Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam (Khóa luận tốt nghiệp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.78 KB, 36 trang )

Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

LỜI MỞ ĐẦU
Tiền tệ từ lâu đã trở thành vật ngang giá chung của các hàng hoá dịch vụ.
Các giao dịch buôn bán ở hầu hết mọi nơi trên thế giới đều sử dụng tiền và tiền tệ
gắn liền với quan hệ lợi ích. Thực tế này minh chứng cho vai trò quan trọng của tiền
tệ trong nền kinh tế của các quốc gia cũng như toàn thế giới. Nó được đặc trưng bởi
sức mua; khi sức mua thay đổi hay lạm phát xuất hiện sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi ích của mọi người, từ các tổ chức, cá nhân cho tới các chính phủ. Do vậy, lạm
phát là đối tượng nghiên cứu của các nhà kinh tế học từ nhiều năm nay.
Lạm phát là một vấn đề hết sức nghiêm trọng đối với các hoạt động kinh tếchính trị-xã hội không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới đều quan
tâm. Lạm phát là một trong những chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế của
một quốc gia nhưng cũng là một trở ngại lớn nhất trong công cuộc phát triển đất
nước. Việc xem xét, đánh giá, nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra nguyên nhân dẫn
đến lạm phát và tìm cách khắc phục nó như thế nào là vô cùng cần thiết .
Lý thuyết về lạm phát đã khá phát triển nhưng việc làm thế nào vận dụng các
biện pháp để kiểm soát chúng có hiệu quả đối với mỗi nền kinh tế vẫn luôn là vấn
đề phức tạp.
Để hiểu rõ bản chất của lạm phát, tác hại cũng như tác động của nó và những
biện pháp kiềm chế lạm phát ở nước ta, chúng ta cần hiểu rõ những khái niệm cơ
bản về lạm phát, nguyên nhân gây ra lạm phát cũng như cách khắc phục lạm phát…
Được sự hướng dẫn của thầy giáo -Thạc sỹ Lê Bảo và qua tham khảo một số sách
báo tài liệu, em xin đưa ra một vài suy nghĩ với mong muốn tìm hiểu và vận dụng
tốt hơn những lý luận về “lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam trong những
năm gần đây”. Trong bài viết sẽ không thể tránh khỏi những sai sót, em mong các
thầy cô bỏ qua và đóng góp ý kiến để em có thể hiểu sâu hơn vấn đề này. Em xin
chân thành cám ơn.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.



Trang 1


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ LẠM PHÁT.
1. Khái niệm và đo lường lạm phát.
1.1 Khái niệm.
Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông
tiền giấy. Điều này xuất phát từ chỗ tiền giấy chỉ là một loại dấu hiệu giá trị được
phát hành vào lưu thông để thay thế cho tiền đủ giá nhằm thực hiện vai trò trung
gian trao đổi. Bản thân tiền giấy không có giá trị nội tại mà chỉ mang giá trị danh
nghĩa. Do đó, khi có hiện tượng thừa tiền giấy trong lưu thông thì người ta không có
xu hướng giữ lại trong tay mình những đồng tiền bị mất giá và lượng tiền thừa sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ “lạm
phát”, nhưng vẫn chưa có một sự thống nhất hoàn toàn. Quan điểm cổ điển cho rằng
lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân
hàng phát hành. Cụ thể, người ta dựa vào tỷ lệ đảm bảo của tiền tệ để xem xét có
lạm phát hay không. Chẳng hạn, nếu pháp luật ấn định rằng tỷ lệ đảm bảo tối thiểu
của tiền tệ là 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định tức là ngân hàng đã phát
hành tiền quá mức.
Quan điểm thứ hai cho rằng, lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và hàng
trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher : M.V=P.Y. Nếu tổng
khối lượng tiền lưu hành (M) tăng thêm trong khi tổng lượng hàng hóa – dịch vụ
được trao đổi (Y) giữ vững, tất nhiên mức giá trung bình (P) phải tăng. Và nếu thêm
vào đó tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tăng thì ( P) lại tăng rất nhanh.

Một quan điểm khác cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hóa
( tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và hàng hóa sức lao động). Lạm phát xảy ra khi
mức chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng lên cho
dù bất kỳ nguyên nhân nào đều là lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều cùng một ý
nghĩa. Thật ra gía cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ bản của
lạm phát mà thôi.
Vậy lạm phát là gì?
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm
cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 2


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

Như vậy có thể thấy các nhà kinh tế học đều thừa nhận đặc điểm chung nhất
của lạm phát là hiện tượng mức giá chung của các hàng hoá và dịch vụ tăng lên
và sức mua thực tế của đồng tiền giảm xuống so với một thời điểm trước đó.
1.2 Đo lường lạm phát.
Để đánh giá được tác động của lạm phát đến nền kinh tế, rồi từ đó đưa ra
các giải pháp thích hợp, chúng ta cần đo lường lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát hàng năm được xác định bằng tỷ lệ thay đổi của chỉ số giá cả
ở một năm (tháng) so với chỉ số giá cả của năm (tháng) được chọn làm gốc.
=

x 100 %

Có nhiều loại chỉ số giá cả như: Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất và

chỉ số giảm phát GNP. Trong đó chỉ số giá cả thường được sử dụng nhất là chỉ số
giá tiêu dùng .
• Chỉ số giá tiêu dùng (CPI- Consumer Price Index) được sử dụng rộng rãi
nhất để tính tỷ lệ lạm phát. CPI đo lường mức giá bình quân gia quyền của một
nhóm hàng hoá, dịch vụ trong một khoảng thời gian. Số lượng, chủng loại hàng hoá
nào được lựa chọn lại tuỳ theo quy định của từng nước. CPI của năm n được tính
như sau:
CPIn =

( x x 100) +
( x x 100) + ...

Trong đó: CPIn là chỉ số giá tiêu dùng năm n
Pn là giá hàng hoá năm n (Pn gạo là giá gạo vào năm n)
Po là giá hàng hoá vào năm được chọn làm năm gốc.
Tỷ lệ chi tiêu cho từng loại hàng hóa thường được cố định, tức là giá các loại
hàng hóa có thể thay đổi từ năm này sang năm khác nhưng trọng số của các hàng
hóa vẫn được giữ nguyên. CPI chính là tỷ lệ % giữa giá cả hiện tại của giỏ hàng hoá
với cơ cấu tiêu dùng như ở năm gốc so với giá của giỏ hàng hoá đó vào thời điểm
gốc.
• Chỉ số giá sản xuất (PPI - Producer Price Index) phản ánh sự biến động
của mức giá bán buôn hay giá cả của đầu vào (chi phí sản xuất). Chi phí đầu vào
biến đổi sẽ dẫn tới những thay đổi về xu thế giá cả trên thị trường.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 3



Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

• Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội (GDP deflator) đo lường mức
giá bình quân của tất cả các hàng hóa, dịch vụ cấu thành nên GDP (bao gồm tiêu
dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ, xuất khẩu ròng); trong khi đó CPI chỉ bao gồm các
hàng tiêu dùng. Công thức để tính chỉ số giảm phát GDP là:
Chỉ số giảm phát GDP = x 100 %
Trong công thức tính chỉ số giảm phát GDP, GDP danh nghĩa là tổng giá trị
bằng tiền tính theo giá cả hiện tại của tất của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định,
thường là một năm. Còn GDP thực tế đo lường giá trị tổng sản lượng của nền kinh
tế trong năm hiện tại theo giá cả của năm gốc. Vào thời kỳ có lạm phát, chỉ số giảm
phát GDP lớn hơn 100%.
Ở nước ta, phương pháp cải tiến để tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã được
Tổng cục Thống kê chính thức công bố từ tháng 1/1998. Theo đó, CPI của cả nước
được tính dựa trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của tất cả các tỉnh thành. Giỏ hàng hoá
để tính CPI gồm 296 mặt hàng (cả hàng hoá và dịch vụ). Giá kỳ gốc là mức giá bình
quân năm 1995. CPI hàng tháng được công bố với 4 kỳ gốc so sánh: CPI bình quân
năm 1995, so với tháng trước, so với tháng đó năm trước và so với tháng 12 năm
trước. Vàng và đô-la Mỹ (USD) được công bố chỉ số giá riêng, không tính chung
vào CPI.
2. Các loại lạm phát phân theo mức độ.
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát và sự tăng lên của giá cả hàng hóa nên
các nhà kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra
thành 4 mức độ khác nhau: thiểu phát, lạm phát vừa phải, lạm phát cao và siêu
lạm phát.
• Thiểu phát là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn nạn trong quản lý

kinh tế vĩ mô. Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm (%)
một năm trở xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng
tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 % một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở
những nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm
phát thì tỷ lệ lạm phát 3-4% một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa
phải thấp đến mức được coi là thiểu phát.
SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 4


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

• Lạm phát vừa phải là loại lạm phát mà tốc độ tăng giá cả chậm, ở mức
dưới một con số (dưới 10%) mỗi năm. Khi đó, tiền tệ mất giá không nhiều và người
ta tin tưởng vào giá trị của đồng tiền. Ở hầu hết các nền kinh tế thị trường, lạm phát
vừa phải luôn tồn tại.
• Lạm phát cao là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng với tốc độ 2 hoặc 3 con số
(30%, 50%, 100%, 500% . . .). Lạm phát cao còn gọi là lạm phát phi mã. Khi đó,
tiền mất giá trị một cách nhanh chóng và người ta chỉ nắm giữ một lượng tiền tối
thiểu để đảm bảo cho các giao dịch hàng ngày. Lạm phát cao gây ra nhiều tác hại
đến sự phát triển kinh tế xã hội.
• Siêu lạm phát là hiện tượng tốc độ tăng mức giá hết sức nhanh chóng, có
khi tới vài trăm % một tháng hay vài nghìn % mỗi năm. Siêu lạm phát không thể
kéo dài trong quá nhiều năm do tiền gần như mất hết giá trị, các doanh nghiệp
không thể hoạt động được và phá sản, người dân không dùng tiền trong các giao
dịch nữa và quốc gia gặp phải tình trạng này buộc phải cải tổ chính sách kinh tế
nước mình và tìm cách chấm dứt lạm phát.

3. Những nguyên nhân gây nên lạm phát.
3.1 Lạm phát do cầu kéo.
Lạm phát cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh hơn so với sản lượng tiềm
năng của nền kinh tế, kéo theo sự tăng lên của mức giá ở điểm cân bằng giữa tổng
cung và tổng cầu. Có 3 nguyên nhân làm cho tổng cầu tăng là: sự gia tăng cung tiền,
tăng chi tiêu chính phủ và xuất khẩu tăng. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu
quá nhiều tiền để mua một lượng cung hàng hóa hạn chế trong điều kiện nền kinh tế
đã đạt cân bằng trên thị trường lao động. Có thể thấy rõ hơn cơ chế lạm phát cầu
kéo qua mô hình dưới đây.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 5


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

Lạm phát cầu kéo.

P
(Mức giá)

AS 2
AS 1
AS 0

P3
P2

P1
P0

AD2
AD1
AD0
Q*

,
Q

Q
(San lượng)

Trong ngắn hạn, đường tổng cung AS (Aggregate demand) mới đầu nằm
ngang và sẽ dốc ngược lên khi vượt quá mức sản lượng tiềm năng Q*. Điều này là
do khi chưa đạt mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả của đầu ra
(hàng hoá, dịch vụ) cũng khuyến khích được các hãng tăng nhanh sản lượng sản
xuất ra để đáp ứng sự tăng lên của nhu cầu, thu nhiều lợi nhuận hơn. Khi sản lượng
của nền kinh tế là Q’ > Q*, chi phí đầu vào đã kịp thời điều chỉnh tăng lên, các hãng
không còn động lực để tăng cao sản lượng nữa, do đó dù giá có tăng nhiều nhưng
sản lượng vẫn không tăng đáng kể hay đường AS có độ dốc lớn. Lúc đó, cầu tăng
mạnh, đường AD0 dịch chuyển lên trên đến vị trí mới là AD1 và mức giá tăng
nhanh từ P0 đến P1. Tổng cầu tăng liên tục làm cho đường tổng cầu liên tiếp dịch
chuyển về phía bên phải và mức giá không ngừng tăng lên, tức là xảy ra lạm phát
cầu kéo.
Khi đường cầu dịch chuyển đến AD1, nền kinh tế ở trạng thái vượt quá trạng
sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công, người lao động gây áp lực tăng lương
làm cho tổng cung giảm, đường tổng cung AS0 dịch chuyển về bên trái tới vị trí


SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 6


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

AS1. Mức giá tăng tiếp từ P1 đến P2, nền kinh tế lại chuyển về trạng thái đạt mức
sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công. Cứ như thế, sau khi đường tổng cầu
dịch chuyển về bên phải thì đường tổng cung lại dịch chuyển về bên trái kéo theo
mức giá tăng liên tục.
3.2 Lạm phát do cầu thay đổi.
Lạm phát này xảy ra khi lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng
cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền
và giá cả có tính chất cứng nhắc, chỉ có thể tăng mà không thể giảm, thì mặt hàng
đó vẫn không giảm giá dù lượng cầu giảm. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu
tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
3.3 Lạm phát tiền tệ.
Nguyên nhân gây ra lạm phát tiền tệ là do lượng tiền trong nền kinh tế quá
nhiều, vượt quá mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị
của nền kinh tếế́. Có thể do ngân hàng trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn trong
nền kinh tế bằng các nghiệp vụ thị trường mở hay chính sách tiền tệ lới lỏng. Khi
lượng tiền lưu thông quá lớn, ví dụ trong tay bạn có nhiều hơn 100 triệu..., thì sự
tiêu dùng theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. Áp lực cung hạn chế dẫn tới tăng giá
trên thị trường, và do đó sức ép lạm phát tăng lên.
3.4 Lạm phát do chi phí đẩy.
Lạm phát chi phí đẩy bắt nguồn từ sự gia tăng chi phí do các nguyên nhân
chủ yếu như chi phí tiền lương tăng, giá nguyên vật liệu tăng, chính sách thuế và

các khoản phải nộp khác tăng; công nghệ sản xuất lạc hậu, cơ chế quản lý kém hiệu
quả đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Mô hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn ra
lạm phát chi phí đẩy.
Lạm phát chi phí đẩy.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 7


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam
AS 2

P
(Mức giá)

GVHD: Ths Lê Bảo

AS 1

AS 0

P2
P1
P0

AD1
AD0
,


*
Q Q

Q
(San lượng)

Ban đầu đường tổng cầu là AD 0, đường tổng cung là AS0. Khi chi phí đầu vào
tăng (ví dụ giá dầu lửa tăng), các hãng giảm mức cung hàng hoá, dịch vụ và đường
tổng cung dịch chuyển sang tới vị trí AS1, sản lượng giảm xuống còn Q’, đẩy mức
giá tăng từ P0 lên P1. Hiện tượng mức giá tăng liên tục, đồng thời sản lượng (hay
GDP thực tế) suy giảm được gọi tình trạng lạm phát đình trệ hay đình lạm
(stagflation); kèm theo đó là thất nghiệp gia tăng.
3.5 Lạm phát do cơ cấu.
Lạm phát cơ cấu phát sinh do sự mất cân đối sâu sắc trong cơ cấu của nền
kinh tế (chẳng hạn giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa khu vực sản xuất
và khu vực dịch vụ, giữa tích lũy và tiêu dùng) được gọi là lạm phát cơ cấu.

3.6 Một số nguyên nhân khác.
Ngoài những nguyên nhân trên, lạm phát còn có thể là do những yếu tố nằm
ngoài ý muốn chủ quan của con người như hạn hán, lũ lụt, động đất, hoả hoạn,
khủng bố cũng có thể làm nảy sinh lạm phát. Khi những điều này xảy ra trên diện
rộng, gây thiệt hại lớn thì toàn bộ nền kinh tế bị ảnh hưởng: sản xuất suy giảm, hàng
hóa không đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng và khắc phục hậu quả của các sự kiện
bất khả kháng. Phân tích này đặc biệt đúng trong trường hợp bất khả kháng xảy ra
tại một hay các vùng chuyên canh, các khu sản xuất mà nguyên vật liệu, sản phẩm
từ đó là nguồn cung cấp chủ yếu cho nền kinh tế. Nếu chúng kéo dài sẽ gây ra lạm
phát .

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.


Trang 8


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

Lạm phát còn có thể là kết quả của kỳ vọng về lạm phát của các tác nhân
trong nền kinh tế hoặc là kết quả của đầu cơ v.v... Khi các doanh nghiệp, các cá
nhân dự đoán rằng lạm phát sẽ tăng, họ tính đến lạm phát trong các quyết định của
mình: người cho vay sẽ nâng cao lãi suất danh nghĩa, người tiêu dùng tích trữ hàng
hoá, doanh nghiệp nâng cao dần giá bán sản phẩm. Chính những việc này đẩy giá cả
tăng lên và có thể gây lạm phát. Tương tự như vậy, việc các nhà sản xuất hoặc các
nhà đầu cơ tích trữ hàng hoá, không bán ra thị trường để tạo cơn sốt cung giả tạo
cũng dễ dẫn tới lạm phát.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 9


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

4. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế.
Lạm phát có những tác động không chỉ về mặt kinh tế mà trên cả khía cạnh
chính trị, xã hội. Mức độ tác động tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: tỷ lệ lạm phát,
khả năng dự toán chính xác sự thay đổi của lạm phát.
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế – xã hội tùy theo

mức độ của nó. Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên
cạnh những tác hại ko đáng kể; còn lạm phát cao và siêu lạm phát gây ra những tác
hại rất nghiêm trọng đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy
thuộc vào lạm phát đó có dự đoán trước được hay không nghĩa là công chúng và các
thể chế có tiên tri được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là một
điều bất ngờ. Nếu như lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm phát
không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có những giải pháp để thích nghi
với nó. Lạm phát không dự đoán trước được sẽ dẫn đến những đầu tư sai lầm và
phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền
kinh tế.
Lạm phát làm cho chúng ta khó có được thông tin về các nhân tố cấu thành
nên giá cả hợp lý của một hàng hóa, dịch vụ nào đó và do vậy khó đưa ra quyết định
xem có nên mua hay không và mua khi nào là có lợi. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét
cụ thể từng ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế.
4.1. Phân phối lại thu nhập và của cải.
Một số người thường cho rằng chỉ có lạm phát cao mới phân phối lại thu
nhập và của cải, nhưng thực tế không phải như vậy. Có những bằng chứng cho thấy
ngay cả lạm phát vừa phải cũng gây ra hiệu ứng này. Lạm phát làm cho tổng thu
nhập danh nghĩa tăng lên nhưng thực chất lại hàm chứa trong đó sự phân phối lại
thu nhập và của cải giữa các nhóm dân cư (giữa người đi thuê lao động và công
nhân, giữa người đi vay và người cho vay, giữa Chính phủ và người đóng thuế,...).
Ích lợi hay thiệt hại do lạm phát đem đến không phụ thuộc vào bản thân tỷ lệ lạm
phát mà phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát không được dự kiến. Nếu người mua và người
bán, chủ và thợ,... đều dự đoán chính xác về lạm phát thì không có sự phân phối lại
thu nhập và của cải. Hiệu ứng tái phân phối thể hiện rõ nét trên thị trường lao động
và trên thị trường vốn.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 10



Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

4.1.1 Trên thị trường lao động.
Thông thường, tiền lương được quy định trong hợp đồng lao động giữa
người đi thuê lao động (người chủ) và công nhân đều có tính đến một mức lạm phát
nào đó mà cả hai bên dự kiến. Nếu tỷ lệ lạm phát trên thực tế cao hơn dự kiến thì
khoản tiền lương trả thêm do dự tính một tỷ lệ lạm phát nhất định trong hợp đồng
không đủ để bù đắp sự thay đổi của lạm phát. Rõ ràng, người chủ có lợi nhuận cao
hơn còn lương của người lao động lại mua được ít hàng hóa hơn so với dự kiến ban
đầu của họ. Ngược lại, nếu mức lạm phát dự kiến trong hợp đồng lao động cao hơn
mức lạm phát thực tế xảy ra thì người chủ bị thiệt còn công nhân được lợi.
4.1.2 Trên thị trường vốn.
Lạm phát không được dự tính trước phân phối lại thu nhập giữa người đi vay
và những người cho vay. Nếu lạm phát xảy ra với tỷ lệ cao hơn dự đoán thì lãi suất
được đặt ra trước đó không đủ để bù đắp cho người cho vay vì tiền đang bị giảm sút
sức mua. Lúc đó người đi vay có lợi còn người cho vay bị thiệt. Trong trường hợp
tỷ lệ lạm phát thấp hơn mức đã dự kiến thì lãi suất đã định là quá cao; người cho
vay sẽ được lợi còn thua thiệt rơi vào người đi vay. Lạm phát tăng cao cũng gây
thiệt hại cho những người gửi tiền tiết kiệm (mà thực chất là người cho vay) vì sức
mua của khoản tiết kiệm bị giảm sút. Sự phân phối lại thu nhập giữa chủ và thợ,
giữa người cho vay và người đi vay khuyến khích họ cố gắng dự đoán lạm phát sao
cho càng chính xác càng tốt. Tuy nhiên, hầu hết họ đều dự đoán không chính xác sự
thay đổi của lạm phát và do vậy tác động của lạm phát về mặt phân phối lại thu
nhập và của cải luôn xảy ra.
Riêng hiệu ứng phân phối lại thu nhập giữa Chính phủ và người đóng thuế có
thể được thấy rõ trong phần phân tích tác động của lạm phát lên công cụ thuế khoá.

4.2. Tác động đến hiệu quả kinh tế.
4.2.1 Bóp méo tín hiệu giá cả.
Khi mức độ lạm phát của một nền kinh tế là vừa phải, nếu giá cả của một
hàng hóa nào đó trên thị trường tăng lên thì người bán cũng như người mua đều biết
rằng đã có sự thay đổi thực sự về cung và/hoặc cầu đối với hàng hoá đó và họ sẽ có
hành vi thích hợp để ứng phó (chẳng hạn, chuyển hướng tiêu dùng hay sản xuất mặt
hàng khác nhiều hơn để thay thế). Nhưng nếu nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 11


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

phát cao, người tiêu dùng sẽ khó so sánh giá cả giữa các hàng hoá với nhau vì giá
tất cả các hàng hoá đều tăng nhiều so với trước mà so sánh một tiêu thức nào đó với
một tiêu thức không đổi bao giờ cũng dễ hơn việc so sánh hai tiêu thức cùng biến
đổi. Tỷ lệ lạm phát càng cao càng khuyến khích người ta mua nhiều hàng hoá tích
trữ để tránh sự giảm sút sức mua của tiền tệ và đề phòng sự leo thang của giá cả. Vì
vậy, hàng hóa càng trở lên khan hiếm và giá cả càng lên cao, tạo ra cơn sốt cung giả
tạo. Người sản xuất có thể chạy theo cơn sốt "ảo" này để đẩy mạnh sản xuất. Điều
đó chứng tỏ giá cả trong thời kì lạm phát cao không phải là tín hiệu đáng tin cậy về
cầu thực tế của thị trường.
4.2.2 Chi phí "mòn giày"
Trong thời kì có lạm phát, người ta cố gắng giữ càng ít tiền càng tốt vì sức
mua của tiền tệ giảm sút nhanh chóng. Chi phí để giảm bớt lượng tiền nắm giữ được
gọi là "chi phí mòn giày" của lạm phát vì giày sẽ bị mòn và cũ nhanh chóng khi

người ta thường xuyên đến ngân hàng để lấy tiền. Đây chỉ là cách nói hình ảnh:
"chi phí mòn giày" chính là chi phí một người bỏ ra (chẳng hạn như hy sinh thời
gian, sự tiện lợi) để có tiền trong tay khi cần và phần nào tránh được sự giảm sút
sức mua của khoản tiền anh ta có.
Như vậy, lạm phát làm cho các cá nhân tốn nhiều thời gian, công sức để
"ném" số tiền mình có vào lưu thông và mua về các tài sản thực (hàng hóa, đất đai,
nhà cửa,...) hoặc chuyển đổi sang đồng tiền có sức mua ổn định. Nếu lạm phát thấp,
thời gian và sức lực đó được giành cho những việc khác. Đối với các doanh nghiệp,
họ phải đưa ra những kế hoạch phức tạp để quản lý tiền mặt. Vì thế, các nguồn lực
bị tiêu tốn vào việc đối phó với lạm phát chứ không phải để góp phần tạo ra các giá
trị thực.
4.2.3 Chi phí "thực đơn".
Đây là chi phí để thay đổi giá cả của hàng hoá dịch vụ bán ra khi lạm phát
tăng cao. Trong điều kiện bình thường của nền kinh tế, đa số các công ty, những
người cung cấp hàng hóa, dịch vụ không phải thay đổi giá bán hàng ngày, mà giá
của các sản phẩm thường được giữ cố định trong hàng tuần, hàng tháng, có khi tới
hàng năm vì điều chỉnh giá cả gây tốn kém thời gian, sức lực, của cải. Khi giá cả
thay đổi lớn, các công ty phải tăng thêm các nguồn lực để điều chỉnh giá cả: các nhà

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 12


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

hàng phải in thực đơn mới, các công ty thay đổi báo giá và catalogue, các cửa hàng,
siêu thị phải thay đổi giá bán các hàng hoá... Các chi phí phát sinh không chỉ gồm

chi phí in ấn, chi phí quảng cáo về các mức giá mới mà còn bao gồm các chi phí
"chìm" như chi phí tập hợp nhân lực để đưa ra các quyết định mới về giá, chi phí
giải quyết các vấn đề liên quan đến sự tức giận của khách hàng trước việc giá cả bị
thay đổi thường xuyên.
4.2.4 Chi phí điều chỉnh chính sách.
Lạm phát cao khiến các nhà hoạch định chính sách phải thường xuyên theo
dõi diễn biến lạm phát, phản ứng của dân chúng, dự báo của các nhà kinh tế để đưa
ra các chính sách thích hợp với thực trạng kinh tế lúc đó. Thay vì nghiên cứu định
hướng để đưa ra các chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai, họ phải
tập trung tìm kiếm các giải pháp để đối phó với lạm phát và đó là một chi phí không
chỉ với nhà nước mà là chi phí với cả nền kinh tế.
Chúng ta đã xem xét hiệu ứng phân phối lại thu nhập và của cải do lạm phát
gây ra cũng như các chi phí cho lạm phát xét ở góc độ vi mô. Trên tầm vĩ mô, lạm
phát tác động đến công ăn việc làm, sản lượng, hoạt động đầu tư, hoạt động xuất
nhập khẩu của nền kinh tế cũng như cán cân thanh toán quốc tế.
4.3. Tác động về mặt kinh tế vĩ mô.
4.3.1 Tác động đến tiết kiệm và đầu tư.
Mọi sự tăng lên quá nhanh của chỉ số giá đều có thể làm cho những dự đoán
về lạm phát trở nên sai lệch. Các nhà đầu tư khó có thể dự đoán về giá các yếu tố
đầu vào và đầu ra trong tương lai và điều này làm tăng rủi ro của việc ước tính lợi
ích của các dự án đầu tư. Kết quả là quyết định về tiết kiệm và đầu tư không đem lại
hiệu quả như mong muốn.
Lạm phát làm suy giảm đầu tư thông qua ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi nhà đầu tư mua thêm các máy móc, các trang
thiết bị, giá trị của các tài sản đó (cũng như các tài sản khác chưa khấu hao hết)
được khấu trừ vào thu nhập trước khi chịu thuế. Tổng giá trị khấu hao cho đến khi
hết vòng đời của tài sản bằng giá mua tài sản đó. Lạm phát làm cho giá trị thực của
tài sản được khấu hao giảm và nhà đầu tư phải nộp nhiều thuế hơn. Tỉ lệ lạm phát
càng cao thì lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp càng thấp. Lợi nhuận là động lực


SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 13


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

chủ yếu để các nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, nhưng trong thời kỳ lạm
phát, lợi nhuận bị thu hẹp. Vì thế, lạm phát làm suy giảm đầu tư, từ đó làm chậm
quá trình tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát còn kìm hãm đầu tư dài hạn, hạn chế sản xuất (vì nhà đầu tư không
chắc chắn là giá cả sẽ bình ổn trở lại trong tương lai), kích thích đầu cơ vào các tài
sản mang lại lợi nhuận nhanh chóng như bất động sản, vàng bạc, đá quý,... Một nền
kinh tế rơi vào lạm phát cao cũng có nghĩa là các khoản tiền gửi ngân hàng, các tài
sản tài chính có giá trị danh nghĩa cố định (như trái phiếu) bị suy giảm giá trị thực
một cách nhanh chóng. Đây là lý do khiến những người có tiền gửi tiết kiệm, những
người nắm giữ những tài sản tài tài chính tìm cách chuyển đổi chúng thành tiền mặt
rồi mua bất động sản, đồ cổ, đồ qúy hiếm,... để đầu cơ chờ giá lên. Hơn nữa, các
nhà đầu tư giảm lòng tin vào thị trường vốn và thị trường tín dụng vì lạm phát làm
lãi suất thực giảm, thậm chí còn có tình trạng âm. Theo đó, cung tiết kiệm giảm sút
và người ta có xu hướng ít đầu tư vào sản xuất, tức là đầu tư giảm. Những động thái
của ngân hàng trung ương trong thời kì có lạm phát cao nhằm đạt mục tiêu giảm tỷ
lệ lạm phát (như nâng cao lãi suất, thu hẹp cung tín dụng) sẽ kéo theo hiện tượng
thoái lui đầu tư, vốn chạy vào các ngân hàng và kèm theo là suy thoái kinh tế.
Khi lạm phát cao, đồng tiền trong nước mất giá trầm trọng so với ngoại tệ.
Các nhà đầu tư nước ngoài hiện tại và tiềm năng nhận thấy rằng lợi nhuận thu được
bằng đồng bản tệ sẽ đổi được ít ngoại tệ hơn. Họ cũng không tin tưởng vào sự an
toàn của môi trường đầu tư nội địa trong tương lai. Do đó, họ rút vốn về nước hoặc

không muốn đầu tư nữa.
4.3.2 Tác động tới tình trạng thất nghiệp.
Lạm phát cao làm cho nền kinh tế dịch chuyển khỏi trạng thái toàn dụng
nhân công. Trong trường hợp cả hãng sản xuất và công nhân đều dự đoán rằng lạm
phát sẽ cao nhưng thực tế không diễn ra như vậy thì lương thực tế của công nhân
tăng. Những dự đoán thiếu chính xác trong thời gian dài buộc các công ty phải sa
thải bớt nhân công; do vậy mà tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Những người còn có việc
làm thì được lợi còn người đi thuê lao động bị thiệt.
Ngược lại, nếu cả người đi thuê và công nhân đều cho rằng lạm phát thấp
nhưng lạm phát thực tế lại cao hơn đáng kể so với dự đoán của họ thì sự gia tăng

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 14


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

lương theo thoả thuận không đủ bù đắp lạm phát không dự kiến được. Điều này có
lợi cho nhà sản xuất nên họ cố gắng thuê nhiều lao động để đẩy mạnh sản xuất. Do
tỷ lệ tăng lương thấp hơn tỷ lệ lạm phát trong thực tế, một số công nhân rời bỏ nhà
máy, xí nghiệp họ đang làm để đi tìm việc ở nơi mà lương họ được trả có thể bù đắp
tác động của lạm phát lên thu nhập. Hãng sản xuất muốn nhà máy hoạt động với
công suất cao hơn nhằm đáp ứng cầu hàng hoá lên cao thì phải trả tiền làm thêm giờ
cho số công nhân hiện tại, ngay cả khi sản phẩm chưa được tung ra thị trường. Hơn
nữa, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị cũng gia tăng do tăng công suất hoạt động;
điều này làm lợi nhuận thực tế của nhà sản xuất không tăng nhiều như khi lạm phát
thấp. Những người công nhân bỏ nhà máy đi tìm việc nhưng chưa chắc họ đã tìm

được chỗ làm mới phù hợp; những người ở lại nhà máy cảm thấy mình bị lừa dối vì
tiền lương của họ bây giờ mua được ít hàng hoá hơn họ từng nghĩ. Một tâm lý
không ổn định, muốn thay đổi chỗ làm bao trùm trong lòng những người làm thuê.
Chính tâm lý này và tình trạng công nhân bỏ việc để tìm việc khác có mức lương
cao hơn đẩy tỷ lệ thất nghiệp lên cao.
4.3.3 Tác động đến hoạt động ngoại thương và cán cân thanh toán
quốc tế.
Đối với các nền kinh tế mở, lạm phát còn tác động đến hoạt động ngoại
thương và cán cân thanh toán quốc tế thông qua tác động đến tỷ giá hối đoái. Theo
lý thuyết cân bằng sức mua (PPP- Purchasing Power Parity), nước nào có tỷ lệ lạm
phát cao hơn thì đồng tiền nước đó mất giá so với ngoại tệ. Khi đó, hàng xuất khẩu
trở nên rẻ tương đối trên thị trường nước ngoài và xuất khẩu gia tăng; còn hàng
nhập khẩu vào trong nước trở nên đắt hơn và nhập khẩu giảm. Cán cân tài khoản
vãng lai được cải thiện và ảnh hưởng tích cực lên cán cân thanh toán quốc tế. Tuy
nhiên, về lâu dài, lạm phát cao sẽ phá hoại đầu tư và sản xuất, hàng hóa không có
nhiều để xuất khẩu nữa, nhập khẩu gia tăng mạnh mẽ làm cho cán cân thanh toán
thâm hụt nặng nề.
4.3.4 Tác động đến công cụ thuế khoá.
Lạm phát làm tăng gánh nặng thuế đối với người nộp thuế và làm giảm thu
nhập của họ vì các nhà hoạch định chính sách thường không tính đến lạm phát khi
soạn thảo các chính sách pháp luật. Tác động này của lạm phát đặc biệt rõ nét với

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 15


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo


các trường hợp thuế đánh vào lợi nhuận chuyển nhượng tài sản và thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Ví dụ trong trường hợp thuế đánh vào lợi nhuận từ hoạt động chuyển nhượng
tài sản: khi giá bán lại tài sản cao hơn giá ban đầu mua tài sản đó, người hưởng lợi
từ hoạt động bán lại sản này có nghĩa vụ nộp thuế. Chẳng hạn, vào năm 2005, một
người mua cổ phiếu của một công ty với giá 20 USD; đến năm 2010 bán lại với giá
60 USD. Nếu mức giá từ năm 2005 đến năm 2010 tăng gấp rưỡi thì 20 USD bỏ ra
để mua cổ phiếu vào năm 2005 tương đương 30 USD vào năm 2010; do đó thu
nhập thực tế của người đó là: 60 USD - 30 USD = 30 USD. Song, thuế thu nhập vẫn
bị tính trên số lợi nhuận danh nghĩa 40 USD. Như vậy, khi có lạm phát người đó
phải nộp số tiền thuế cao hơn khi không có lạm phát là: (40 USD - 30 USD) x thuế
suất.
Qua ví dụ trên ta thấy lạm phát làm cho thuế khóa trở thành gánh nặng cho
người nộp thuế. Khoản lãi thực mà họ kiếm được từ việc tiết kiệm có khi còn rất ít,
thậm chí không còn sau khi đã nộp thuế. Chúng ta càng hiểu rõ hơn rằng lạm phát
cao không khuyến khích những người có vốn nhàn rỗi đem gửi tiết kiệm, tức là một
nguồn vốn quan trọng cho đầu tư bị giảm sút và dẫn đến việc người ta tìm cách trốn
thuế.
4.4. Tác động về mặt xã hội - chính trị.
Như chúng ta đã thấy, bất lợi của lạm phát cao đối với nền kinh tế là rất lớn;
mà kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng còn chính trị xã hội thuộc về kiến trúc thượngnhững biến đổi về về cơ sở hạ tầng sẽ kéo theo sự thay đổi trong kiến trúc thượng
tầng. Lạm phát gây thiệt hại nặng nề cho những người nghỉ hưu, những người thất
nghiệp, những người nghèo đói, các đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội do thu
nhập của họ thấp và thường không thay đổi (chỉ thay đổi khi nhà nước có chính
sách quy định thu nhập này được tăng lên khi lạm phát tăng). Lạm phát cao còn gây
tình trạng thất nghiệp của người lao động, các doanh nghiệp rơi vào phá sản, những
người cho vay lớn bị thua thiệt quá nhiều. Đời sống của đa số nhân dân trở lên khó
khăn; trong họ là tâm lý hoang mang, lo sợ lạm phát sẽ tăng cao hơn nữa, nhiều tệ
nạn xã hội nảy sinh. Các mối quan hệ xã hội giữa người đi thuê lao động và công

nhân, giữa người đi vay và cho vay, giữa người nộp thuế và nhà nước... cũng bị rạn

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 16


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

nứt. Khắp nơi dấy lên những cuộc bãi công biểu tình của công nhân dưới sự bảo trợ
của công đoàn để đòi tăng lương. Đó là những tác động của lạm phát về mặt xã hội.
Những bất ổn trong đời sống kinh tế xã hội tất yếu sẽ dẫn tới những bất ổn
về mặt chính trị. Những người thất nghiệp, những người nghèo khổ, các chủ doanh
nghiệp bị phá sản mà tựu trung lại là tất cả những ai bị thiệt hại nặng nề do lạm phát
sẽ giảm dần lòng tin vào chính phủ của họ. Đối với một thể chế nhà nước, không
thể nói rằng không có các lực lượng chống phá, cản trở bên trong và bên ngoài
nhằm lung lạc rồi lật đổ chính phủ. Lạm phát tăng cao, càng kéo dài và tác động
càng nặng nề đến nền kinh tế, xã hội thì đất nước càng khó có được sự bình ổn
chính trị.
II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM
GẦN ĐÂY.
1. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam.
Kết thúc năm 2010, những dấu hiệu khôi phục kinh tế toàn cầu đầu tiên đã
bắt đầu xuất hiện. Kinh tế Việt Nam trải qua một năm với rất nhiều khó khăn trong
bối cảnh nền kinh tế và chính trị toàn cầu có nhiều bất ổn.Vượt lên tất cả những
khó khăn này, nền kinh tế Việt Nam đã về đích với tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn
tượng 6,78%. Tuy nhiên, nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều vấn đề bất ổn với thâm hụt
thương mại tăng cao, đầu tư nước ngoài tăng chậm, dự trữ ngoại hối xuống thấp và

đặc biệt là tỷ lệ lạm phát 2 chữ số đã đặt ra bài toán nan giải cho các nhà hoạch
định chính sách. Vấn đề kìm chế lạm phát là một trong những khía cạnh quan trọng
nhất của công tác quản lý kinh tế vĩ mô. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng
và nhà nước ta trong những năm sắp đến.
1.1 Nhập khẩu lạm phát và bài học lạm phát năm 2007-2008.
Năm 2008, lạm phát của Việt Nam lên tới mức kỷ lục 23,1%. Bên cạnh các
tác động tiêu cực do tăng trưởng tín dụng nóng thì biến động giá cả hàng hóa thế
giới và chính sách tỷ giá ngoại hối của Việt Nam là một phần nguyên nhân dẫn tới
nhập khẩu lạm phát và làm cho lạm phát của Việt Nam cao gấp 2 lần so với các
nước khác trong khu vực.
Từ nửa cuối năm 2007 tới đầu năm 2008, giá cả các loại hàng hóa trên thế
giới đã tăng nhanh tỷ lệ nghịch với sự mất giá danh nghĩa của đồng USD đẩy mặt

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 17


Lam phat va tinh hinh lam phat Viờt Nam

GVHD: Ths Lờ Bao

bng gia nguyờn nhiờn vt liờu u vao, c biờt la du thụ, lờn cao gp 2 n 3 ln
so vi nm 2003. Gia du la ó tng t 53,4 USD/thựng thang 01/2007 lờn 89,4
USD/thựng thang 12/2007, va at nh mi 125,96 USD/thựng vao ngay 09/5/2008.
Tc tng gia nng lng, va c biờt la gia lng thc trong giai oan nay la
nguyờn nhõn dn ti tinh trang lam phat trờn diờn rng tt ca cac nc trờn th
gii. n cui nm 2007, lam phat so vi cựng ky nm trc ca Viờt Nam la
12,63% va n thang 4/2008, ty lờ nay ó la 21,42%. Nhin vao hinh 1, cú th nhn
thy ty lờ lam phat ca Viờt Nam luụn cao hn gp ụi mc lam phat ca cac nc

trong khu vc.
Hũnh 1. Laồm phaỏt cuóa Viùồt Nam vaõ caỏc nỷỳỏc (% so vỳỏi
cuõng kyõ nựm trỷỳỏc)

Nguửỡn: ADB, Tửớng cuồc Thửởng kù caỏc nỷỳỏc
Tac ng ca lam phat do chi phớ y Viờt Nam thng cao hn gp ụi
cac nc khac trong khu vc la do Viờt Nam thc thi chớnh sach neo gia ụng ni tờ
vi USD. Cac nc trong khu vc nh Malaysia va Thai Lan theo ui chớnh sach
tha ni cú iu tit ụng ni tờ va ó iu chnh lờn gia ni tờ theo gia tr danh ngha
ca ụng USD trong thi gian nay. K ca Trung Quc la nc cú nhiu im tng
ụng trong viờc thc thi chớnh sach ty gia vi Viờt Nam cng ó iu chnh lờn gia
danh ngha ni tờ. Kt qua la trong khoang thi gian t thang 1/2004 n u nm
SVTH : Nguyờn Th Hin ( 30/4/1990) Lp 34k04.

Trang 18


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

2008, đồng Việt Nam có xu hướng mất giá danh nghĩa, trong khi các đồng tiền của
các nước khác trong khu vực có xu hướng lên giá danh nghĩa so với đồng USD
(Hình 2)
Hònh 2. Biïën àöång tyã giaá danh nghôa so vúái USD (1/20051/2008; 1/2005=1)

1.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam năm 2010 và những tháng đầu
năm 2011.
Năm 2010, Việt Nam lạm phát hơn 11,75% gấp rưỡi mức 6,52% của 2009,
vượt xa mục tiêu ban đầu (dưới 7%). Mặc dù năm 2010, bội chi ngân sách đã được

kéo xuống còn dưới 6%, nhưng nếu tính cả huy động trái phiếu, thì tỷ lệ vẫn còn ở
mức 7%. Đó là mức rất cao, không những là một trong những nguyên nhân của lạm
phát cao, mà còn làm gia tăng nợ nần.
Nhập siêu năm 2010, so với năm trước và so với kế hoạch năm, đã giảm và
thấp hơn cả về kim ngạch tuyệt đối cũng như tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu,
nhưng nhập siêu liên tục, kéo dài và hiện ở mức khá cao (năm 2007 là 14,2 tỷ USD,
năm 2008 là 18,0 tỷ USD, năm 2009 gần 12,9 tỷ USD, năm 2010 khoảng 12 tỷ
USD). Điều này đã tác động tiêu cực tới cán cân thanh toán, dự trữ ngoại hối và tạo
sức ép lên tỷ giá. Giá USD trên thế giới giảm, nhưng ở trong nước vẫn tăng (năm

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 19


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

2008 tăng 6,31%, năm 2009 tăng 10,7%, 11 tháng năm 2010 tăng 6,63%), làm tăng
mạnh gánh nặng lạm phát …
Một trong những biểu hiện rõ nét nhất trong thời kỳ lạm phát này là giá cả
leo thang, đồng tiền bị mất giá mạnh, đặc biệt là trong những tháng đầu năm 2011.
Ngay sau những ngày Tết Tân Mão, thông tin một số mặt hàng thiết yếu, như gas,
điện, xăng dầu v.v...đồng loạt tăng giá đã khiến cho người tiêu dùng vô cùng lo
lắng... Cụ thể là vào đầu tháng 2-2011, giá gas đã được các hãng điều chỉnh giảm từ
22.000-25.000 đồng/bình do giá gas trên thế giới giảm tới 122,5 USD/tấn so với
tháng 1, xuống còn 853 USD/tấn. Đến ngày 12-2, bình gas 12kg sẽ tăng thêm từ
15.000-17.000 đồng và được bán với giá mới là 320.000-325.000 đồng/bình. Như
vậy, chỉ sau hơn chục ngày công bố giảm giá, giá bán của chất đốt này lại chính

thức được điều chỉnh tăng lên.
Trong khi giá gas bất ngờ tăng chỉ sau 10 ngày xuống giá thì mặt hàng xăng,
dầu cũng đang ''nhấp nhổm” tăng thêm khi hàng loạt các đơn vị kinh doanh kêu lỗ
nặng. Cụ thể là các doanh nghiệp đã có 2 đợt tăng giá vào ngày 24.2.2011 và ngày
29.3.2011. Đợt tăng giá vào ngày 29.3, liên bộ Tài chính - Công thương đã thống
nhất để các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đầu mối tăng 2.000 đồng/lít xăng
(xăng A92 từ 19.300 đồng/lít lên 21.300 đồng/lít), diesel tăng 2.800 đồng/lít (diesel
0,05S từ 18.300 đồng/lít lên 21.100 đồng/lít), dầu hỏa tăng 2.600 đồng/lít (từ 18.200
đồng/lít lên 20.800 đồng/lít), mazut tăng 2.000 đồng/kg (từ 14.800 đồng/kg lên
16.800 đồng/kg). Dù tăng mạnh nhưng giá xăng dầu nước ta vẫn thấp hơn các nước
xung quanh từ 2.300-5.000 đồng/lít.
Theo bản tin xăng dầu ngày 9/4/2011 của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam,
giá dầu thô tháng 4/2011 tiếp tục tăng so với tháng 3/2011 do chiến sự căng thẳng
tại Lybia, bất ổn lan sang Nigeria và các nước Trung Đông. Kinh tế Mỹ phục hồi
cùng với việc đồng USD giảm giá đã đẩy giá dầu tăng thêm. Trong tháng 4/2011,
giá mặt hàng này đã tăng lên mức cao nhất trong gần 31 tháng qua. Giá dầu thô bình
quân tháng 4/2011 là 109,85 USD/thùng tăng 6,82 USD, tương đương 6,62% so với
tháng 3/2011, tương tự dầu thô Brent cũng lên mức 122,81 USD/thùng, tăng thêm
8,19 USD/thùng tương đương 7,14%.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 20


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

Điện cũng không nằm ngoài các danh mục cần tăng giá. Hồi tháng 3-2010,

giá bán lẻ điện đã có một đợt điều chỉnh. Theo đó, giá bán điện sinh hoạt tăng bình
quân 6,8% so với năm 2009 và lên mức 1.037 đồng mỗi KWh. Và mới đây Chính
phủ đã đồng ý tăng giá bán điện bình quân năm 2011 lên 15,28% so với năm 2010.
Theo đó, giá điện năm 2011 sẽ tăng từ 1.058 đồng/KWh lên 1.220 đồng/KWh.
Cùng với sự leo thang của giá gas, xăng, điện… các mặt hàng khác cũng
đồng loạt lên giá như đường, sữa, dầu ăn, gạo, rau trứng các loại…trong đó đường,
sữa, dầu ăn được xem là lên nhiều nhất. Ngay cả tiền đi học, tiền học phí, tiền mua
sách vở, tất cả mọi thứ linh tinh đều tăng.
Khó khăn hơn hết trong thời điểm lạm phát này là nhà nông, bởi giá vật tư
nông nghiệp đầu vào ngày càng tăng cao. Điều này bất lợi cho người nông dân vì
giá đầu vào sẽ làm tăng chi phí sản xuất của họ. Giá mọi thứ đều tăng, giá lúa cũng
tăng so với các năm trước nhưng thu nhập của người dân vẫn vậy. Bán lúa được
nhiều tiền hơn,nhưng mua lại các thứ khác cũng cao hơn. Cụ thể phân bón tăng
khoảng gần 30%, có một số loại phân tăng trên 30%, thuốc sâu thuốc bảo vệ thực
vật cũng tăng từ 20% đến 30%.
• Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 4 tháng đầu năm 2011.
Tổng cục Thống kê cho biết tốc độ tăng CPI trong tháng 4 của cả nước là
3,32%. Tính từ đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 9,64%, vượt qua mức cho
phép.
Tăng giá mạnh nhất trong rổ hàng hóa tính CPI là các nhóm hàng và dịch vụ
giao thông (6,04%), chủ yếu do tác động của quyết định điều chỉnh giá xăng
dầu vào cuối tháng 3. So với thời điểm cuối năm 2010, giá cả tại nhóm này đã tăng
hơn 15,2%.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 4 tháng đầu năm 2011. Số liệu: GSO

Chi

phí

vận


SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 21


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

chuyển tăng cao cũng tác động lớn đến giá cả các mặt hàng khác. Giá hàng ăn và
dịch vụ ăn uống tăng tới 4,5% (cao gấp rưỡi mức tăng của tháng Tết), trong đó, giá
thực phẩm tăng hơn 5,6%, ăn uống ngoài gia đình tăng 3,31%. Giá nhà ở (gồm cả
tiền thuê nhà, điện, nước, chất đốt…) và vật liệu xây dựng cũng tăng 4,38%.
Ngay cả bưu chính viễn thông, nhóm hàng thường xuyên giảm giá trong
những tháng trước, cũng tăng nhẹ 0,02% trong tháng 4. Các mặt hàng còn lại đều
tăng giá trên 1%. Riêng chỉ số giá vàng và đôla Mỹ (không tính vào CPI) giảm lần
lượt 1,2% và 1,6%.
Mức tăng CPI vượt trên 3% trong tháng 4 của cả nước vốn đã được dự báo
sau khi Hà Nội, TP HCM và một số tỉnh lần lượt công bố giá tiêu dùng tại địa
phương mình. Tuy nhiên, tốc độ tăng giá tới 3,32% được xem là khá bất ngờ. Con
số này cũng góp phần đưa lạm phát của 4 tháng đầu năm lên mức xấp xỉ 10%, vượt
qua mức Quốc hội cho phép gần 3%. So với tháng 4/2010, mặt bằng giá hiện tại
cũng đã cao hơn khoảng 17,6%.
2. Nguyên nhân gây nên lạm phát ở Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam trong thời
gian gần đây, nhưng chủ yếu là những nguyên nhân chính sau.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.


Trang 22


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

2.1 Lạm phát tiền tệ.
Đây là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ. Lạm phát tiền tệ thường xuất phát
từ chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ. Cho đến năm 2009, tỷ lệ cung tiền trên
GDP của Việt Nam đã xấp xỉ 120 %, trong khi từ năm 1992 – 1998, tỷ lệ này chỉ ở
mức 20%. Như vậy chỉ trong vòng 10 năm, tỷ lệ cung tiền trên GDP của nước ta đã
tăng 6 lần. Tỷ lệ tăng cung tiền và tín dụng đã luôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng GDP danh nghĩa trong một thời gian dài. So với các nước trong khu vực,
mức tăng cung tiền của Việt Nam là khá nhanh. Từ sau cuộc khủng hoảng 19971999, các nước trong khu vực có xu hướng giảm cung tiền duy chỉ có Trung Quốc
và Việt Nam. Trung Quốc đẩy tỷ lệ cung tiền từ khoảng 20% GDP lên xấp xỉ 120%
GDP trong vòng hai thập kỷ ( 1978-1998) trong khi đó Việt Nam cũng đẩy mức
cung tiền như trên chỉ trong vòng một thập kỷ (1998 – 2009). Cung tiền tăng nhanh
quá mức làm cho đồng nội tệ mất giá, đẩy mức giá chung tăng lên, tình trạng lạm
phát vì vậy cũng tăng cao.
Bên cạnh đó, sự chi tiêu quá mức và thất thoát lớn trong xây dựng cơ bản của
chính phủ hay chính sách tiền tệ quá nới lỏng, dẫn tới tăng cung tiền, tăng đầu tư
tín dụng quá mức v.v. cũng là nguyên nhân gây lạm phát.
2.2 Lạm phát do cầu kéo.
Do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm
nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể
cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài gửi về không được
tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận
dân cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhu
cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá

xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng trên 15% so với năm 2006) kéo
theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung
trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp. Tất cả các yếu
tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là
lương thực thực phẩm tăng theo.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 23


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

2.3 Lạm phát do chi phí đẩy.
Nguyên nhân của loại lạm phát này là do giá nguyên liệu, nhiên liệu đồng
loạt tăng mạnh trong những tháng đầu năm 2011. Các doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu đã tăng giá 2 lần (ngày 24/2 và ngày 29/3), mỗi lít xăng tăng khoảng 30%,
dầu tăng khoảng 38% đã tác động trực tiếp tăng chỉ số giá nhóm giao thông vận tải
và gián tiếp nhiều vòng đến hoạt động sản xuất của các lĩnh vực khác. Giá điện cho
sản xuất, sinh hoạt cũng được điều chỉnh tăng. Mặt khác, giá nguyên nhiên liệu trên
thế giới trong những năm gần đây tăng mạnh. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ
thuộc rất lớn vào nhập khẩu ( nhập khẩu chiếm đến 90% GDP ) giá nguyên liệu
nhập tăng làm tăng giá thị trường trong nước.
2.4 Lạm phát do thâm hụt mậu dịch và thâm hụt ngân sách quốc gia.
2.4.1 Lạm phát do thâm hụt mậu dịch.
Năm 2009, Việt Nam xuất cảng 56,6 tỷ USD, 12% thấp hơn năm 2008, trong
đó chủ yếu xuất cảng quần áo (9 tỉ USD), dầu thô (6,2 tỉ USD), giầy dép (4,2 tỉ
USD), sản phẩm nông, lâm nghiệp và hải sản.

Nhập cảng vào Việt Nam trong năm 2009 tổng cộng là 68,8 tỷ USD, 18%
thấp hơn năm 2008. Nguyên nhân chính cho sự sụt giảm làm do nhà máy lọc dầu
Dung Quất đầu tiên tại Việt Nam bắt đầu hoạt động nên Việt Nam chỉ nhập 6,2 tỷ
USD xăng dầu thay vì 10,8 tỷ USD vào năm 2008. Những mặt hàng nhập vào Việt
Nam nhiều nhất là máy móc và đồ phụ tùng chiếm 12,4 tỉ USD, sắt và thép 5,3 tỉ, tơ
sợi 4,2 tỉ, hàng điện tử và computer 3,9 tỉ, Ô-tô 2,9 tỉ.
Nhập cảng nhảy vọt đưa đến người giàu có lợi dụng cơ hội Việt Nam vào
WTO đặt mua hàng hóa xa sỉ như máy bay, xe hơi đắt tiền v.v…, thêm vào đó sự
yêu chuộng hàng hoá nước ngoài của dân chúng xuất phát từ ý thức vọng ngoại,
không tin tưởng vào hàng hoá nội địa. Sau 24 năm “đổi mới“ Việt Nam vẫn không
thoát ra khỏi nền kinh tế gia công và nông nghiệp. Việt Nam vẫn lệ thuộc vào xuất
khẩu và phải nhập khẩu hàng hoá, máy móc để cho dân chúng tiêu dùng.
Năm 2009, con số thâm hụt mậu dịch là 12,2 tỉ USD. Để có thể chi phí cho
thâm hụt mậu dịch, nền kinh tế trong nước đòi hỏi nhu cầu về ngoại tệ và vốn nhập
từ nước ngoài, qua đó gây áp lực giảm giá trị đồng tiền nội địa đưa đến việc tăng lãi
xuất và lạm phát.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.

Trang 24


Lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

GVHD: Ths Lê Bảo

2.4.2 Lạm phát do thâm hụt ngân sách quốc gia.
Các khoản thu chính của nhà nước Việt Nam là từ thuế và lệ phí, bán dầu
thô, viện trợ và vay nước ngoài. Cuộc khủng hoảng kinh tế làm nhà nước giảm các
khoản thu từ thuế và bán dầu thô, đồng thời nhà nước phải chi phí để kích cầu nên

thâm hụt ngân sách quốc gia tăng trưởng từ 1,7% vào năm 2007 lên 4,9% trong năm
2008. Theo ngân hàng phát triển Á Châu, trong năm 2009 Việt Nam thâm hụt ngân
sách 10,3%.
Để chi phí cho thâm hụt ngân sách quốc gia, nhà nước buộc phải mượn thêm
nợ. Nếu nhà nước mượn được nợ của người dân trong nước thì vấn đề tương đối
không nghiêm trọng, vì tiền lưu truyền trong nội địa của một nền kinh tế. Trường
hợp Việt Nam, nhu cầu vốn cao hơn tổng số tiền tiết kiệm của người dân trong nước
nên thâm hụt ngân sách làm nhu cầu vốn càng cao hơn và qua đó nhu cầu muợn vốn
từ nước ngoài cũng tăng lên.
Tiền lãi và tiền mượn nợ được trả bằng tiền thuế thu từ nhân dân trong nước.
Do số tiền thu thuế có giới hạn, nếu không tăng thuế thì những hoạt động của nhà
nước buộc phải thu hẹp (không gian chi tiêu). Nếu tiền lãi không được trả cho chủ
nợ hàng năm thì tiền nợ mỗi ngày mỗi cao hơn. Thêm vào đó, tiền nợ trong quá khứ
và tiền nợ trong tương lai chồng chất mỗi ngày mỗi cao đã đẩy quốc gia rơi vào
vòng luẩn quẩn khó thoát khỏi cơn nợ như hiện nay.
Theo dự đoán của chuyên gia kinh tế quốc tế, năm 2009 Việt Nam mang nợ
tổng cộng 47,5% tổng sản lượng quốc gia, trong đó có 25,7 tỉ USD là nợ nước
ngoài. Những rủi ro xảy ra trong trường hợp thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài
cao là do áp lực giảm giá trị đồng tiền nội địa dẫn đến tăng lãi xuất và tăng lạm
phát. Ngoài ra, gây áp lực giảm khả năng tín dụng của quốc gia đã làm tăng lãi xuất
tín dụng. Các nguyên nhân trên đã làm tăng giá sản phẩm và lạm phát tăng vụt trong
những tháng qua.
3. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
3.1 Tác động của lạm phát đến lãi suất.
Lạm phát cao và triền miên như hiện nay có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam. Tác động đầu tiên của lạm phát đến
nền kinh tế là lãi suất.

SVTH : Nguyễn Thị Hiền ( 30/4/1990) Lớp 34k04.


Trang 25


×