Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Bài thuyết trình: Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (19531954) và chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 43 trang )

Trường Đại Học Văn Hiến

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953-1954)
và chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
GV: NGÔ QUANG TY
Danh sách nhóm 6:

Nguyễn Khánh Luân :
Nguyễn Khánh Duy
:
Phan Quang Trường :
Nguyễn Quang Vinh :
Xa Công Khương
:
Nguyễn Văn Tiến
:
Phan Võ Hải Triều
:
Nguyễn Hoàng Hải Âu :
Trương Thị Thanh Thảo :

151A010207
151A010206
151A010190
151A030393
151A030669
151A110128
161A090016
161A140194
161A150372



I. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II

II. Kế hoạch Nava

III. Chiến

lược Đông Xuân (1953-1954)

IV. Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)


I. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II
1. Hoàn cảnh lịch sử
a. Quốc tế

- Từ năm 1950, phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ.
-

Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được củng cố và tăng cường về mọi mặt.

- Phong trào giải phóng dân tộc vẫn tiếp tục phát triển làm rung chuyển hậu
phương của chủ nghĩa đế quốc.
- Về phía chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ.

- Cho tới lúc này, Mỹ đã căn bản hoàn thành việc chia lại thị trường thế giới
tư bản dưới sự khống chế của Mỹ.
- Mỹ còn ra sức tiếp tay cho các đế quốc khác trong cuộc chiến tranh xâm
lược thuộc địa, chuẩn bị điều kiện hất cẳng bọn thực dân cũ, thay bằng chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ.



- Để cứu nguy cho Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh và thực hiện ý
đồ can thiệp sâu vào Đông Dương, Mỹ đã quyết định tăng cường viện trợ
cho Pháp và quân đội bù nhìn.
- Sự ủng hộ về tinh thần và giúp đỡ về vật chất củu các nước XHCN cho
cuộc kháng chiến của ba nước Đông Dương là một nhân tố tích cực.
- Song việc Mỹ cấu kết với Pháp, tăng cường can thiệp vào Đông
Dương… cũng gây cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhiều phức
tạp.
=>Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải có những chủ trương, chính sách phù hợp


b. Trong nước:
- Sau 16 năm kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng, tình hình có những chuyển
biến căn bản.
- Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đưa nhân dân ta từ người mất
nước lên người làm chủ đất nước.

- Nhưng do dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta lại phải tiếp tục
cầm súng đứng lên đánh giặc để bảo vệ nền tự do, độc lập.
- Qua hơn 5 năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân
dân ta đã liên tiếp thu được nhiều thắng lợi, thực dân Pháp ngày càng sa lầy
vào cuộc chiến khó tránh khỏi thất bại.
- Tuy nhiên, cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới lại có những yêu cầu
mới, đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách để đưa cách mạng tiến lên.


Hình 1: Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2-1951)



2. Nội dung:
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập nhằm đáp
ứng những đòi hỏi bức thiết đó.
- Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ
ngày 11 đến ngày 19/2/1951.
- Về dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay
mặt cho 766.349 đảng viên đang sinh hoạt trong Đảng bộ toàn Đông
Dương.
- Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng
Cộng sản Xiêm (Thái Lan).
- Sau diễn văn khai mạc của đồng chí Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên
cứu và thảo luận kỹ các báo cáo trình trước Đại hội: Báo cáo Chính trị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của Tổng Bí
thư Trường Chinh, Báo cáo về Tổ chức và Điều lệ Đảng của Đồng chí Lê
Văn Lương, cùng nhiều báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất,
Chính quyền dân chủ nhân dân, Quân đội nhân dân, Kinh tế tài chính và
về Văn hoá, văn nghệ… và những tham luận khác.


- Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát những chuyển
biến của tình hình thế giới và trong nước những năm nửa đầu thế kỷ XX,
dự đoán những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau.
- Về quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng trong 2 năm qua, Báo cáo
khẳng định những thắng lợi to lớn của cách mạng, kiểm điểm sự lãnh đạo
của Đảng và những bài học kinh nghiệm của các thời kỳ vận động cách
mạng của Đảng.
- Căn cứ vào sự phân tích cụ thể tình hình thế giới và trong nước, Báo cáo
Chính trị nêu khẩu hiệu chính của ta là tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược

và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ
hoà bình thế giới.
- Bản Báo cáo cũng nêu lên mấy nhiệm vụ chính trong nhiệm vụ mới của
cách mạng Việt Nam:
1. Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
2. Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.


- Để thực hiện nhiệm vụ thứ nhất cần phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng
vũ trang (quân đội, dân quân, du kích) về mọi mặt (bao gồm nâng cao
giác ngộ chính trị nâng cao chiến thuật và kỹ thuật, nâng cao kỷ luật tự
giác; tổ chức, huấn luyện, chỉ đạo và sức chiến đấu),
- Củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất (Mặt trận Liên Việt Việt Minh); phát huy tinh thần yêu nước và đẩy mạnh thi đua ái quốc
(trước hết, là bộ đội thi đua giết giặc lập công; hai là, nhân dân thi đua
tăng gia sản xuất), triệt để giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của thực
dân và Việt gian chia cho dân cày nghèo, thực hiện công bằng hợp lý về
thuế khoá; tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến của Cao Miên và Lào, tiến
tới thành lập Mặt trận thống nhất Việt-Miên-Lào.
- Muốn làm tốt nhiệm vụ trên, cần phải có một Đảng hoạt động công khai,
tổ chức phải phù hợp với tình hình thế giới và trong nước để lãnh đạo
toàn dân kháng chiến đến thắng lợi.
- Mục đích trước mắt của Đảng là đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng
chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ
mới, xây dựng điều kiện để tiến tên chủ nghĩa xã hội.


- Ở Việt Nam, Đại hội quyết định xây dựng Đảng Lao động Việt Nam.
- Kế thừa truyền thống của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động
Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lịch sử trọng đại vừa tiếp tục lãnh đạo cuộc
kháng chiến của nhân dân ta, vừa có nghĩa vụ giúp đỡ các Đảng cách

mạng ở Lào và Campuchia đấu tranh thắng lợi.
- Nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến khăng khít với
nhau. Nhưng trọng tâm của cách mạng trong giai đoạn hiện tại là giải
phóng dân tộc.
- Kẻ thù trước mắt của cách mạng là chủ nghĩa đế quốc xâm lược và bè lũ
tay sai. Mũi nhọn của cách mạng chủ yếu chĩa vào bọn đế quốc xâm lược.
- Nhiệm vụ phản phong kiến nhất định phải làm đồng thời với nhiệm vụ
phản đế, nhưng làm có kế hoạch, có từng bước. Lực lượng cách mạng Việt
Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản
và giai cấp tư sản dân tộc.
- Cuộc cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến do nhân dân tiến
hành, trong đó, công nông là động lực chủ yếu và do giai cấp công nhân
lãnh đạo gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.


- Căn cứ vào tình hình thế giới và tình hình trong nước, căn cứ vào nhiệm
vụ và tính chất của cách mạng nước ta, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt
Nam vạch ra 12 chính sách của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. 12 chính sách đó là:
+ Đẩy mạnh kháng chiến đến toàn thắng, tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược
và bè lũ tay sai, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất;
+ Thi hành từng bước chính sách ruộng đất, tiến tới thực hiện khẩu hiệu
người cày có ruộng, xoá bỏ các hình thức bóc lột phong kiến và nửa
phong kiến ở nước ta;
+ Xây dựng, củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân về chính trị,
kinh tế và văn hoá, chuẩn bị tiến lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa;
Củng cố mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc xâm lược;
+ Xây dựng và phát triển quân đội nhân dân;
+ Chính sách dân tộc;

+ Chính sách đối với tôn giáo;
+ Chính sách đối với vừng bị địch chiếm;
+ Chính sách đối với ngoại kiều;
+ Chính sách đối ngoại;


+ Ra sức ủng hộ cách mạng Campuchia và cách mạng Lào;
+ Tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và độc lập dân
tộc của nhân dân thế giới.
- Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 19 uỷ viên chính
thức và 10 uỷ viên dự khuyết.
- Ban Chấp hành đã bầu Bộ Chính trị gồm có bảy uỷ viên chính thức và
một uỷ viên dự khuyết.
- Bầu đồng chí Hồ Chí Minh là Chủ tịch Đảng. Đồng chí Trường Chinh là
Tổng Bí thư.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng đánh dấu một mốc quan
trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta.
- Đường lối do Đại hội vạch ra đã đáp ứng yêu cầu trước mắt của kháng
chiến và yêu cầu lâu dài của cách mạng, và thực sự là những đóng góp
quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta.


II. Kế hoạch Nava:
1. Hoàn cảnh:
- Trải qua 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, lượng của ta
ngày càng lớn mạnh, thu được nhiều thắng lợi trên các mặt trận chính trị,
kinh tế, quân sự và ngoại giao, thực dân Pháp thiệt hại ngày càng nặng nề.
- Quân Pháp trên chiến trường ngày càng lâm vào thế phòng ngự bị động.
- Trước tình thế bị sa lầy và thất bại của Pháp, Mĩ ngày càng can thiệp sâu
hơn vào Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích

cực chuẩn bị thay thế Pháp.
- Ngày 7-5-1953, tướng Nava - tổng tham mưu trưởng lục quân khối Bắc
Đại Tây Dương được cử sang Đông Dương làm tổng chỉ huy quân đội
Pháp thay Xalăng, Nava mang theo kế hoạch chiến lược mang tên mình và
hy vọng chuyển bại thành thắng trong vòng 18 tháng sẽ giành lấy một
thắng lợi quyết định để “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.


Hình 2: Tướng Nava sang thay Tướng Xa-lăng


Hình 3: Tướng Nava
Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương 1953-1954.


2. Nội dung:
- Tháng 7-1953, chính phủ Pháp và hội đồng quốc phòng Pháp đã thông qua
kế hoạch.
+ Về tác chiến, kế hoạch Nava chia ra làm hai bước:
- Bước thứ nhất: Pháp chủ trương giữ thế phòng ngự chiến lược ở miền Bắc,
tránh giao chiến với chủ lực của ta, thực hiện tấn công chiến lược ở miền
Nam, giành lấy nguồn nhân lực, vật lực, xóa bỏ vùng tự do Liên khu V, đồng
thời ra sức mở rộng ngụy quân, tập trung binh lực, xây dựng đội quân cơ
động chiến lược mạnh.
- Bước thứ hai, từ thu-đông 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ,
thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc
ta phải đàm phán với những điều kiện có lợi cho chúng nhằm kết thúc chiến
tranh.
- Để thực hiện kế hoạch Nava, thực dân Pháp tăng thêm ở Đông Dương 12
tiểu đoàn binh đưa từ Pháp và Bắc Phi sang, đồng thời xin Mĩ tăng thêm viện

trợ quân sự (tăng gấp đôi so với trước, chiếm tới 73% chi phí chiến tranh ở
Đông Dương), ra sức tăng cường ngụy quân, đưa lực lượng này lên đến 334
000 quân vào đầu năm 1954.


- Từ thu-đông 1953, Nava tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ 44 tiểu đoàn quân
cơ động (trong tổng số 84 tiểu đoàn trên toàn Đông Dương), tiến hành những
cuộc càn quét nhằm bình định vùng chiếm đóng, mở rộng hoạt động thổ phỉ,
biệt kích ở vùng rừng núi biên giới phía bắc, mở cuộc tiến công lớn vào Ninh
Bình, Thanh Hóa (10-1953)

III.Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân (1953-1954):
1. Chủ trương của ta:
- Tháng 9-1953, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam đã họp và thông qua kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953-1954 với
quyết tâm giữ vững thế chủ động chiến lược trên toàn chiến trường Đông
Dương.
-Phương hướng chiến lược được đề ra là: “Tập trung lực lượng mở những
cuộc tấn công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối
yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời
buộc chúng bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa điểm
xung yếu mà chúng không thể bỏ.


Hình 4: Bộ Chính trị họp quyết định chủ trương tác chiến


- Do phải phân tán lực lượng mà tạo ra cho chúng ta thêm những điều kiện
mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng”.
- Phương châm chung là: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”; “Đánh

chắc thắng”.
- Thực hiện phương châm chiến lược trên, trong Đông - Xuân 1953-1954,
quân ta mở một loạt chiến dịch tiến công đối phương trên nhiều hướng, ở
hầu khắp các chiến trường trên toàn Đông Dương, kiên quyết giữ vững thế
chủ động, đồng thời buộc Nava phải đánh theo cách của ta.

2. Diễn biến:
- Ngày 20-11-1953, phát hiện bộ đội của ta di chuyển lên hướng Tây Bắc,
Nava cho 6 tiểu đoàn Âu - Phi tinh nhuệ nhảy dù xuống Điện Biên Phủ
vừa để bảo vệ Điện Biên Phủ, vừa bảo vệ Thượng Lào.
- 11/1953 quân ta tấn công lên thị xã Lai Châu, bao vây Điện Biên Phủ. Sau
10 ngày, quân ta giải phóng toàn bộ thị xã Lai Châu, tiêu diệt 24 đại đội
địch. Nava buộc phải điều 6 tiểu đoàn cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ lên
tăng cường Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành nơi tập trung quân
thứ hai của địch (sau đồng bằng Bắc Bộ).


Hình 5: Bộ đội Đại đoàn 316 hành quân lên Tây Bắc trong
Chiến cuộc Đông-Xuân.


- Đầu tháng 12/1953 cùng với quân
dân Pathét Lào, ta tiến công Trung
Lào, giải phóng thị xã Thà Khẹt, tỉnh
Khâm Muộng uy hiếp Xê-nô. Địch
phải điều quân từ Bắc Bộ sông Xê-nô
biến Xê-nô thành nơi tập trung quân
thứ ba của địch.
- Ở Hạ Lào, một đơn vị nhỏ quân tình
nguyện Việt Nam phối hợp với quân

đội Pathét Lào men theo dãy Trường
Sơn, vượt hơn 200 km đường rừng tiến
xuống giải phóng thị xã Atôpơ và toàn
bộ cao nguyên Bôlôven, thừa thắng bộ
đội ta tiến sát phía nam đường số 9, Hạ
Lào bị uy hiếp mạnh. Địch phá kho vũ
khí tháo chạy.

Hình 6: Lược đồ tấn công chiến
lược Đông-Xuân 1953-1954


- Ngày 20-1-1954, Nava tập trung 20
tiểu đoàn mở chiến dịch Átlăng đánh
chiếm Tuy Hòa. Kiên quyết giữ vững
thế chủ động đánh địch, ta chỉ để lại
một bộ phận chủ lực và du kích chống
càn.
- Tháng 2-1954 bộ đội ta tiến đánh
địch ở Bắc Tây Nguyên giải phóng
Kontum, buộc địch phải bỏ dở cuộc
hành quân lên Tuy Hòa (Phú Yên) để
tăng cường lực lượng giữ Plâycu.
- Cũng vào cuối tháng 1-1954, bộ đội
chủ lực ta phối hợp với quân đội
Pathét Lào tiến đánh địch ở Thượng
Lào giải phóng tỉnh Phongxalỳ, uy
hiếp Luông Phabang. Nava phải dùng
cầu hàng không đưa quân đội từ đồng
bằng Bắc Bộ tăng cường cho Luông

Phabang và Mường Sài.

Hình 6: Lược đồ tấn công chiến lược ĐôngXuân 1953-1954


- Trong khi đó, phối hợp chặt chẽ với
mặt trận chính, chiến tranh du kích
phát triển mạnh ở vùng sau lưng (Bắc
Bộ, Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bình Trị
Thiên)
- Đầu tháng 2/1954 ta tấn công địch ở
Bắc Tây Nguyên giải phóng Kon tum,
loại khỏi vòng chiến đấu 2 000 địch,
giải phóng toàn tỉnh Kon Tum, một
vùng rộng lớn với 20 vạn dân, bao vây,
uy hiếp Playcu, buộc địch phải điều
quân lên Nam Tây Nguyên, biến
Playcu trở thành nơi tập trung quấn
thứ tư của địch.
- Cùng thời gian này, ta tấn công sang
Thượng Lào.
- Quân đội nhân dân Việt Nam và quân
Pathét Lào đã tấn công quân địch ở
Lưu vực sông Nậm Hu.

Hình 6: Lược đồ tấn công chiến lược ĐôngXuân 1953-1954


-Giải phóng Phong xa lì, uy hiếp
Luông Pha băng, địch phải tăng cường

cho Luông Pha băng và Mường sài,
biến nơi này thành nơi tập trung quân
thứ năm của địch.
- Ở Nam Bộ, các tiểu đoàn chủ lực
khu, chủ lực tỉnh tiến vào vùng tạm
chiếm để tiêu diệt địch, đẩy mạnh
phong trào đấu tranh của nhân dân kết
hợp với địch vận.
- Ở Nam Trung Bộ, chiến tranh du
kích phát triển mạnh, bao vây bức rút
hàng loạt cứ điểm, đồn bốt địch, giải
phóng nhiều vùng rộng lớn như Điện
Bàn (Quảng Nam) với 4 vạn dân.
-Ở Bình-Trị-Thiên, quân ta hoạt động
mạnh trên tuyến đường sắt và Đường
số 1, nhiều đoàn tàu, xe của địch bị
tiêu diệt

Hình 6: Lược đồ tấn công chiến lược ĐôngXuân 1953-1954


-Ở đồng bằng Bắc Bộ, du kích tiến
hành tập kích địch trên tuyến đường
Hà Nội-Hải Phòng, phá hủy nhiều tàuxe. Nhiều đô thị, ngay cả Hà Nội và
các sân bay Cát Bi (Hải Phòng), Gia
Lâm (Hà Nội) cũng bị quân ta tập
kích, phá hủy nhiều máy bay.
-Ngoài ra, ta còn đẩy mạnh chiến tranh
du kích ở vùng sau lưng địch, phá
đường giao thông, sân bay, kho tàng

của địch, buộc địch phải phân tán lực
lượng đối phó với ta.
-Như vậy, kế hoạch tập trung quân cơ
động lớn của Nava không thực hiện
được do ta tấn công nhiều chiến lược
khác nhau, địch buộc phải phân tán lực
lượng đối phó với ta ở những vùng
xung yếu mà chúng ta không thể bỏ.
Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản.

Hình 6: Lược đồ tấn công chiến lược ĐôngXuân 1953-1954


×