Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

CHẤT LƯỢNG mối QUAN hệ TRONG KINH DOANH TRƯỜNG hợp các DOANH NGHIỆP LOGISTICS ở VIỆT NAM TT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------------

NGUYỄN THỊ THANH VÂN

CHẤT LƯỢNG MỐI QUAN HỆ
TRONG KINH DOANH:
TRƯỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP LOGISTICS
Ở VIỆT NAM

Chun ngành:

Quản trị kinh doanh

Mã số:

62.34.05.01

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018


Công trình được hoàn thành tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Hồ Thanh Phong và PGS.TS. Bùi Thị Thanh
Phản biện 1: ............................................................................
Phản biện 2: ............................................................................
Phản biện 3: ............................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp


tại ..................................................................................................
Vào hồi..........giờ..........ngày...........tháng..........năm
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện trường Đại học Kinh tế TP.HCM


1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Bối cảnh và lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Xét trong bối cảnh lý thuyết chất lượng mối quan hệ trong kinh doanh là
khái niệm đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu. Luận án tiến hành
khảo lược các nghiên cứu liên quan, cho thấy:
Những nghiên cứu về mô hình chất lượng mối quan hệ ở các nền kinh tế
chuyển đổi như Việt Nam là rất hiếm (Hoàng Lệ Chi, 2013). Athanasopoulou
(2009, trang 605) đề nghị “để khái niệm chất lượng mối quan hệ mang tính tổng
quan hơn, thì nó cần được nghiên cứu ở những ngành nghề khác nhau và ở
những nền văn hóa khác nhau”.
Các nghiên cứu ở môi trường Việt Nam dù không nhiều nhưng chất
lượng mối quan hệ cũng được quan tâm và nghiên cứu từ khá sớm. Tuy nhiên
các nghiên cứu mới chỉ tập trung ở một số lĩnh vực nhất định, trong đó ngành
logistics chưa được đề cập đến. Trong bối cảnh của nền kinh tế chuyển đổi Việt
Nam và của ngành logistics có thể khám phá những điểm mới khi nghiên cứu về
chất lượng mối quan hệ.
Nghiên cứu về chất lượng mối quan hệ trong lĩnh vực logistics, chuỗi
cung ứng cũng cho thấy nhiều nghiên cứu liên quan, trình bày về các nhân tố tác
động đến chất lượng mối quan hệ giữa bên mua và bên bán dịch vụ logistics,
trong chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, với bối cảnh mỗi quốc gia khác nhau, tồn tại
đặc thù riêng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nên vẫn có thể khám phá
những nhân tố mới tác động đến chất lượng mối quan hệ.
Xét trong bối cảnh thực tiễn, ở Việt Nam, theo Chiến lược tổng thể phát

triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020, ngành dịch vụ logistics được
nhấn mạnh là yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển sản xuất hệ thống phân phối
các ngành dịch vụ khác và lưu thông hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu.
Như vậy, thị trường dịch vụ logistics ở Việt Nam còn hứa hẹn nhiều tiềm năng
phát triển và cũng có những đặc thù riêng.


2

Lý thuyết nền và khoảng trống trong lý thuyết chất lượng mối quan hệ
Barringer và Harrison (2000) cho rằng các doanh nghiệp có hàng loạt
những lý do khác nhau để dẫn đến mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ví dụ như
tối thiểu hóa chi phí, hoặc chia sẻ rủi ro, hoặc bổ sung nguồn lực cho doanh
nghiệp, cũng có thể là nhiều lý do cùng một lúc. Do đó, nếu xem xét chỉ một lý
thuyết để dẫn đến chất lượng mối quan hệ sẽ là phiến diện, mà cần thiết kết hợp
các lý thuyết để có thể xem xét mối quan hệ kinh doanh trên nhiều quan điểm,
đó cũng là cách để phát triển và thử nghiệm các lý thuyết mới.
Bolumode và cộng sự (2007) đã đứng trên nhiều góc độ của các lý thuyết
khoa học xã hội nhằm xác định khung phân tích cho lĩnh vực thuê ngoài
logistics, theo đó, nghiên cứu đã nhấn mạnh khi xem xét lý do dẫn đến mối quan
hệ của doanh nghiệp với doanh nghiệp logistics thì cần xem xét ba lý thuyết nền
tảng đó là lý thuyết phụ thuộc nguồn lực (resource dependence theory - RDT) và
lý thuyết mạng (network theory - NT). Nghiên cứu của Bolumode đã cung cấp
một khung lý thuyết hoàn chỉnh và thực tế hơn, từ đó Bolumode đề nghị các
nghiên cứu sau này có thể dựa vào khuôn khổ lý thuyết này để xây dựng mô
hình và phân tích bằng các dữ liệu nghiên cứu cụ thể. Do đó, luận án này sẽ kế
thừa gợi ý của Bolumode để làm nền tảng nghiên cứu.
Kế thừa từ kết luận của những nghiên cứu trên, tác giả nhận thấy một
khoảng trống cần được tiếp tục nghiên cứu là dựa vào khuôn khổ lý thuyết được
đề nghị bởi Bolumode và cộng sự (2007), luận án sẽ vận dụng ba lý thuyết TCE,

RDT và NT để xác định các nhân tố tác động đến chất lượng mối quan hệ, kiểm
định cho trường hợp doanh nghiệp sử dụng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
logistics, đặc biệt xem xét trên các khía cạnh văn hóa, môi trường kinh doanh
cũng như đặc trưng riêng có của ngành logistics ở một quốc gia chuyển đổi là
Việt Nam. Từ đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Chất lượng mối quan hệ
trong kinh doanh: Trường hợp các doanh nghiệp logistics ở Việt Nam”.


3

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Từ vấn đề nghiên cứu được giới thiệu ở trên, với việc nghiên cứu lý
thuyết nền từ đó xác định mục tiêu tổng quát là chất lượng mối quan hệ trong
kinh doanh. Cụ thể hơn nghiên cứu này được thực hiện để đạt hai mục tiêu chính
sau đây:
(1) Xác định các nhân tố tác động đến chất lượng mối quan hệ giữa doanh
nghiệp sử dụng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics;
(2) Kiểm định tác động của chất lượng mối quan hệ đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp sử dụng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics.
Từ kết quả nghiên cứu đó, một số hàm ý kiến nghị được đề xuất nhằm
giúp các doanh nghiệp trong ngành logistics hình thành và phát triển chất lượng
mối quan hệ, cũng như hàm ý chính sách với Nhà nước trong vai trò “đòn bẩy”
hỗ trợ cho ngành logistics.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Từ mục tiêu trên, tác giả tập trung vào các khái niệm chất lượng mối quan
hệ giữa doanh nghiệp sử dụng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, kết
quả kinh doanh dựa trên lý thuyết chi phí giao dịch, lý thuyết phụ thuộc nguồn
lực và lý thuyết mạng.
Các lập luận trong luận án đều được xem xét trên cả hai góc độ: người sử
dụng dịch vụ và người cung cấp dịch vụ logistics. Tuy nhiên, do giới hạn về thời

gian và kinh phí nên tác giả chọn đối tượng tham gia khảo sát là các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ logistics trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đồng
thời sử dụng những câu hỏi để đo được cảm nhận của các doanh nghiệp logistics
về đối tác của họ trong cùng nội dung, từ đó có thể đạt được thông tin giả định
từ hai phía đối tượng: doanh nghiệp sử dụng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
logistics.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Nguồn số liệu:


4

Số liệu là số liệu sơ cấp, được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn sâu
và khảo sát qua bảng số liệu.
Quy trình nghiên cứu và phương pháp phân tích số liệu:
Nghiên cứu này vận dụng kết hợp giữa nghiên cứu định tính và nghiên
cứu định lượng.
1.5. Đóng góp mới của nghiên cứu
Ý nghĩa về mặt lý thuyết
Chất lượng mối quan hệ là chủ đề đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu,
song đa phần các nghiên cứu tập trung ở các nước phát triển, ở phương Tây, vì
thế, việc tiếp tục nghiên cứu về chất lượng mối quan hệ để bổ sung cho những
quốc gia có hoàn cảnh đặc thù vẫn là điều cần thiết. Kết quả của nghiên cứu này
đã góp phần bổ sung cho lý thuyết chất lượng mối quan hệ ở những điểm sau:
Thứ nhất, góp phần hoàn thiện khung lý thuyết về chất lượng mối quan hệ
giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics, đặc biệt trong bối cảnh văn hóa,
môi trường kinh doanh ở một nước đang trong quá trình chuyển đổi và phát
triển.
Thứ hai, sử dụng lý thuyết chi phí giao dịch (TCE), lý thuyết phụ thuộc
nguồn lực (RDT) và lý thuyết mạng (NT) để hình thành các nhân tố tác động

đến chất lượng mối quan hệ trong ngữ cảnh nghiên cứu là ngành logistics.
Thứ ba, nghiên cứu đã điều chỉnh thang đo cho các thành phần của mô
hình lý thuyết và kiểm định mô hình đo lường dựa trên dữ liệu thị trường ở Việt
Nam. Từ đó, góp phần bổ sung và hoàn thiện thang đo cho các khái niệm khi
nghiên cứu trong lĩnh vực logistics.
Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Giúp các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lý doanh
nghiệp logistics có cái nhìn chính xác và toàn diện hơn về các nhân tố tác động
đến chất lượng mối quan hệ trong lĩnh vực logistics, trên cơ sở đó đưa ra những
giải pháp phù hợp nhằm xây dựng và gia tăng chất lượng mối quan hệ cho các
doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics nói riêng và các lĩnh vực dịch vụ nói


5

chung. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn có thể là tài liệu tham khảo cho các
nghiên cứu khác về chất lượng mối quan hệ trong kinh doanh.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1. Giới thiệu về hoạt động thuê ngoài Logistics (Logistics outsourcing)
2.1.1. Định nghĩa về Logistics
Dựa trên nhiều định nghĩa về logistics, trong luận án này xem xét
logistics là một quá trình thực hiện tất cả các hoạt động từ nguồn nguyên liệu điểm đầu tiên đến điểm cuối cùng - thành phẩm đến tay người tiêu dùng, sao cho
tối ưu và hiệu quả nhất.
2.1.2. Định nghĩa về hoạt động thuê ngoài Logistics
Dựa trên nhiều định nghĩa về hoạt động thuê ngoài logistics, trong luận
án xem xét hoạt động thuê ngoài logistics là doanh nghiệp không tự thực hiện
các hoạt động logistics mà chuyển cho các đối tác bên ngoài thực hiện. Doanh
nghiệp logistics được coi là nhà hỗ trợ trung gian giữa nhà cung cấp và người
mua trong chuỗi cung ứng, là một đơn vị độc lập, có tiềm lực và khả năng để

thực hiện một phần hoặc tất cả các hoạt động logistics cho một doanh nghiệp
khác.
2.1.3. Đặc trưng của ngành logistics hình thành đặc thù mối quan hệ giữa
doanh nghiệp sử dụng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics.
Thứ nhất, năng lực của doanh nghiệp logistics là yếu tố then chốt cho
doanh nghiệp sản xuất giảm chi phí ở các khâu ngoài sản xuất và tạo ra giá trị
gia tăng cho sản phẩm. Vì vậy, mối quan hệ giữa doanh nghiệp sản xuất và
doanh nghiệp logistics không dừng ở mối quan hệ bình thường của đối tượng
cung cấp dịch vụ và đối tượng sử dụng dịch vụ, mà là mối quan hệ cộng sinh để
cùng gia tăng lợi nhuận.
Thứ hai, một điểm khác biệt với các dịch vụ thông thường là các bên đòi
hỏi phải có sự tin tưởng cao hơn các ngành khác.
Thứ ba, dòng chảy thông tin chính là điểm tạo nên sự khác biệt của dịch
vụ logistics so với các dịch vụ thông thường.


6

2.2. Chất lượng mối quan hệ (Relationship Quality)
2.2.1. Khái niệm chất lượng mối quan hệ
Dựa trên nhiều định nghĩa về logistics, trong luận án này xem xét chất
lượng mối quan hệ trong kinh doanh nói chung và trong hoạt động logistics nói
riêng là khái niệm hàm ý chỉ mức độ gần gũi khi tham gia hoạt động dịch vụ
này, đôi bên cam kết và tạo cho nhau lòng tin, sự hài lòng để hướng đến một
mối quan hệ lâu bền. Chất lượng mối quan hệ được xem xét, đánh giá trên cảm
nhận của cả hai bên đối tác.
2.2.2. Đo lường chất lượng mối quan hệ
Hai công trình nghiên cứu của Vieira và cộng sự (2008) và
Athanasopoulou (2009) đã tổng hợp đầy đủ các nghiên cứu từ 1987 cho đến
2007, rút ra kết luận rằng các yếu tố đo lường chất lượng mối quan hệ được sử

dụng nhiều nhất là lòng tin, sự hài lòng, sự cam kết. Ngoài ra, luận án này đã
phỏng vấn ý kiến các chuyên gia trong ngành logistics ở Việt Nam và kết quả
đều đồng ý rằng, với đặc điểm của dịch vụ logistics ở Việt Nam thì chất lượng
mối quan hệ cũng cần thiết xem xét ở ba khía cạnh trên. Do đó, trong luận án
này sử dụng ba thành tố để diễn đạt cho chất lượng mối quan hệ là lòng tin, sự
hài lòng, sự cam kết. Kế thừa từ các nghiên cứu trước, tác giả sử dụng các khái
niệm trong luận án:
Lòng tin (Trust) là sự tin tưởng, sự mong chờ đối tác sẽ hành động một
cách tốt nhất cho mình.
Sự hài lòng (Satisfaction) là cảm nhận của người mua dịch vụ khi được
đáp ứng đầy đủ yêu cầu của mình và là cảm nhận của người bán dịch vụ khi gặp
khách hàng cùng chia sẻ lợi ích chung với mình.


7

Sự cam kết (Commitment) là sự sẵn sàng để phát huy nỗ lực làm gia tăng
mối quan hệ và đưa mối quan hệ đến lâu dài.
2.3. Lý thuyết nền liên quan đến mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong
lĩnh vực logistics
Bolumode và cộng sự (2007) đề nghị khi xem xét lý do dẫn đến mối quan
hệ của doanh nghiệp với doanh nghiệp logistics thì cần xem xét ba lý thuyết nền
tảng đó là lý thuyết phụ thuộc nguồn lực (resource dependence theory - RDT) và
lý thuyết mạng (network theory - NT). Tuy vậy, Bolumode chỉ dừng ở việc gợi ý
một khung lý thuyết và đề nghị các nghiên cứu sau này có thể dựa vào khuôn
khổ đó để xây dựng mô hình và phân tích bằng các dữ liệu nghiên cứu cụ thể.
Do vậy, nghiên cứu này tiến hành kết hợp ba lý thuyết TCE, RDT và NT để có
thể có những lý giải tốt hơn về mối quan hệ giữa các doanh nghiệp sử dụng và
cung cấp dịch vụ logistics.
2.3.1. Lý thuyết chi phí giao dịch (Transaction cost economics theory- TCE)

Nội dung chính của lý thuyết chi phí giao dịch (TCE)
Nếu chi phí giao dịch lớn hơn chi phí quản lý nội bộ thì doanh nghiệp có
xu hướng tự thực hiện và ngược lại chi phí giao dịch càng nhỏ sẽ càng thúc đẩy
hoạt động thuê ngoài (Williamson, 1985). Do đó, chi phí giao dịch (động cơ
kinh tế) là động cơ để các doanh nghiệp hình thành mối quan hệ trong lĩnh vực
logistics (Ivanaj và Franzil, 2006)
Các thuộc tính của chi phí giao dịch (TCE)
Williamson (1979) đã xem xét một giao dịch dưới ba đặc tính là mức độ
thường xuyên của giao dịch; sự không chắc chắn (sự không chắc chắn về môi
trường và sự không chắc chắn về hành vi); mức độ của sự đặc thù tài sản, đồng
thời phân tích các đặc tính này dưới hai giả định về hành vi của con người là khả
năng hạn chế và hành vi chủ nghĩa cơ hội.
2.3.2. Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực (Resource dependence theory - RDT)
RDT cho rằng, khi doanh nghiệp thiếu nguồn lực quan trọng buộc phải
phụ thuộc vào đối tác cung cấp nguồn lực, vì vậy, họ luôn phải hành động để


8

quản lý sự phụ thuộc. Tuy nhiên, doanh nghiệp quản lý sự phụ thuộc của họ
trong tình huống không chắc chắn và khi môi trường càng trở nên không chắc
chắn thì sự phụ thuộc càng tăng. Do đó, doanh nghiệp sẽ tìm cách tạo mối quan
hệ thân thiết để cải thiện tình trạng trao đổi thông tin, cam kết chặt chẽ hơn, ổn
định trao đổi (Fink và cộng sự, 2006).
2.3.3. Lý thuyết mạng (Network theory - NT)
Giả thuyết cơ bản của sự hình thành mạng lưới chính là sự phụ thuộc của
doanh nghiệp vào nguồn lực bên ngoài (Johanson và Mattsson, 1987). Cũng như
lý thuyết phụ thuộc nguồn lực đã phân tích, doanh nghiệp đôi khi bị chi phối
nguồn lực bởi một doanh nghiệp khác, ví dụ như cung ứng các yếu tố đầu vào
hoặc đảm bảo cho phân phối đầu ra sản phẩm. Để đạt được nguồn lực đó, doanh

nghiệp buộc phải hợp tác với nhau và kết quả là một hệ thống mạng lưới được
hình thành. Vì vậy, thiết lập, phát triển và duy trì mối quan hệ gần gũi giữa các
đối tác trong mạng lưới có ý nghĩa rất quan trọng.
2.4. Các khái niệm nghiên cứu và sự hình thành giả thuyết
2.4.1. Vận dụng lý thuyết chi phí giao dịch (TCE) trong hoạt động thuê
ngoài logistics
2.4.1.1. Các khái niệm nghiên cứu
(1) Sự đặc thù tài sản (asset specificity) là những tài sản được đầu tư lâu
bền - những đầu tư để bảo đảm hỗ trợ cho những giao dịch đặc biệt, sự đặc thù
tài sản bao gồm đặc thù tài sản cố định, đặc thù tài sản công nghệ và đặc thù tài
sản con người (Williamson, 1981). Trong ngữ cảnh logistics, Ivanaj và Franzil
(2006) cho rằng mức độ đặc thù của tài sản là nhân tố rất quan trọng và các nhà
cung cấp dịch vụ logistics ngày càng bị đòi hỏi phải phát triển hơn nữa các tài
sản mang tính đặc thù như xe nâng, xe làm lạnh, hệ thống chỉ đường, hệ thống
kho bãi thông minh. Các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics cũng được yêu
cầu phải chia sẻ tài chính, thông tin với bên doanh nghiệp logistics.
(2) Hành vi chủ nghĩa cơ hội có thể hiểu là những lời hứa hoặc những
hành vi để lừa đảo định hướng của đối tác nhằm trục lợi cho doanh nghiệp mình


9

(John, 1984). Khi phân tích TCE, Williamson đã đặc biệt nhấn mạnh đến đặc
tính hành vi của con người đó là hành vi chủ nghĩa cơ hội và ông cho rằng mức
độ hành vi chủ nghĩa cơ hội càng cao sẽ dẫn đến thiếu thẳng thắn, trung thực
trong quá trình trao đổi, do đó các bên sẽ không thể cùng hợp tác giải quyết vấn
đề (Williamson, 1985).
(3) Văn hóa định hướng dài hạn là những giá trị định hướng đến tương
lai (Hofstede, 1993). Khlif và cộng sự (2015) cho rằng văn hóa định hướng dài
hạn là thể hiện ý định của doanh nghiệp muốn duy trì các quyết định tốt trong

dài hạn, bao hàm sự cần thiết thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với các đối tác nhằm
đạt được kết quả tốt hơn.
(4) Môi trường pháp lý và hành chính
Agboli và Ukaegbu (2006) đã dẫn giải một khảo sát của Ngân hàng thế
giới năm 2005 cho thấy, các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển thường
phải đối mặt với nhiều gánh nặng pháp lý hơn các nước phát triển. Họ phải đối
mặt gấp ba lần chi phí hành chính và gần gấp đôi thủ tục hành chính cũng như
sự chậm trễ trong thủ tục. Điều đó cho thấy các doanh nghiệp ở các nước đang
phát triển thường phải quan tâm tới những tác động của môi trường pháp lý và
hành chính hơn.
Môi trường pháp lý và hành chính là một thành phần của môi trường kinh
doanh, có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (Agboli và
Ukaegbu, 2006). Môi trường pháp lý và hành chính hình thành dựa trên đặc
điểm, tình hình thực tiễn của mỗi quốc gia cũng như sự tác động từ bên ngoài,
do đó, đây sẽ là nhân tố mang đặc thù riêng khi xem xét trong từng trường hợp
nghiên cứu.
2.4.1.2. Mối quan hệ giữa các khái niệm và sự hình thành giả thuyết nghiên
cứu
Căn cứ trên các nghiên cứu của Anderson (1988), Rindfleisch và Heide
(1997), Rieple và Helm (2008) luận án đề xuất giả thuyết H1: Nếu sự đặc thù tài


10

sản càng cao thì hành vi chủ nghĩa cơ hội càng nhiều (doanh nghiệp hướng đến
lợi ích cá nhân).
Căn cứ trên các nghiên cứu của Anderson và Coughlan (1987), Anderson
và Weitz (1992), Ganesan (1994), Joshi và Stump (1999), Knemeyer và Murphy
(2004), Knemeyer và Murphy (2005), Grafamy (2012) luận án đề xuất giả
thuyết H2: Nếu sự đặc thù tài sản càng cao thì chất lượng mối quan hệ càng tốt.

Căn cứ trên các nghiên cứu của Dwyer và cộng sự (1987), Dorsch và
cộng sự (1998), Knemeyer và Murphy (2004), Knemeyer và Murphy (2005),
Wang và Yang (2013), Hoàng Lệ Chi (2013) luận án đề xuất giả thuyết H3: Nếu
hành vi chủ nghĩa cơ hội càng ít (doanh nghiệp càng hướng đến lợi ích chung)
thì chất lượng mối quan hệ càng tốt.
Căn cứ trên các nghiên cứu của Ryu và Moon (2009), Ndubisi (2003),
Ganesan (1994); Heide và John (1990), Lui và Ngo (2012) và từ đặc điểm riêng
của văn hóa định hướng dài hạn ở Việt Nam luận án đề xuất giả thuyết H4: Nếu
văn hóa định hướng dài hạn càng cao thì chất lượng mối quan hệ càng tốt.
Căn cứ trên các nghiên cứu của Wang và Fang (2012), Nagarajan và cộng
sự (2013), Agboli và Ukaegbu (2006) và từ đặc điểm riêng của môi trường pháp
lý và hành chính ở Việt Nam, luận án đề xuất giả thuyết H5: Nếu môi trường
pháp lý và hành chính càng ít chắc chắn thì chất lượng mối quan hệ càng tốt.
2.4.2. Vận dụng lý thuyết phụ thuộc nguồn lực (RDT) trong hoạt động thuê
ngoài logistics và hình thành giả thuyết nghiên cứu
Tầm quan trọng của đối tác là các doanh nghiệp đang nắm giữ các
nguồn lực quan trọng giúp đối tác gia tăng giá trị Chu và Wang (2012).
Căn cứ trên các nghiên cứu của Heide và John (1990); Cai và Yang
(2008) Chu và Wang (2012) luận án đề xuất giả thuyết H6: Nếu tầm quan trọng
của đối tác càng cao thì chất lượng mối quan hệ càng tốt.


11

2.4.3. Vận dụng lý thuyết mạng (NT) trong hoạt động thuê ngoài logistics và
hình thành giả thuyết nghiên cứu
Hiểu biết về đối tác là những thông tin về tổ chức, cấu trúc của đối tác,
những thông tin này không chỉ là những thông tin hiện tại của đối tác mà còn là
những thông tin để dự đoán hoạt động tương lai (Walter và cộng sự, 2006).
Căn cứ trên nghiên cứu của Mitrega (2012) luận án đề xuất giả thuyết H7:

Nếu hiểu biết về đối tác càng nhiều thì chất lượng mối quan hệ càng tốt.
2.4.4. Mối quan hệ giữa chất lượng mối quan hệ và kết quả kinh doanh
Kết quả kinh doanh cho biết tổ chức đạt được những mục tiêu thị trường
và mục tiêu tài chính tốt như thế nào (Li và cộng sự, 2006).
Căn cứ trên các nghiên cứu của Panayides và So (2005), Lai và cộng sự
(2013), Hsu và cộng sự (2008), Chu và Wang (2012), Trang T.M. Nguyen và
cộng sự (2014) luận án đề xuất giả thuyết H8: Nếu chất lượng mối quan hệ càng
tốt thì kết quả kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
Từ các giả thuyết đề xuất, có thể biểu diễn mô hình nghiên cứu như sau:

Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu lý thuyết

CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
3.1. Quy trình nghiên cứu
BƯỚC 1 - Sự hình thành bảng câu hỏi
Từ việc nghiên cứu tổng quan lý thuyết, căn cứ trên các nghiên cứu đã
thực hiện để đề xuất các biến cho mô hình, đồng thời dựa trên các thang đo từ


12

các nghiên cứu trước phác thảo bảng câu hỏi sơ bộ. Tiếp theo, trong luận án này
đã phỏng vấn 5 chuyên gia là các quản lý cấp trung trở lên (trưởng phòng kinh
doanh/logistics, phó giám đốc, giám đốc) của các doanh nghiệp logistics. Thông
qua những ý kiến đóng góp thiết thực đã hiệu chỉnh thang đo phù hợp cho các
biến nghiên cứu.
BƯỚC 2 - Nghiên cứu chính thức
Sau khi có bảng câu hỏi chính thức, trong bước 2 sẽ chia thành hai phần
và thực hiện song song:
Phần 1: Nghiên cứu định lượng với bốn nội dung chính (a) Đánh giá độ

tin cậy thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha; (b) Đánh giá giá trị thang đo
bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis EFA); (c) Phương pháp phân tích nhân tố khẳng định (Confirmatory Factor
Analysis - CFA); (d) Phương pháp mô hình hóa cấu trúc tuyến tính (SEM). Cỡ
mẫu là 301 đáp viên, dữ liệu được xử lý bằng phần mềm AMOS.
Phần 2: Nghiên cứu định tính bằng cách thức phỏng vấn các quản lý cấp
trung trở lên (trưởng phòng kinh doanh/logistics, phó giám đốc, giám đốc) của
các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics – với cỡ mẫu là 20. Dữ liệu sẽ được
mã hóa và xử lý bằng phần mềm NVIVO.
3.2. Sự hình thành thang đo các khái niệm trong mô hình nghiên cứu
Luận án đã học hỏi từ nghiên cứu của Wilson và Nelson (2000), Trang
T.M. Nguyen (2002) để sử dụng thêm những câu hỏi đo lường ý kiến của phía
đối tác thông qua cảm nhận của đối tượng được khảo sát. Mục đích sử dụng
dạng câu hỏi này là đạt được cặp thông tin giả định từ cả hai khía cạnh, tức là sẽ
thu nhận được quan điểm của doanh nghiệp logistics và nhận thức của họ về
quan điểm của doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics về cùng vấn đề đó.
3.2.1. Thang đo các nhân tố tác động đến chất lượng mối quan hệ: gồm
thang đo cho nhân tố “Sự đặc thù tài sản” (AS) gồm 7 biến quan sát; thang đo
cho nhân tố “Hành vi chủ nghĩa cơ hội” (OB) gồm 6 biến quan sát; thang đo cho
nhân tố “Văn hóa định hướng dài hạn” (LOC) gồm 3 biến quan sát; thang đo


13

cho nhân tố “Môi trường pháp lý và hành chính” (RAE) gồm 3 biến quan sát;
thang đo cho nhân tố “Tầm quan trọng của đối tác” (PI) gồm 6 biến quan sát;
thang đo cho nhân tố “Hiểu biết về đối tác” (NPK) gồm 5 biến quan sát.
3.2.2. Thang đo chất lượng mối quan hệ (RQ): gồm thang đo cho nhân tố
“Lòng tin” (TR) gồm 6 biến quan sát; thang đo cho nhân tố “Sự hài lòng” (SA)
gồm 4 biến quan sát; thang đo cho nhân tố “Sự cam kết” (CO) gồm 4 biến quan
sát.

3.2.3. Thang đo kết quả của chất lượng mối quan hệ - “Kết quả kinh doanh”
(PER): gồm 5 biến quan sát.

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Kết quả nghiên cứu định lượng
4.1.1. Thiết kế nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu: 301 các quản lý từ cấp trung trở lên của các doanh
nghiệp logistics trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ 20/10/2015 đến
28/12/2015.
4.1.2. Kết quả đánh giá độ tin cậy của thang đo – Hệ số Cronbach’s Alpha:
Sau khi loại các biến có mức tương quan biến tổng < 0,3 (AS7, PI4, NPK5,
NPK3, NPK4, SA1), kết quả cho thấy các biến còn lại đều tin cậy với
Cronbach’s alpha lớn hơn 0,6. Hệ số tương quan biến tổng của tất cả các biến
đều đạt yêu cầu (≥ 0,3).
4.1.3. Kết quả đánh giá giá trị thang đo (kết quả EFA các thành phần)
Kết quả phân tích nhân tố cho nhân tố sự đặc thù tài sản
Kết quả phân tích EFA lần 2 có chỉ số KMO đạt 0,840 > 0,5 và giá trị
kiểm định mức ý nghĩa Sig đạt 0%; Tổng phương sai có khả năng giải thích
được của mô hình đạt 55,992%; chỉ số Eigen-value đạt trên 1; các hệ số tải nhân
tố của nhân tố được hình thành đều trên 0,5; khác biệt hệ số tải giữa các nhân tố
đạt tối thiểu 0,3, từ đó kết luận sự hình thành nhân tố có ý nghĩa là sự đặc thù tài
sản gồm 5 biến quan sát.
Kết quả phân tích nhân tố cho nhóm nhân tố hành vi chủ nghĩa cơ


14

hội, văn hóa định hướng dài hạn, tầm quan trọng của đối tác, hiểu biết về đối
tác.
Kết quả phân tích EFA lần 4 có chỉ số KMO đạt 0,825 > 0,5 và giá trị

kiểm định mức ý nghĩa Sig đạt 0%; Tổng phương sai có khả năng giải thích
được của mô hình đạt 58,674%; chỉ số Eigen-value đạt trên 1; các hệ số tải nhân
tố của nhân tố được hình thành đều trên 0,5; khác biệt hệ số tải giữa các nhân tố
đạt tối thiểu 0,3, thỏa mãn điều kiện để mỗi biến quan sát tồn tại trong mô hình
tập trung giải thích cho một nhân tố duy nhất. Từ đó, kết luận, sự hình thành 5
nhân tố có ý nghĩa là hành vi chủ nghĩa cơ hội; văn hóa định hướng dài hạn;
môi trường pháp lý và hành chính; tầm quan trọng của đối tác; hiểu biết về đối
tác.
Kết quả phân tích nhân tố cho nhóm thành tố chất lượng mối quan hệ
gồm lòng tin, sự hài lòng, sự cam kết.
Kết quả phân tích EFA lần 5 có chỉ số KMO đạt 0,794 > 0,5 và giá trị
kiểm định mức ý nghĩa Sig đạt 0%; Tổng phương sai có khả năng giải thích
được của mô hình đạt 60,796%; chỉ số Eigen-value đạt trên 1; các hệ số tải nhân
tố của nhân tố được hình thành đều trên 0,5; khác biệt hệ số tải giữa các nhân tố
đạt tối thiểu 0,3, thỏa mãn điều kiện để mỗi biến quan sát tồn tại trong mô hình
tập trung giải thích cho một nhân tố duy nhất. Từ đó, kết luận, sự hình thành 3
nhân tố có ý nghĩa để đo lường cho chất lượng mối quan hệ là lòng tin; sự hài
lòng; sự cam kết.
Kết quả phân tích nhân tố của nhân tố kết quả kinh doanh
Kết quả phân tích EFA lần 1 có chỉ số KMO đạt 0,843 > 0,5 và giá trị
kiểm định mức ý nghĩa Sig đạt 0%; Tổng phương sai có khả năng giải thích
được của mô hình đạt 55,760%; chỉ số Eigen-value đạt trên 1; các hệ số tải nhân
tố của nhân tố được hình thành đều trên 0,5; khác biệt hệ số tải giữa các nhân tố
đạt tối thiểu 0,3. Từ đó, kết luận, sự hình thành nhân tố Kết quả kinh doanh với
5 biến quan sát


15

4.1.4. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định – CFA (mô hình tới hạn)

Kết quả CFA ở hình 4.1 với GFI = 0,862; TLI = 0,911 và CFI = 0,921.
Như vậy, các chỉ số trên cho thấy, dữ liệu khảo sát rất phù hợp với dữ liệu thị
trường trong trường hợp nghiên cứu. Đồng thời, chỉ số Chi-square hiệu chỉnh
(Chi-square/df) đạt 1,694; kết hợp với RMSEA = 0,048 cho thấy, dữ liệu phù
hợp cho trường hợp nghiên cứu.

Hình 4.1: Kết quả CFA các thang đo mô hình tới hạn (đã chuẩn hóa)
Nguồn: theo tính toán của tác giả
Các trọng số CFA của tất cả các biến quan sát đều lớn hơn 0,5 cho thấy các
thang đo đạt giá trị hội tụ. Đồng thời, kết quả kiểm định hệ số tương quan giữa
các khái niệm (các nhân tố) ở bảng 4.1 cho thấy, tất cả các hệ số tương quan của
các khái niệm (các nhân tố) đều nhỏ hơn 1 và có ý nghĩa thống kê. Vì vậy, các
khái niệm trên đều đạt được giá trị phân biệt.


16

Bảng 4.1: Kết quả kiểm định giá trị phân biệt thang đo trong mô hình tới hạn
Tương quan

R

Se('r)

CR

AS  OB

-0,279


0,0555

AS  RQ

-0,130

OB  RQ

P-value

Kết luận

5,0239

0,0000

Phân biệt

0,0573

2,2671

0,0241

Phân biệt

-0,113

0,0575


1,9665

0,0502

Phân biệt

RQ  LOC

0,307

0,0550

5,5779

0,0000

Phân biệt

RAE  RQ

0,189

0,0568

3,3281

0,0010

Phân biệt


PI  RQ

0,308

0,0550

5,5980

0,0000

Phân biệt

NPK  RQ

0,152

0,0572

2,6592

0,0083

Phân biệt

RQ  PER

0,141

0,0573


2,4627

0,0144

Phân biệt

Nguồn: theo tính toán của tác giả
Kiểm định độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích của từng khái niệm
(từng nhân tố) thể hiện kết quả ở bảng 4.2. Kết quả cho thấy, các hệ số tin cậy
tổng hợp đều >50% (tối thiểu đạt 72,28%), phương sai trích >50% (tối thiểu đạt
50,02%). Do vậy, có thể khẳng định các thang đo trong mô hình tới hạn đạt yêu
cầu.

Bảng 4.2: Kết quả kiểm định độ tin cậy của các thang đo trong mô hình tới hạn
N

Hệ số tin cậy tổng hợp (c)

Phương sai trích (vc) (AVE)

RQ

301

70,51%

50,02%

PI


301

86,55%

56,30%

TR

301

79,85%

56,96%

SA

301

85,83%

75,42%

CO

301

83,37%

55,67%


OB

301

78,62%

55,28%

RAE

301

79,00%

55,79%

NPK

301

72,28%

56,74%

LOC

301

81,40%


59,46%

AS

301

86,35%

56,08%

PER

301

86,20%

55,72%

Nguồn: theo tính toán của tác giả


17

4.1.5. Kết quả phân tích mô hình hóa cấu trúc tuyến tính (SEM) và kiểm
định các giả thuyết nghiên cứu
Kết quả ước lượng cho thấy mô hình lý thuyết phù hợp với dữ liệu thị
trường thể hiện qua các chỉ số: Chi-square với bậc tự do là 923,697; Chisquare/df= 1,720; P=0,000; GFI = 0,861; TLI = 0,907, CFI = 0,916 và RMSEA
đạt 0,049.

Chi-square/df= 1,720; P= 0,000;

GFI= 0,861; TLI= 0,907; CFI= 0,916; RMSEA= 0,049
Hình 4.2: Kết quả phân tích SEM (đã chuẩn hóa)
Nguồn: theo tính toán của tác giả
Qua bảng 4.3, giả thuyết H7 không có ý nghĩa thống kê (p- value >
10%). Các giả thuyết còn lại đều được chấp nhận. Đồng thời, tác động của nhân
tố sự đặc thù tài sản đến hành vi chủ nghĩa cơ hội là một tác động ngược chiều,
ngược lại với giả thuyết đặt ra ở chương 2.


18

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định mối tương quan giữa các khái niệm
(chưa chuẩn hóa)
Ước Lượng

Sai số

C.R. Giá trị P

Giả thuyết

OB



AS

-0,374

0,095


-3,945

***

H1

RQ



AS

0,189

0,097

1,952

0,051

H2

RQ



OB

0,092


0,055

1,676

0,094

H3

RQ

 LOC

0,263

0,091

2,898

0,004

H4

RQ

 RAE

0,229

0,074


3,117

0,002

H5

RQ



0,149

0,067

2,233

0,026

H6

RQ

 NPK

-0,004

0,08

-0,056


0,956

H7

PER



0,134

0,073

1,842

0,065

H8

PI

RQ

Nguồn: theo tính toán của tác giả
Theo bảng 4.4 cho hệ số hồi quy đã chuẩn hóa, giả thuyết về sự tác
động của môi trường pháp lý và hành chính đến chất lượng mối quan hệ (H5) là
mạnh nhất, sau đó mức độ tác động này giảm dần lần lượt là văn hóa định
hướng dài hạn đến chất lượng mối quan hệ (H4); sự đặc thù tài sản đến hành vi
chủ nghĩa cơ hội (H1); sự đặc thù tài sản đến chất lượng mối quan hệ (H2); tầm
quan trọng của đối tác đến chất lượng mối quan hệ (H6); chất lượng mối quan

hệ đến kết quả kinh doanh (H8); hành vi chủ nghĩa cơ hội đến chất lượng mối
quan hệ (H3).

Bảng 4.4: Kết quả kiểm định mối tương quan giữa các khái niệm
(đã chuẩn hóa)
Ước lượng

Giả thuyết

Độ mạnh tác động

OB



AS

-0,282

H1

3

RQ



AS

0,200


H2

4

RQ



OB

0,128

H3

7

RQ



LOC

0,305

H4

2



19

Ước lượng

Giả thuyết

Độ mạnh tác động

RQ



RAE

0,320

H5

1

RQ



PI

0,195

H6


5

PER



RQ

0,137

H8

6

Nguồn: theo tính toán của tác giả
4.2. Kết quả nghiên cứu định tính chính thức
Phần này thể hiện ý kiến chuyên gia về các giả thuyết nghiên cứu, điều
này là quan trọng vì các chuyên gia sẽ nêu rõ được những đặc thù của ngành
logistics, từ đó lý giải rõ hơn những kết quả của phần nghiên cứu định lượng.
Thông qua các dữ liệu định tính được thu thập từ 20 chuyên gia trong
lĩnh vực logistics ở Việt Nam có thể tóm tắt như sau:
(1) Trong bối cảnh kinh doanh logistics hiện nay, các doanh nghiệp đã
có nhận thức tầm quan trọng và cần thiết phải có chất lượng mối quan hệ với các
đối tác. Đó sẽ là cơ sở để doanh nghiệp hoạt động lâu dài và bền vững.
(2) Các nhân tố sự đặc thù tài sản, hành vi chủ nghĩa cơ hội, văn hóa
định hướng dài hạn, môi trường pháp lý và hành chính, tầm quan trọng của đối
tác, hiểu biết về đối tác đều nhận được sự đồng ý rằng có các nhân tố đều ý
nghĩa và cần xem xét khi nghiên cứu về chất lượng mối quan hệ. Tuy vậy,
nghiên cứu này cũng nhận thấy nhân tố hiểu biết về đối tác được các doanh
nghiệp Việt Nam nhận thức còn rất đơn giản.

(3) Các doanh nghiệp đều nhận thấy khi có được chất lượng mối quan
hệ thì sẽ làm tăng lợi nhuận, tăng thị phần của doanh nghiệp.
4.3. Bàn luận về các giả thuyết nghiên cứu dựa trên kết quả định tính và
định lượng, xét trong sự đặc thù của trường hợp nghiên cứu
H1: Nếu sự đặc thù tài sản càng cao thì hành vi chủ nghĩa cơ hội càng
nhiều (doanh nghiệp hướng đến lợi ích cá nhân)
Kết quả SEM cho thấy đây là giả thuyết có ý nghĩa, song sự tác động
trong bối cảnh ở Việt Nam thì giả thuyết này cho kết quả ngược chiều với kỳ


20

vọng, có nghĩa là nếu sự đặc thù tài sản càng cao thì hành vi chủ nghĩa cơ hội
càng ít (doanh nghiệp hướng đến lợi ích chung). Điều này ngược lại với kết quả
nghiên cứu của (Anderson, 1988, Rindfleisch và Heide, 1997). Để lý giải điều
này, các nhà quản lý ở các doanh nghiệp logistics khi được phỏng vấn trong
nghiên cứu định tính đã cho rằng, trong bối cảnh rất cạnh tranh của ngành
logistics ở Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp ở cả hai phía đã chủ động đầu
tư thay đổi quy trình, cách thức thực hiện, tập huấn nhân viên, ưu đãi công nợ,
cước phí… cho đối tác, làm đối tác hài lòng hơn trong quá trình giao dịch. Vì
vậy, doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics đều cảm
nhận được thiện chí của đối tác trong mối quan hệ lâu dài, nên khả năng hành
động vì chủ nghĩa cơ hội sẽ giảm đi. Từ thực tế này, nghiên cứu ủng hộ cho giả
thuyết H1: Nếu sự đặc thù tài sản càng cao thì hành vi chủ nghĩa cơ hội càng ít
(doanh nghiệp hướng đến lợi ích chung).
Các giả thuyết có ý nghĩa thống kê và phù hợp kỳ vọng ở chương 2 gồm:
H2: Nếu sự đặc thù tài sản càng cao thì chất lượng mối quan hệ càng tốt
H3: Nếu hành vi chủ nghĩa cơ hội càng ít (doanh nghiệp càng hướng đến
lợi ích chung) thì chất lượng mối quan hệ càng tốt
H4: Nếu văn hóa định hướng dài hạn càng cao thì chất lượng mối quan

hệ càng tốt
H5: Nếu môi trường hành chính và pháp lý càng ít chắc chắn thì chất
lượng mối quan hệ càng tốt
H6: Nếu tầm quan trọng của đối tác càng cao thì chất lượng mối quan hệ
càng tốt.
H8: Nếu chất lượng mối quan hệ càng tốt thì kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp càng cao
Khi xem xét các doanh nghiệp hoạt động trong một mạng lưới và đánh
giá sự hiểu biết về đối tác sẽ tác động đến chất lượng mối quan hệ, nghiên cứu
đã đưa ra giả thuyết:


21

H7: Nếu hiểu biết về đối tác càng nhiều thì chất lượng mối quan hệ càng
tốt
Kết quả SEM thể hiện giá trị không có ý nghĩa thống kê nên giả thuyết
này chưa được chấp nhận. Ngược lại, ở kết quả của nghiên cứu định tính lại ủng
hộ cho giả thuyết này. Các chuyên gia cho rằng sự hiểu biết trong ngữ cảnh
nghiên cứu ở Việt Nam là hiểu biết về thông tin của dịch vụ đang được tiến
hành, hiểu biết về nhân sự có quyền quyết định trong hợp đồng giao dịch đó,
hiểu biết về hoạt động của nhau trong một giới hạn cho phép. Như vậy, nếu dựa
vào định nghĩa hiểu biết mạng lưới đối tác của Walter và cộng sự (2006) - đó là
những thông tin về tổ chức, cấu trúc của đối tác, những thông tin này không chỉ
là những thông tin hiện tại của đối tác mà còn là những thông tin để dự đoán
hoạt động tương lai – thì những quan điểm hiểu biết về đối tác của các doanh
nghiệp Việt Nam còn rất đơn giản nên cũng chưa đánh giá rõ ràng được sự tác
động của nhân tố hiểu biết về đối tác đến chất lượng mối quan hệ. Vì vậy,
nghiên cứu này chấp nhận kết quả của nghiên cứu định lượng là bác bỏ giả
thuyết H7, song đây cũng là một gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo.


CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài
5.1.1. Đóng góp về lý thuyết
Thứ nhất, lý thuyết chất lượng mối quan hệ là lý thuyết được nhiều đối
tượng quan tâm nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực B2B trong thời gian vừa
qua. Nghiên cứu này thực hiện trong bối cảnh là chất lượng mối quan hệ giữa
doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics ở một nước
đang phát triển, đang trong giai đoạn kinh tế chuyển đổi (Việt Nam) đã góp phần
bổ sung cho lý thuyết chất lượng mối quan hệ.
Thứ hai, lý thuyết nền được sử dụng trong nghiên cứu này là lý thuyết
chi phí giao dịch, lý thuyết phụ thuộc nguồn lực và lý thuyết mạng, từ đây hình
thành các nhân tố tác động đến chất lượng mối quan hệ.


22

Thứ ba, với dữ liệu của thị trường đang phát triển, đang chuyển đổi,
nghiên cứu này phát hiện nhân tố sự đặc thù tài sản càng cao thì khả năng hành
vi chủ nghĩa cơ hội càng ít.
Ngoài ra, luận án cũng tìm thấy một số sự tương đồng với những
nghiên cứu trước (1) Chất lượng mối quan hệ là một khái niệm được đo bằng
nhiều phương diện như các nghiên cứu trước đã đề cập (trình bày ở mục 2.2.2.)
và trong ngữ cảnh nghiên cứu này cũng nhận được sự đồng thuận của dữ liệu thị
trường là chất lượng mối quan hệ phù hợp xem xét trên ba phương diện: lòng
tin, sự hài lòng, sự cam kết. (2) Trong các giả thuyết đặt ra ở nghiên cứu này đã
cho thấy nhân tố văn hóa định hướng dài hạn và nhân tố môi trường pháp và
hành chính có tác động rất mạnh đến chất lượng mối quan hệ. Khám phá này là
cần thiết như Athanasopoulou (2009, trang 605) đã đề nghị “để khái niệm chất
lượng mối quan hệ mang tính tổng quan hơn, thì nó cần được nghiên cứu ở

những ngành nghề khác nhau và ở những nền văn hóa khác nhau”.
5.1.2. Đóng góp về phương pháp luận
Thứ nhất, các thang đo trong nghiên cứu này được kế thừa từ các
nghiên cứu có liên quan, tuy nhiên, với đặc thù của ngữ cảnh nghiên cứu này các
thang đo đã được hiệu chỉnh và kiểm định nhằm đảm bảo giá trị thang đo. Từ
đó, các thang đo này có thể được sử dụng rộng rãi hơn trong lĩnh vực logistics.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu khác cũng có thể sử dụng, điều chỉnh, bổ sung khi
nghiên cứu trong các lĩnh vực dịch vụ khác.
Thứ hai, trong nghiên cứu, ngoài sử dụng những câu hỏi cho đối tượng
khảo sát như thông thường thì luận án còn sử dụng những câu hỏi để đo lường ý
kiến của phía đối tác thông qua cảm nhận của đối tượng được khảo sát. Mục
đích sử dụng dạng câu hỏi này là đạt được cặp thông tin giả định từ cả hai khía
cạnh, tức là sẽ thu nhận được quan điểm của doanh nghiệp logistics và nhận
thức của họ về quan điểm của doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics về cùng
vấn đề đó. Các thang đo này đã được kiểm định là có ý nghĩa và có giá trị vì vậy
nó có thể trở một công cụ đo lường cho các nghiên cứu khác sau này.


23

Thứ ba, nghiên cứu này sử dụng phương pháp hỗn hợp – kết hợp nghiên
cứu định lượng và nghiên cứu định tính. Những con số từ nghiên cứu định lượng
cung cấp những kết quả rõ ràng song lại khó lý giải được lý do của kết quả đó.
Với dữ liệu định tính sẽ là luận cứ thuyết phục cho kết quả nghiên cứu. Như vậy,
phương pháp nghiên cứu được áp dụng ở đây một lần nữa chứng minh đây là
phương pháp nghiên cứu hữu ích và ý nghĩa.
5.2. Ý nghĩa và hàm ý kiến nghị với nhà quản trị
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần thiết xây dựng và duy trì chất lượng
mối quan hệ, nó sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển bền vững.
Thứ hai, doanh nghiệp cần giảm bớt hành vi chủ nghĩa cơ hội, hài hòa

lợi ích hai bên. Điều quan trọng là cần có sự chia sẻ khi rủi ro phát sinh, cùng
hài hòa lợi ích để đạt được hiệu quả kinh doanh bền vững.
5.2.1. Đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics
Thay đổi văn hóa kinh doanh của chính mình
Chú trọng đến giải pháp dịch vụ hơn là cung cấp dịch vụ thông thường
Tăng cường đầu tư cho sự đặc thù tài sản, nâng cao tầm quan trọng của
mình trước đối tác.
5.2.2. Đối với các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ logistics
Thay đổi quan điểm về doanh nghiệp logistics
Đừng quan tâm đến tiết kiệm chi phí mà nên quan tâm đến hiệu quả chi
phí
Hợp tác với doanh nghiệp logistics để đầu tư sự đặc thù tài sản
5.2.3. Ý nghĩa và hàm ý kiến nghị với chính sách của Nhà nước
Tự bản thân doanh nghiệp không thể điều chỉnh được môi trường pháp
lý và hành chính thì buộc doanh nghiệp phải đẩy mạnh chất lượng mối quan hệ
với đối tác để giảm bớt sự không chắc chắn này. Tuy nhiên, về dài hạn, môi
trường pháp lý và hành chính trong ngành logistics vẫn cần được hoàn thiện, để
trong tương lai các doanh nghiệp liên kết với nhau không phải để tự bảo vệ mình
trước môi trường kinh doanh không chắc chắn mà để giúp các doanh nghiệp
tăng thêm sức mạnh, đạt được hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp và cho xã


×