Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

so gddt thanh hoa mon ngu van lan 1 nam 2017 file word co loi giai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.63 KB, 5 trang )

SỞ GD & ĐT THANH HÓA
ĐỀ THI THỬ TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUỐC GIA LẦN 1
NĂM HỌC 2016 – 2017
MÔN THI: NGỮ VĂN
Thời gian làm bài: 120 phút
Phần đọc hiểu (3, 0 điểm):
Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4
Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch
lạc bằng tiếng nước mình. Hình như đối với họ, việc sử dụng Pháp ngữ là một dấu hiệu thuộc
giai cấp quý tộc, cũng như sử dụng nước suối Pe – ri – ê (Perrier) và rượu khai vị biểu trưng
cho nền văn minh châu Âu. Nhiểu người An Nam bị Tây hóa hiện nay tưởng rằng khi cóp
nhặt những cái tầm thường của phong hóa châu Âu họ sẽ làm cho đồng bào của mình tin là
họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương.
Thái độ mù tịt về văn hóa châu Âu như thế không nên làm chúng ta ngạc nhiên. Vì chỉ
có những người đã hiểu biết vững một nền văn hóa rồi mới có khả năng thưởng thức một nền
văn hóa ngoại bang. Những kiểu kiên trúc và trang trí lai căng của những ngôi nhà thuộc về
những người An Nam được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh
Pháp, chứng tỏ rằng những người ở An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh
nào. Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với
giống nòi lo lắng.
(Trích “Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” – Nguyễn An Ninh)

Câu 1: (0,5 điểm): Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn văn bản trên?
Câu 2: (0,5 điểm): Câu văn “Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi
người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng” thể hiện đặc trưng nào của phong cách ngôn
ngữ mà anh chị đã xác định đúng trong câu hỏi 1?

Câu 3: (1 điểm): Hãy nêu nội dung chính của đoạn văn bản trên.
Câu 4: ( 1 điểm): Thái độ và quan điểm của Nguyễn An Ninh đối với vấn đề nêu ra trong
văn bản?
Phần làm văn



Câu 1: (2 điểm): Nghị luận xã hội
Từ nội dung của văn bản “Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp
bức” của nhà báo Nguyễn An Ninh, anh chị hãy viết một bài văn (dung lượng

– Website chuyên đề thi file word có lời giải chi tiết


khoảng 200 từ) phát biểu suy nghĩ của bản thân về việc học và sử dụng ngoại ngữ
của thanh niên hiện nay.
Câu 2: (5 điểm)
Kết thúc bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng đã viết:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm vị chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
(SGK Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, trang 89)
Dựa vào cảm nhận của anh/chị về cả bài thơ, hãy lí giải vì sao trong khổ thơ
trên, tác giả lại khẳng định “ Tây Tiến người đi không hẹn ước” và “Hồn về Sầm
Nứa chẳng về xuôi”

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
PHẦN ĐỌC HIỂU
Câu 1: Đoạn văn thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận kết hợp với phong cách ngôn ngữ
báo chí. (Nếu học sinh chỉ trả lời là thuộc phong cách ngôn ngữ chính luận thì vẫn cho điểm
tối đa)
Câu 2: Câu văn “Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam
tha thiết với giống nòi lo lắng” thể hiện một đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ chính
luận: Tính công khai về quan điểm chính trị.
Câu 3: Ý chính của đoạn văn bản trên gồm:

-

Thói xấu của một bộ phận người An Nam đương thời: nói tiếng Pháp như một thứ

trang sức để tỏ ra mình được đào tạo theo kiểu phương Tây chứ thực sự không hiểu sâu sắc
văn hóa phương Tây.
-

Đằng sau hành động đó là sự lai căng văn hóa, không hiểu rõ bất cứ nền văn hóa nào,

kể cả văn hóa bản địa lẫn văn hóa nước ngoài.

– Website chuyên đề thi file word có lời giải chi tiết


-

Đó là một hiện tượng khiến cho những người “tha thiết với giống nòi” phải lo lắng.

Câu 4: Thái độ và quan điểm của Nguyễn An Ninh đối với vấn đề nêu ra trong văn bản.
-

Thái độ: Lo lắng, bức xúc trước những thói xấu và sự lai căng văn hóa của một bộ

phận người An Nam đương thời.
-

Quan điểm: lên án thói xấu và sự lai căng văn hóa của một bộ phận người An Nam

đồng thời kêu gọi sự đồng tình của “những người An Nam tha thiết với giống nòi”

PHẦN LÀM VĂN
Câu 1: (2 điểm)
1. Yêu cầu về kỹ năng
-

Làm đúng một kiểu bài nghị luận xã hội, bài viết có kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát,

không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp. Dung lượng đạt yêu cầu.
-

Vận dụng tốt các thao tác giải thích, chứng minh, bình luận.

2. Yêu cầu về kiến thức:
Đây là đề mở nên học sinh có thể tự do trình bày theo cách của mình. Tuy nhiên vẫn cần thể
hiện được các ý cơ bản như sau:
-

Thanh niên hiện nay rất cần sử dụng thành thạo tiếng nước ngoài để phù hợp với nhu

cầu hòa nhập. Mỗi người ít nhất nên thành thạo một ngoại ngữ theo năng lực và điều kiện của
bản thân (Dẫn chứng cụ thể)
-

Việc học tập và hiểu biết sâu sắc tiếng nước ngoài nhất thiết phải gắn với việc làm chủ

được nó, tránh tình trạng hiểu biết một cách hời hợt dẫn đến sử dụng không hiệu qủa. (Dẫn
chứng cụ thể)
-

Việc học tập và sử dụng tiếng nước ngoài thành thạo không có nghĩa là thờ ơ, coi


thường vốn ngôn ngữ dân tộc vì một con người càng thành đạt càng phải biết trân trọng tiếng
mẹ đẻ.
-

Thanh niên hiện nay cần thấy được lợi ích thực sự của việc học ngoại ngữ chứ không

chỉ coi việc học ngoại ngữ ngữ một trò đua đòi. Đặc biệt, cần tránh sự lai căng vô lối, hời hợt,
lạm dụng tiếng nước ngoài một cách tùy tiện.
-

Rút ra bài học cho bản thân

Câu 2: (5 điểm)
1. Yêu cầu về kỹ năng: Học sinh biết cách làm bài nghị luận văn học bàn về một ý kiến bàn
về văn học. Văn viết trôi chảy, có cảm xúc, thể hiện được tính chất văn chương, không mắc
lỗi diễn đạt, dùng từ, chính tả.
2. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh trình bày theo sự sáng tạo của mình, tuy nhiên cũng cần
đảm bảo được các ý cơ bản sau:
– Website chuyên đề thi file word có lời giải chi tiết


- Tây Tiến được sáng tác năm 1948, là bài thơ tiêu biểu của đời thơ Quang Dũng, cũng là
một kiệt tác của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Xa Tây Tiến nhưng lòng luôn hướng về Tây
Tiến, bài thơ bộc lộ nỗi nhớ da diết về một miền đất, một đoàn quân trong những ngày tháng
hào hùng, gian khổ của tác giả.
- Đọc Tây Tiến, ta thấy hiện lên hình ảnh của một đoàn quân đặc biệt, hoạt động ở vùng biên
giới phía Tây tổ quốc. Những chiến sĩ Tây Tiến vừa can trường, mạnh mẽ, vừa lãng mạn, hào
hoa. Họ nguyện “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, sẵn sàng xông pha nơi dốc cao vực
thẳm, bền gan trên những dặm hành binh, vượt lên những bệnh tật do môi trường sống khắc

nghiệt đưa lại, coi nhẹ cái chết. Ý chí của họ được thể hiện không chỉ qua các chi tiết miêu tả
trực tiếp về con người mà còn qua các chi tiết miêu tả thiên nhiên dữ dội:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Hay
Chiều chiều oai linh tác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
- Tây Tiến là thế giới của những kỉ niệm: kỉ niệm về các vùng đất đã qua (
Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Mai Châu,…);
+ kỉ niệm về bao cảnh trí hùng vĩ, dữ dội mà đẹp một cách lạ thường
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa sa khơi
+Kỉ niệm về nét thơ mộng của hoa về trong đêm hơi, của chiều sương, của hồn lau nẻo
bến bờ, kỉ niệm về chặng hành binh mệt mỏi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
+ Kỉ niệm về những cảnh sinh hoạt, những đêm lửa trại thắm tình nghĩa đồng bào, đồng chí
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Hay
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
+ Kỉ niệm về chốn thành đô xa xôi
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
+ Kỉ niệm về giây phút bi tráng tiễn đưa đồng đội
Rải rác biên cương mỗ viễn xứ
– Website chuyên đề thi file word có lời giải chi tiết


Hay

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
-

Bốn câu cuối như muốn thâu tóm những nét nổi bật trong cảm hứng sáng tạo và chi

phối tứ thơ của toàn bài. Qua hình ảnh người lính Tây Tiến được khắc họa trực tiếp hay gián
tiếp thì người đọc đều cảm nhận được rất rõ rằng:
Tây Tiến người đi không hẹn trước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Câu thơ gợi nhớ lời một khúc ca của Phan Huỳnh Điểu sáng tác trong thời kì kháng chiến
chống Pháp”
Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Là có sá chi đâu ngày trở về
Lại gợi nhớ câu trơ trong Tống biệt hành của Thâm Tâm:
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không nói bao giờ trở lại
Tất cả đều mang hàm nghĩa chỉ sự quyết chí lên đường với tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của
người tráng sĩ.
- Nghĩ về một dải biên cương chứa đầy kỉ niệm, nhân vật trữ tình của bài thơ khẳng định dứt
khoát:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Ý thơ ở đây có điểm gần gũi với ý thơ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ:
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hai câu cuối bài thơ Tây Tiến có thể hiểu như sau: Ai đã từng lên Tây Tiến, ai đã từng
có một thời Tây Tiến thì dù có đi đâu, đến chân trời nào, hồn vẫn gửi về nơi đó, vẫn quấn
quyện với từng ngọn núi, con thác, bờ lau, với những bản làng thấp thoảng trong mà mưa xa
khơi… Rõ ràng, đây đúng là những câu thơ đã trình bày một cách thật cô đọng bao tình cảm

nhớ thương mà các chiến sĩ Tây Tiến dành cho mảnh đất mình từng đi qua, từng sống trong
một thời gian lao mà anh dũng

– Website chuyên đề thi file word có lời giải chi tiết



×