chọn mặt cắt ngang” […]. Chúng phần
lớn lược bỏ đi mối quan hệ chuyển tiếp đầu cuối, tập trung phản ánh cảm nhận tâm linh
trong một sát na của thi nhân, cả bài thơ chỉ như một bức họa hoặc vài nốt nhạc”.
Để làm được điều này, các nhà thơ đã tìm ra một con đường riêng trong phản ánh
hiện thực. Trước hết là ở điểm nhìn. Sự vật hiện tượng có thể được soi chiếu từ nhiều góc độ
khác nhau, tuyệt cú thường tránh điểm nhìn trực diện mà hướng vào mặt bên, mặt trái của
nó để xem xét. Xuất phát từ điểm nhìn ấy, các tác giả tuyệt cú thường không sử dụng nhiều
chi tiết mà chọn ra vài điểm nào đó của hiện thực, tập trung làm nổi bật nó, như vẽ mắt cho
rồng để bức tranh hiện ra lung linh, sống động, có thần.
Nhưng nếu trong cách xử lý đề tài của tuyệt cú, để đạt đến sự tinh giản tối đa tuyệt cú
thường lược bỏ để chọn ra những chi tiết đắt giá mang tính khái quát cao, thì haiku dường
như lại vẫn giữ lại những chi tiết đơn sơ mang tính cụ thể sinh động. Nói cách khác, sự ít
nét của tuyệt cú là sự tinh giản đạt đến trình độ bậc thầy thì haiku lại đưa cho người đọc cảm
giác tươi tắn nguyên sơ của cuộc đời như nó vốn có.
3.1.3 Thơ ca của khoảnh khắc hay là năng lực làm chủ thời gian
Có thể nói tuyệt cú và haiku đều là thơ của khoảnh khắc. Nếu các thể thơ dài có ưu
thế trong việc tự sự nội dung theo trình tự thời gian thì tuyệt cú và haiku chính là một
khoảnh khắc dồn nén và bùng nổ của cảm xúc.
Bởi vì nhỏ bé, nên tuyệt cú không thể tự sự theo dòng chảy của thời gian. Cách mà
các nhà thơ tuyệt cú đã làm là nắm giữ những khoảnh khắc, trong cái khoảnh khắc ấy nắm
giữ cái vô cùng. Khoảnh khắc tiết lộ bản chất của cuộc sống. Tuyệt cú hay sử dụng những từ
18


như “hốt” (bất chợt), “thử” (lúc này), “kim” (nay)... Điều này thể hiện tính chất “kí sự trữ
tình” của tuyệt cú. Tuyệt cú ghi lại một khoảnh khắc của cảm xúc, ấn tượng, gắn với một

thời điểm cụ thể, một địa điểm cụ thể, khoảnh khắc mà vĩnh hằng.
Khi nói đến thơ haiku, các nhà nghiên cứu thường gọi haiku là thơ của khoảnh khắc.
Đó là năng lực nắm bắt trong khoảnh khắc của nhà thơ có thể cảm biết được bản chất của
thế giới sự vật hiện tượng. Nhà thơ haiku thường tập trung cao độ để lắng nghe những động
tĩnh của thiên nhiên, vì vậy mà có thể cảm biết được khoảnh khắc của một đóa hoa rơi, bóng
diệc lướt qua trong cái lóe sáng của một tia chớp… khoảnh khắc mà vĩnh hằng, mà nói được
bao nhiêu thông điệp không lời của cuộc sống.
3.2 Âm luật
3.2.1 Những đặc thù về mặt âm học của ngôn ngữ dân tộc
Điểm khác biệt dễ nhận thấy nhất là tiếng Hán là ngôn ngữ đơn âm còn tiếng Nhật là
ngôn ngữ đa âm. Đặc trưng đơn âm của tiếng Hán trở thành một lợi thế nhất định cho sự hài
hòa ngữ âm trên cơ sở một đối một tạo thành đòn cân thanh điệu, vì vậy mà đối ngẫu trở
thành một đặc điểm quan trọng hàng đầu của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Nhạc tính được coi
là vẻ đẹp hàng đầu của thơ Đường nói chung và thơ tuyệt cú nói riêng. Nhiều nhà nghiên
cứu đã nhận ra đặc điểm ngữ âm Nhật Bản có những hạn chế so với ngôn ngữ của nhiều dân
tộc khác, như chính người Nhật đã nhận ra. “Nếu nhìn từ góc độ ngữ âm học thì có thể thấy
rằng số lượng âm trong tiếng Nhật là ít so với các ngôn ngữ khác và khá đơn điệu”. Sự
nghèo nàn về nhạc điệu của thơ haiku khiến cho thơ thiếu vắng sức mạnh biểu hiện của âm
nhạc, vì vậy nó phải tìm kiếm khả năng biểu hiện ở một cấp độ khác. Nhưng thật ra mà nói,
sự đơn giản của haiku lại biến thành một kiểu vẻ đẹp khác, vẻ đẹp của sự giản đơn, để lại
những khoảng trống của cảm xúc cho người đọc tự lấp đầy.
3.2.2 Âm số ít oi hay là sự tinh giản của thơ ca
Về mặt âm số, cả về tuyệt cú và haiku, đều ngắn. Tuyệt cú trong khoảng 20 đến 28
âm tiết, và haiku – 17 âm. Sự ngắn gọn có thể coi là một đặc trưng nổi bật của thơ ca
phương Đông, trong số ngôn từ ít nhất thể hiện được ý nghĩa hàm súc sâu xa. Nhưng 20 âm
tiết (ngũ ngôn tuyệt cú) hay 28 âm tiết (thất ngôn tuyệt cú) của thể thơ dân tộc Trung Hoa
được tổ chức theo quy luật cân xứng – số chữ trong mỗi câu đều bằng nhau, trong khi 17 âm
của haiku được quy định thành 3 dòng 5-7-5. Vì vậy mà tuyệt cú để lại ấn tượng về vẻ đẹp
19



của sự tề chỉnh cân xứng, trong khi haiku lại mang lại cảm giác chông chênh, nhiều khoảng
trống, một kiểu fuukinsei (bất quân chỉnh) mang đậm dấu ấn mỹ học truyền thống của dân
tộc Nhật.
3.2.3 Âm vận hài hòa của tuyệt cú và sự đơn thuần đạm bạc của haiku
Đọc một bài tuyệt cú, người đọc cảm nhận được một bản hòa âm hài hòa tuyệt diệu
của âm điệu thì với haiku lại là là sự giản đạm bình hòa. Trong đó yếu tố nhịp điệu của tuyệt
cú thường được tổ chức theo quy luật chẵn lẻ (2/3, 4/3 hoặc 2/2/3) thì vai trò tạo nhịp của
haiku không nằm ở khoảng dừng ngắt giữa các từ mà vai trò đó được trao cho từ chuyên
dụng, đó là kire-ji (thiết tự). “Kire-ji góp phần tạo nên nhịp điệu và cấu trúc của thơ haiku,
xác định ý nghĩa của bài thơ và giữ vai trò quan trọng trong việc định hình thơ haiku”.
Thơ ca Trung Quốc mà tuyệt cú là tiêu biểu – rất xem trọng thanh luật. Tuyệt cú tồn
tại ở hai dạng: cổ tuyệt và luật tuyệt, con đường diễn tiến từ cổ tuyệt sang luật tuyệt là con
đường quy phạm hóa những tiêu chuẩn thơ ca, mà cuối cùng là hướng đến sự hài hòa tuyệt
diệu nhất – trước hết là về mặt âm luật. So với tuyệt cú, haiku lại mang vẻ đẹp đơn thuần
của âm vận, trôi chảy tự nhiên tùy theo cảm xúc, không gò bó, vì vậy mà cũng có nhiều
khoảng trống hơn để bộc lộ.
3.3 Từ ngữ và kết cấu
3.3.1 Ý tượng giản đơn và danh từ thiện mĩ
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra tuyệt cú đã sử dụng một vốn ngôn ngữ hết sức nhỏ bé,
sử dụng chủ yếu là thực từ, rất ít sử dụng hư từ. Với haiku, đó là sự tinh giản đến độ được
gọi là “haiku của danh từ”. Ta thường gặp những bài thơ gần như là được tạo nên bởi danh
từ trong haiku, cũng tương tự như vậy, hiện tượng những câu thơ ngoài danh từ ra không
còn thành phần nào khác trong tuyệt cú. Sự thống nhất giữa sự vật với ý nghĩa hàm ẩn bên
trong đã hình thành nên kiểu ngôn ngữ ý tượng – một đặc trưng hàng đầu của thơ ca cổ
điển. Ý tượng (image) và hơn thế nữa, là ý tượng giản đơn (simple image) là một đặc điểm
nổi bật của thơ ca cổ điển Trung Hoa nói riêng - và chúng ta có thể mở rộng hơn, là thơ ca
cổ điển của các nước Á Đông, bao gồm cả Nhật Bản và Việt Nam. Sự không liên tục của cú
pháp khiến cho câu thơ, bài thơ có rất nhiều khoảng trống, tạo nên sự mơ hồ, đa nghĩa mà
người đọc phải tự mình lấp đầy. Loại ý tượng giản đơn này hầu hết xuất hiện dưới hình thức

tính từ - danh từ hoặc danh từ - danh từ.
20


Có thể nhận thấy đặc trưng chung của cả tuyệt cú và haiku là ít dùng tính từ tu sức, vì
vậy mà ý tượng thơ thiên về gợi hơn là tả. Thơ haiku càng có khuynh hướng dùng nhiều
danh từ độc lập hơn tuyệt cú, vì vậy mà sức gợi, khoảng trống… cũng nhiều hơn. Nhà thơ
chú ý hơn trong việc tạo nên những danh từ thiện mỹ - giàu sức ám thị, thường được tạo nên
bởi cấu trúc danh từ +no +danh từ. Tính chất hàm súc của tuyệt cú và haiku còn ở chỗ rất
độc đáo là, ngay cả những từ được dùng để tu sức, tuyệt cú và haiku cũng ít tạo nên ấn
tượng thị giác về sự vật hiện tượng.
3.3.2 Các thủ pháp nghệ thuật
3.3.2.1 Các thủ pháp tỉnh lược
Có thể nói tỉnh lược chính là thủ pháp hết sức quan trọng để làm nên vẻ đẹp hàm súc
của tuyệt cú và haiku. Do tỉnh lược mà các quan hệ ngữ pháp yếu đi, người đọc phải tổ hợp
lại theo cách của mình, vì vậy mà câu thơ trở nên mơ hồ và đa nghĩa.
Tỉnh lược trong tuyệt cú và haiku trước hết là tỉnh lược đại danh từ.
Nhiều nhà nghiên cứu đã nói về tính chất vô ngã trong thơ cả cổ điển phương Đông,
khi nhà thơ tránh nhắc đến cái tôi của mình trong bài thơ. Bởi vì không nhắc đến chủ thể
của hành động – cảm xúc, nên mời gọi người đọc bước vào cùng cảm nhận thế giới. Bởi
thiếu chủ thể, nên chủ thể có thể là bất cứ ai trong tuyệt cú, và trong haiku thì chúng ta lại
thấy sự tồn tại của một thế giới tự nó.
Tỉnh lược trong tuyệt cú và haiku còn là tỉnh lược hư từ. Sự tỉnh lược mạnh này của
tuyệt cú và haiku là cho các quan hệ ngữ pháp bị yếu đi, vì vậy mà những kiểu liên kết khác
nhau được thiết lập tùy thuộc vào khả năng liên tưởng của nhà thơ. Điều này đưa đến không
ít trường hợp cùng một văn bản mà cách hiểu của người đọc không giống nhau và văn bản
thơ vì vậy mà có tính đa nghĩa.
3.3.2.2 Các thủ pháp liên tưởng
Liên tưởng thường được thực hiện trên ba thủ pháp tương ứng: nhân hóa, so sánh, ẩn
dụ. Trong ba thủ pháp này, ẩn dụ chính là thủ pháp đem lại nhiều khoảng trống, nhiều sức

gợi nhất trong tuyệt cú và haiku. Và khi ẩn dụ trở thành một thông điệp thẩm mĩ cho cái
trừu tượng thì nó trở thành tượng trưng.

21


Trong nhiều bài thơ tuyệt cú, ta được gặp sự liên tưởng bay bổng của nhà thơ, nối kết
những sự vật tưởng rất xa nhau trong không gian và trong bản chất. Thậm chí trong một bài
thơ, tài “nhả ngọc phun châu” của nhà thơ được thực hiện bằng những liên tưởng chồng chất
vô cùng độc đáo. Có thể gặp trong tuyệt cú rất nhiều những liên tưởng độc đáo như vậy. Có
khi nhà thơ thực hiện thủ pháp nhân hóa để mượn sự vật nói thay tâm trạng của con người.
Có thể nói, trong khuôn khổ nhỏ bé của một bài tuyệt cú, lại là nơi để các nhà thơ phô diễn
tài năng sử dụng ngôn ngữ của mình, vì vậy mà tuyệt cú là mảnh đất cho những liên tưởng
độc đáo, đem lại những hình ảnh thơ mỹ lệ.
So với tuyệt cú, cơ chế liên tưởng của tuyệt cú của haiku thường được thực hiện theo
cách ngầm ẩn – tự nó. Như H. G. Henderson đã chỉ ra, tính chất nối bật của haiku chính là
tỷ dụ không tường minh. Haiku rất ít sử dụng thủ pháp so sánh, có chăng là sử dụng biện
pháp ẩn dụ - để người đọc tự liên hệ ra mối liên hệ giữa sự vật và hiện tượng. Thay vào đó,
haiku lại sử dụng thường xuyên biện pháp nhân hóa. Nhưng nhân hóa trong haiku không
giống với tuyệt cú. Nếu trong tuyệt cú biện pháp nhân hóa thường được dùng để thể hiện
tâm trạng của con người, thì nhân hóa trong haiku lại gây ấn tượng cho chúng ta về một thế
giới bình đẳng.
3.3.3 Kết cấu mở hay khoảng trống trong thơ
3.3.3. 1 Cảm thán và nghi vấn
So với luật thi, tuyệt cú không quy định bắt buộc về đối ngẫu, vì vậy mà các dạng câu
cũng trở lên biến hóa và linh hoạt từ khẳng định, phủ định, cầu khiến đến cảm thán và nghi
vấn. Sự biến hóa này khiến cho bài thơ không đơn điệu, đặc biệt là trọng tâm bài thơ dồn
vào nửa cuối, thì kiểu kết bài bằng câu nghi vấn và cảm thán có hiệu quả đặc biệt để đưa
người đọc bước vào thế giới của bài thơ. Nếu cảm thán là câu có giá trị khơi gợi cảm xúc thì
nghi vấn lại là câu đánh mạnh vào cả tâm hồn và tư tưởng, mời gọi người đọc đồng tình, suy

ngẫm vấn đề mà nhà thơ đặt ra. Đây cũng là dạng câu thường được sử dụng trong bài thơ
haiku. Trong tuyệt cú, đó là những kết cấu hà tu (cần gì), bất tri (chẳng biết), thùy (ai), thùy
nhân (người nào), hà xứ (nơi nào), kỷ (mấy), kỷ hồi (mấy lần), hà nhật (ngày nào), kỷ xứ
(mấy nơi)… Trong haiku, ta tường gặp cấu trúc ka… ka… (hay) như một nỗi mơ hồ ngạc
nhiên. Nếu những câu hỏi của tuyệt cú mang tính chất day dứt đầy những ám ảnh nhân thế
22


buộc người đọc phải suy nghĩ, thì những câu hỏi của haiku đánh thức những bối rối mơ hồ
rất thi sĩ. Kiểu bối rối trước bản chất dường có dường không của cuộc đời này, nhất là
những cảm xúc mơ hồ khi đối diện với cái đẹp.
3.3.3.2 Trùng điệp và đảo trang
Gần như có một hiện tượng nghịch lý tồn tại trong thơ tuyệt cú và haiku đó là, một
mặt tuyệt cú và haiku tước bỏ hết những yếu tố dư thừa để đạt đến sự cô đọng tinh túy nhất,
mặt khác nhà thơ cũng không ngại lặp lại để tạo ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn người đọc.
Tính dồn nén hàm súc cao độ của tuyệt cú đặc biệt thể hiện ở kiểu câu trùng điệp danh từ câu được kết cấu bởi những danh từ liên tiếp chồng lên nhau. Chúng ta gặp kiểu câu thuần
danh từ này rất phổ biến trong tuyệt cú: Giang thành/ ngũ nguyệt/ lạc mai hoa, Lan Khê/
tam nhật/ đào hoa vũ… Tài hoa của các nhà thơ tuyệt cú còn ở chỗ so sánh trùng điệp,
chồng chất các thi ảnh lên nhau làm mở rộng không gian. Chẳng hạn bài thơ của Lý Ích:
Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết – Thụ Hàng thành ngoại nguyệt như sương (Dạ thướng Thụ
Hàng thành văn địch I).
So với tuyệt cú, haiku có sự đơn giản hơn, các thủ pháp ngôn ngữ không được tiến
hành một cách công phu để tạo nên một bức tranh đẹp hoàn hảo, mà nhà thơ tìm đến sự đơn
giản, tự nhiên của ngôn ngữ. Nhưng không có nghĩa là khả năng biểu hiện của ngôn ngữ
không được khai thác một cách tài hoa. Sự lặp lại về hình ảnh, âm thanh trong một câu thơ
ngắn gọn đã để lại ấn tượng rất mạnh về sự vật hiện tượng. Và như vậy, mặc cho sự giản
đạm bình hòa của ngữ âm, haiku vẫn có một khả năng biểu đạt vô cùng phong phú, tạo ấn
tượng về một thế giới tự nó.
Trong cấu trúc của một bài tuyệt cú, như có nhà nghiên cứu đã chỉ ra: “Chức năng
quan trọng của câu kết vừa là thâu tóm ý toàn bài vừa nâng vấn đề lên tầm nhận thức mới

mẻ, sâu sắc hơn hoặc hé mở một tâm trạng, một nỗi niềm kín đáo”. Tương tự như vậy là
trong thơ haiku, vai trò quan trọng thuộc về câu cuối, vì vậy mà trọng tâm của bài thơ, và
cũng chính là danh từ trung tâm, thường được đặt ở vị trí này. Nếu danh từ, với vai trò là
chủ ngữ, thường nằm ở đầu câu, thì trong nhiều trường hợp với tuyệt cú và haiku, chúng ta
lại thấy ngược lại. Khi nhà thơ cố tình đảo trật tự câu, thì sẽ tạo được ấn tượng mạnh về sự
xuất hiện của sự vật hiện tượng.

23


Có thể lấy nhận xét của Hồ Á Mẫn để khái quát về vẻ đẹp của nghệ thuật thơ cổ điển
phương Đông – trong đó có tuyệt cú và haiku: “Thơ ca quý ở hàm súc, không ưa nói thẳng.
Hàm súc không phải là không muốn cho người ta hiểu mà là bất tất phải nói rõ, dùng tính
khêu gợi, tính ám thị của ngôn ngữ để gợi lên trí tưởng tượng của độc giả, để tự họ thể hội
và phát hiện ý tứ sâu xa của tác phẩm. Thơ ca cổ điển […] coi trọng ý tại ngôn ngoại, hết
lời mà ý vẫn còn, tức là yêu cầu thơ ca dùng câu chữ có hạn để gợi lên sức tưởng tượng
phong phú của độc giả”.

KẾT LUẬN
Tuyệt cú và haiku đều là những thể loại tinh hoa của thơ cổ điển phương Đông với
những đặc trưng riêng, là kết quả của quá trình phát triển tinh kết dài lâu tiêu biểu cho thơ
ca của hai dân tộc Trung Hoa và Nhật Bản.
Một trong những đặc điểm nổi bật của thơ ca cổ điển phương Đông là vai trò đặc biệt
của thiên nhiên, khi đi vào tuyệt cú và haiku biểu hiện thành vẻ đẹp của ý cảnh tinh tế, hài
hòa, tịch tĩnh, không hư…mà vẫn có sự khác biệt giữa mạnh mẽ và nhẹ nhàng, lớn lao và
nhỏ bé, mang tính đạo đức và tự nó… Đặc trưng của thơ cổ điển còn thể hiện ở sự nặng
lòng với những vấn đề nhân sinh, dù là tinh thần nhập thế khát khao hành động như ở tuyệt
cú hay kiếm tìm cái đẹp đời thường như ở haiku thì đều là những cảm nghiệm tinh tế sâu
sắc làm bật lên bản chất cuộc sống cũng như tình người vô hạn. Đó còn là hình ảnh con
người phương Đông, là con người vũ trụ và con người thế tục, vừa có tầm vóc lớn lao, khát

vọng vô cùng hòa mình cùng trời đất, vừa bình dị thu liễm tan biến như không. Dấu ấn của
thơ cổ điển phương Đông còn ở những suy tư tôn giáo với sự dung hòa của Nho – Phật –
Đạo làm nên chiều sâu thâm trầm về tư tưởng mặc dù ảnh hưởng đậm nhạt của mỗi hệ tư
tưởng ở hai thể loại là khác nhau.
Tuyệt cú và haiku kết tinh cho vẻ đẹp nghệ thuật của thơ ca cổ điển phương Đông mà
nổi bật nhất là tính hàm súc, điển nhã và hài hòa. Vẻ đẹp này được thể hiện qua nghệ thuật
xử lý không gian – thời gian, sử dụng ngôn ngữ cũng như các thủ pháp nghệ thuật trên
nhiều cấp độ. Cả hai đều là thơ ca của khoảnh khắc, lựa chọn những lát cắt để làm nổi bật
24


nội dung, linh hoạt tài tình trong cách dùng từ, tỉnh lược, đảo trang… để trong dạng thức
nhỏ bé nhất có sức mạnh biểu hiện tối đa. Trong đó, tuyệt cú nghiêng về vẻ đẹp cân bằng,
chững chạc, đối xứng… trong khi haiku tìm đến sự tự nhiên, bình dị. Dù ở dạng thức nào,
tuyệt cú và haiku đều là những thể thơ để lại “dư vị”, “dư tình”, với khoảng trống rộng rãi
cho người đọc tưởng tượng, đồng sáng tạo.
Luận án có thể mở rộng theo các hướng: so sánh ngôn ngữ nghệ thuật của hai thể
loại, sánh với một số thể thơ cổ điển phương Đông khác, so sánh dấu ấn của mĩ học Thiền
trong thơ ca cổ điển Á Đông, so sánh diễn tiến hai thể loại thơ ca vượt ra khỏi khuôn khổ cổ
điển… Cuối cùng, trong dòng chảy vội vàng của cuộc sống hiện đại, luận án là một thoáng
hoài cổ, như một lời mời gọi nhỏ nhoi, bước vào vườn hoa thơ xưa, trong một thoáng lắng
lòng, nhận biết… mà tìm thấy đóa hoa của riêng mình - nở từ trái tim.

25


×