Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

tieu luan triet hoc phương đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.37 KB, 42 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Lịch sử hình thành, phát triển của Nho giáo với nội dung, tính chất và vai trò lịch
sử của nó luôn là đề tài hấp dẫn đối với giới nghiên cứu lý luận. Dường như mỗi
một bước tiến mới của lịch sử thì từng vấn đề trong nội dung của Nho giáo lại được
đề cập, xem xét lại và được đánh giá một cách đầy đủ hơn, đúng đắn hơn. Có thể
nói, một học thuyết ra đời cách đây hơn 2.500 năm đã được sự kiểm chứng của thời
gian thì giá trị của nó về mặt lý luận và thực tiễn là điều chúng ta không dễ bỏ qua.
Cuộc đời của Khổng Tử là một cuộc hành trình đi tìm cơ hội chính trị để hành
đạo của người quân tử, nhưng thời thế lại không mỉm cười với ông. Những tư
tưởng, những ước vọng của ông đều dồn vào việc dạy học và chính thông qua việc
dạy học Khổng Tử đã tiến hành xây dựng nên những con người có tài trí và đức
hạnh để kinh bang tế thế nhằm thiết lập một xã hội theo lý tưởng. Những lời dạy
của Khổng Tử đã được học trò đời sau tập hợp lại thành sách Luận Ngữ, một trong
những cuốn sách gối đầu giường của nhà Nho.
Tìm hiểu về nội dung tác phẩm Luận Ngữ, ta có thể tìm thấy các quy phạm về
hành vi, đạo đức trong đời sống hàng ngày và cả phương thức học tập cho đến
những đạo lý quản lý gia đình, quốc gia, xã hội, quan niệm về mẫu người quân tử…
Những tư tưởng của Khổng Tử được các nhà tư tưởng Nho gia tiếp tục phát triển và
hoàn thiện theo yêu cầu của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, có vai trò định hướng
hành động của mỗi cá nhân. Thật vậy, cho đến nay nhiều tư tưởng, quan niệm về xã
hội, con người, đạo đức, giáo dục… của Khổng giáo vẫn còn giá trị và mang tính
thời sự, những yếu tố tích cực là cơ sở quan trọng để chúng ta kế thừa trong quá
trình xây dựng con người trong thời đại mới.
Thực hiện bài tiểu luận này tác giả sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân
tích và tổng hợp quy nạp và diễn dịch... nhằm tìm hiểu làm rõ nội dung và ý nghĩa
của tác phẩm “Luận Ngữ”. Kết cấu của tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung của tiểu luận gồm 2 chương, 4 tiết.



2

Chương 1. KHÁI QUÁT NHỮNG CƠ SỞ, TIỀN ĐỀ ĐỐI VỚI SỰ HÌNH
THÀNH NHO GIÁO. VÀI NÉT VỀ KHỔNG TỬ VÀ
TÁC PHẨM “LUẬN NGỮ”
1.1. CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG ĐỐI VỚI SỰ
HÌNH THÀNH NHO GIÁO

1.1.1. Khái quát điều kiện lịch sử, kinh tế - chính trị - xã hội cho sự
hình thành tư tưởng của Nho giáo
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ
thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi
ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho giáo ra đời trong một bối cảnh lịch sử đầy biến động và bản thân nó
cũng chính là một lời giải đáp cho những yêu cầu của xã hội đương thời. Thời đại
của Khổng Tử là thời kỳ mà xã hội diễn ra những biến đổi sâu sắc trên tất cả các
mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: ở Trung Quốc, đến thời Xuân Thu, là thời kỳ phát triển
mạnh mẽ của nền nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Vào khoảng thế
kỷ XI – V TrCN, ở Trung Quốc đã xuất hiện những trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hóa lớn.
Sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh hưởng, tác động to lớn
đến lĩnh vực chính trị - xã hội. Nó làm xuất hiện một cục diện mới trong xã hội
Trung Quốc thời Xuân Thu, đó là triều đại nhà Chu suy sụp từ đầu Đông chu đến
đây hết hẳn. Tình trạng xen kẽ lẫn nhau giữa hình thái chiếm hữu nô lệ cứ lùi dần và
hình thái phong kiến cát cứ mới nảy sinh với xu thế hướng tới tập quyền ngày càng
mạnh mẽ cũng chấm dứt”. [6, 21]

Sự tác động đó trước hết và rõ rệt nhất là đối với các hình thức sở hữu ruộng
đất và kết cấu giai cấp của xã hội. Hệ quả tất yếu là những mâu thuẫn vốn có và mới
nảy sinh trong lòng xã hội ngày càng sâu sắc, trầm trọng hơn, đặc biệt là mâu thuẫn


3

giữa giai cấp thống trị bóc lột với giai cấp nông dân và các tầng lớp bị thống trị, bị
bóc lột khác. Xã hội đứng trước những biến động lớn. Thiên tử không nắm được đất
vua và thần vua nữa. Các chư hầu không theo lệnh nhà Chu, chiến tranh thôn tính
giữa các nước Chư hầu xảy ra liên miên làm cho đất nước suy kiệt, đời sống của
nhân dân ngày càng đau khổ, cùng cực; sự xuất hiện nhiều cuộc bạo động, khởi
nghĩa của nông dân để phản kháng, chống lại chế độ nhà chu; trật tự, kỷ cương xã
hội ngày càng rối loạn;… tất cả đã uy hiếp sự tồn tại của chế độ cũng như cách tổ
chức, quản lý xã hội của nhà Chu và tạo ra một hợp lực đẩy nhà Chu đến bờ diệt
vong. Mặt khác, sự rối loạn trật tự xã hội đã tạo ra một tình trạng phi nhân tính, vô
đạo đang thống trị trong xã hội, làm cho các mối quan hệ giữa người với người đều
bị biến dạng ghê gớm.
Thực tiễn xã hội lúc bấy giờ đã đặt ra một vấn đề lớn: Cách tổ chức và quản
lý xã hội theo mô hình nhà Chu không còn thích hợp nữa. Vậy cần phải làm thế nào
để thiết lập lại trật tự, kỷ cương của xã hội, và điều quan trọng hơn cả là đưa xã hội
vào thế ổn định để phát triển. Việc nhận thức đúng đắn và giải đáp có hiệu quả vấn
đề này gắn liền và có mối quan hệ mật thiết với phương thức quản lý nào để đưa xã
hội Trung Quốc thoát ra khỏi tình trạng rối loạn, khủng hoảng và phát triển là nỗi
băn khoăn của thời đại và nội dung chủ yếu trong đời sống tư tưởng chính trị của
xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ.
Chính vì vậy trong xã hội Trung Quốc đã xuất hiện nhiều trung tâm, nhiều tụ
điểm của những kẻ sĩ. Mặc dù thành phần xuất thân của tầng lớp kẻ sĩ này là đa
dạng, phức tạp nhưng nhìn chung họ đều đứng trên lập trường giai cấp, tầng lớp
mình mà phê phán(cải tạo hay xóa bỏ) trật tự xã hội cũ. Tình hình trên đã tạo nên

cục diện “Bách gia tranh minh”, “Bách gia chư tử” mà kết quả là xuất hiện nhiều
nhà tư tưởng, nhiều học phái khác nhau trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Sự ra
đời của Nho giáo với tư cách là học thuyết triết học, học thuyết chính trị - xã hội,
đạo đức cũng từ bối cảnh đó.

1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành Nho giáo


4

Sự ra đời của Nho giáo còn bắt nguồn(tiếp thu, kế thừa) từ đời sống tư tưởng
(tôn giáo, chính trị, đạo đức) của Trung Quốc từ trước đến bấy giờ, đặc biệt dưới
thời nhà Chu.
Về tôn giáo, nhà Chu đề cao tư tưởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “thờ
thượng đế”, “trời và người hợp nhất”. Nhà Chu cho rằng, Trời(còn gọi là thượng đế)
là lực lượng có nhân cách, có ý chí và có uy quyền tuyệt đối. chính vì vậy mà nhà
Chu cho rằng, vì nhà Ân không biết mệnh trời, hành động không hợp với mệnh trời,
do vậy Thượng đế đã trừng phạt và để cho nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị dân.
Về chính trị, những nhà tư tưởng của tầng lớp quý tộc nhà Chu khẳng định
rằng, vì nhà Chu biết làm theo “mệnh trời” mà được “nhận dân” từ tay nhà Ân để
“hưởng dân và “trị dân” suốt đời; nếu kẻ nào chống lại thì nhà Chu vâng mệnh trời
và thay trời trừng phạt. Vua nhà Chu là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất và mọi
người trong xã hội đều là thần dân của nhà vua; vua là thiên tử được thay trời thống
trị thiên hạ, cai trị dân. Tư tưởng chính trị mang đầy màu sắc tôn giáo về ý trời,
mệnh trời.
Về đạo đức thì lấy hai chữ Đức và Hiếu làm nòng cốt. Khẳng định rằng vì
các bậc tiên vương nhà Chu có đức mà được sánh cùng thượng đế, được thượng đế
cho hưởng nước, hưởng dân… cho nên các vua đời sau phải biết kính cái đức đó,
phải biết bồi dưỡng nó để cho con cháu được hưởng nước, hưởng dân lâu dài. Hiếu
là thờ phụng tổ tiên, phải nhớ công lao của tổ tiên mà giữ gìn phép tắc tổ tiên để lại.

Có cái đức hiếu như vậy mới nhận được mệnh trời mà hưởng nước, hưởng dân mãi
mãi. Đây là quan niệm đạo đức nhằm củng cố và tuyên truyền sự tồn tại vĩnh viễn
địa vị thống trị của tầng lớp quý tộc nhà Chu và nhà nước quý tộc Chu.
Nho giáo tiếp nhận vào hệ thống của mình những tư tưởng tôn giáo, chính
trị, đạo đức của nhà Chu, về thực chất cũng là sự tiếp nhận một phương thức chính
trị mà giai cấp thống trị của các triều đại trước đây đã thực hiện là sử dụng thần
quyền để củng cố và thực hiện vương quyền.
Đến thời của Khổng Tử, Nho giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
nó không thể không liên hệ mật thiết với đời sống kinh tế của xã hội Trung Quốc


5

lúc bấy giờ. Do vậy, để khắc phục tình trạng rối loạn xã hội nhằm đưa xã hội vào
trạng thái ổn định và phát triển, ở phương diện nào đó, Nho giáo vẫn thừa nhận và
sử dụng sức mạnh của thần quyền. Nhưng mặt khác, Nho giáo khẳng định địa vị
đứng trên vương quyền đối với thần quyền cũng như vị trí, vai trò của con người
trong những diễn biến của lịch sử.
Sự xuất hiện của Nho giáo cũng nhằm giải đáp nhu cầu mà thực tiễn xã hội
Trung Quốc đặt ra lúc bấy giờ. Tuy nhiên khác với các học thuyết, giáo phái khác,
Nho giáo đặc biệt đề cao đạo đức, coi đạo đức là công cụ, là phương thức cai trị,
quản lý xã hội có hiệu quả nhất cũng như trong việc đưa xã hội từ “loạn” tới “trị”.
Có nghĩa là ở Nho giáo, đạo đức và chính trị gắn chặt với nhau, và vì vậy có thể nói,
Nho giáo chủ yếu là học thuyết chính trị - xã hội đạo đức.
1.2. KHỔNG TỬ VÀ TÁC PHẨM “LUẬN NGỮ”

1.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử (551 - 479 TCN), họ Khổng, tên Khâu, tự là Trọng Ni, người làng
Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay, ông là nhà triết học, nhà
chính trị và là nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung Quốc, người sáng lập ra đạo Nho một trong những trường phái triết học chính ở Trung Quốc cổ đại.

Cha của Khổng Tử là Thúc Lương Ngột, làm quan võ của triều đình nước
Lỗ, mất khi Khổng Tử mới tròn 3 tuổi. Mẹ là Nhan Thị, từ khi Thúc Lương Ngột
mất, gia đình Khổng Tử sống trong bần hàn nhưng Nhan Thị Vẫn quyết chí nuôi
con ăn học.
Thời đại Khổng Tử là thời đại “vương đạo” suy vi, “bá đạo” nổi lên, lấn át
Vương đạo nhà Chu làm cho chế độ tông pháp của nhà Chu đảo lộn, đạo lý nhân
luân suy đồi. Năm 19 tuổi, Khổng Tử làm Ủy lại coi việc cân đong thóc ở kho và
làm Tử chức lại coi việc nuôi bò, dê để dùng vào việc cúng tế. Năm 22 tuổi, Khổng
Tử bắt đầu dạy học, sau đó học nhạc và học đạo. Năm 33 tuổi, Khổng Tử đến nước
Chu để khảo sát tế lễ ở miếu đường. Ít lâu sau trở về Lỗ, gặp lúc loạn lạc Khổng Tử
bỏ qua Tề, sau lại trở về Lỗ, dạy học và nghiên cứu sách. Năm 53 tuổi, Khổng Tử
được vua Lỗ mời ra làm Trung Đô Tể (quan coi ấp Trung Đô). Thời gian này chính


6

sự của Khổng Tử được rất nhiều nơi sử dụng làm pháp độ. Chẳng bao lâu Khổng Tử
được phong làm Đại Tư Khấu, rồi Nhiếp tướng bộ coi việc hình án, ấn định luật lệ,
phép tắc trong nước. Trong 4 năm nhậm chức, Khổng Tử đã thẳng tay trừng trị bọn
loạn quan, nịnh quan trong triều, đem lại nước Lỗ cảnh “ban đêm ngủ không phải
đóng cửa, ban ngày ra đường không ai nhặt của rơi, luân thường đạo lý được coi
trọng”. Song vua nước Lỗ đam mê tửu sắc, đàn hát ca múa xa hoa, bỏ bê việc triều
đình nên Khổng Tử chán ngán, bỏ qua nước Vệ. Không được trọng dụng ở Vệ, ông
qua Trần, về Vệ, sang Tống lại qua Trần, về Vệ. Mười bốn năm ông cùng học trò
bôn ba mong gặp người sử dụng học thuyết của mình, song ý nguyện của ông đã
không thành. Trở lại Vệ lần cuối cùng, ở năm, sáu năm ông mới thực sự thấy bất lực
việc làm chính trị, nên trở về Lỗ dạy học, san định các sách vở đời trước. Tương
truyền rằng, học trò của ông đến ba ngàn người và khi ông mất, có người đã để tang
ông đến sáu năm, hàng trăm người làm nhà, lập cứ bên mộ ông, tạo thành làng
Khổng.

Khổng Tử không chỉ là nhà tư tưởng, nhà đạo đức vĩ đại mà còn là người
đầu tiên mở trường tư trong lịch sử Trung Quốc. Nói về giáo dục, không phải ngẫu
nhiên mà nhiều triều đại vua chúa Trung Quốc đã phong ông làm tiên sư, thánh sư
và nhân dân Trung Quốc cho ông là người thầy của muôn đời (vạn thế sư biểu). Từ
năm 22 tuổi cho đến cuối đời, Khổng Tử “... chẳng dám phong mình là thánh, chẳng
dám coi mình là nhân, nhưng quả là làm không biết chán, dạy không biết mỏi”[11,
231]. Con đường đi vĩ đại nhất của cuộc đời Khổng Tử trước hết là mở mang dạy
học, phổ cập giáo dục để đào tạo ra một hạng sĩ quân tử không chỉ biết “khắc kỷ
phục lễ vi nhân” mà còn để nhậm chức triều đình, tham gia gánh vác công việc
quốc gia.
Trong việc biên soạn sách, Khổng Tử hoàn toàn không sáng tác gì cả mà chỉ
ghi chép những gì đã có sẵn. Ông nói: Ta chỉ thuật lại mà không sáng tác, ta tin
tưởng và hâm mộ văn hóa cổ, ta trộm ví mình như Lão Bành (thuật nhi bất tác, tín
nhi hiếu cổ, thiết tỉ ư ngã Lão Bành)[11, 231]. Đó không phải là một câu nói khiêm
tốn như ta có thể nghĩ mà là cả một tín chỉ của Khổng Tử. Ông coi những triết lý và


7

hiểu biết của người xưa là đầy đủ và hoàn chỉnh, đời sau cứ thế mà theo không được
sửa đổi, thêm bớt gì cả. Học trò Khổng Tử có công san định và biên soạn bộ năm
cuốn sách được gọi là Ngũ Kinh gồm: Kinh Thi gồm tuyển tập 311 bài ca dao; Kinh
Thư, là tuyển tập những điển, mô, huấn, cáo, thệ, mệnh… của các đời Đường
Nghiêu, Ngu Thuấn cho đến các vua thời Đông Chu, Kinh Dịch (bói toán) là sách
bàn về các quy luật biến dịch của thế giới, Kinh Thư (văn từ của các vua quan),
Kinh Thi (các bài thơ và các bài hát), Kinh Lễ (các nghi thức về cúng tế và hội họp
trong triều đình) và Kinh Nhạc. Ngoài ra Khổng Khâu còn soạn ra bộ sách Xuân
Thu, là bộ kinh biên niên sử nước Lỗ từ đời Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai công(722 – 481
TrCN). Các cuốn kinh này đều đã bị thất lạc. Đến khi nhà Hán trọng nho học mới
cho tìm lại nhưng không được bao nhiêu. Các đệ tử hậu bối của Khổng Tử thêm bớt

vào rất nhiều, tạo thành năm cuốn sách gọi là Ngũ Kinh: Kinh Dịch, Kinh Thư,
Kinh Lễ, Kinh Thi và Kinh Xuân Thu. Riêng Kinh Nhạc chỉ còn lại một chương
được cho vào Kinh Lễ.
Các nho sĩ đời sau còn viết ra bốn cuốn sách khác là Đại Học, Trung Dung,
Luận Ngữ và Mạnh Tử. Bốn cuốn sách này, được gọi chung là Tứ Thư Đại Học (do
người học trò của Khổng Tử là Tăng Tử viết) và Trung Dung (do người học trò của
Tăng Tử là Khổng Cấp viết) thật ra chỉ là một số chương đã có trong Kinh, Luận
Ngữ (do Tăng Tử và các môn đệ soạn) ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử;
Tứ Thư và Ngũ Kinh được coi như những cuốn sách căn bản của Nho Giáo, trong
đó Luận Ngữ quan trọng hơn cả. Các nhà nghiên cứu cho rằng Luận Ngữ chính là
tư liệu đáng tin cậy nhất để nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử. Giáo sư Phan Ngọc
viết: “Khổng Tử tự cho mình là thuật lại mà không sáng tạo. Vậy trong đạo Nho có
một phần rất lớn là kế thừa mà không thuộc cách tiếp cận của Khổng Tử. Ta biết
chắc Kinh thi và được sử dụng để dạy và có thể cả những bộ phận của Kinh Thư,
Kinh Lễ. Tài liệu đáng tin cậy để khảo sát học thuyết của Khổng Tử là quyển Luận
Ngữ. Nó chủ yếu là sưu tập những lời của Khổng Tử. Chưa có ai ngờ vực về giá trị
của nó ”[6, 67]

1.2.2. Tác phẩm “Luận Ngữ”


8

Bốn tác phẩm kinh điển nổi tiếng của Nho giáo mà bất kỳ người nào nghiên
cứu học thuyết này cũng đều biết đến là Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử
trong đó Luận ngữ được xem là một trong những tác phẩm khởi đầu quan trọng cho
một nền Nho học Trung Hoa do Khổng Tử sáng lập.
Luận Ngữ có nghĩa là ngữ lục, ghi chép lại ngôn luận. Ban Cố đời Đông Hán
trong quyển hán thư có nói: Luận Ngữ là những ghi chép lời đối đáp của Khổng Tử
với đệ tử cũng như giữa các đệ tử với nhau về các sự việc. Đương thời mỗi môn đệ

đều có ghi chép. Sau khi Khổng Tử mất, các môn đệ biên soạn lại, vì thế gọi là
Luận ngữ. Đây là cuốn sách đề cập đến các vấn đề của triết học, chính trị, tôn giáo,
đạo đức... Có thể nói, những tinh tuý được rút ra từ những vấn đề đó nhằm mục đích
xây dựng con người toàn thiện, toàn mỹ cho một xã hội phong kiến lý tưởng theo
học thuyết của Không Tử. Đó là mẫu người quân tử - con người toàn thiện trong
Luận ngữ của Khổng Tử.
Bản Luận Ngữ lưu hành phổ biến ngày nay có 20 thiên, khoảng hơn 11000
chữ. Mỗi thiên lấy hai hoặc ba chữ đầu đặt tên cho thiên như: học nhi, thuật nhi…
trước đây để cho dễ đọc và nghiên cứu, người ta chia Luận Ngữ thành hai phần là
thượng luận và hạ luận. Trong lịch sử đã có nhiều học giả chú giải Luận Ngữ, trong
đó Luận Ngữ chính nghĩa của Lưu Bảo Nam đã tiếp thu các thuyết của các nhà chú
giải khác kết hợp với những điều tâm đắc trong quá trình nghiên cứu của mình,
được công nhận là công trình có giá trị học thuật cao nhất.
Tóm lại, Luận Ngữ có một vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống tư
tưởng Nho gia. Nó vừa là tài liệu đáng tin cậy nhất mà bất cứ ai muốn nghiên cứu
về Nho gia phải đọc đến, vừa là tác phẩm văn học độc đáo trong lịch sử văn học
Trung Quốc có nội dung bao quát tư tưởng Nho gia và được xem là thánh kinh của
người Trung Hoa.

Chương 2. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA TÁC PHẨM “LUẬN NGỮ”
2.1. NỘI DUNG TÁC PHẨM

2.1.1. Quan điểm về Đạo


9

Đạo là cái lý tự nhiên của trời đất, là con đường rộng ai cũng phải theo mà
đi, tức là cái công lệ trung chính để làm quy tắc cho sự hành động của người đời.
Khổng Tử theo lẽ điều hòa của trời đất mà đem những tư tưởng và sự hành vi của

các đế vương đời trước mà lập thành đạo để dạy thiên hạ. Ai theo được đạo ấy mà
ăn ở là hay, là người quân tử ; không theo được đạo ấy là dở, là kẻ tiểu nhân, cho
nên mới gọi là “quân tử chi đạo: đạo của người quân tử”. Đạo ấy gồm hết tất cả cái
phải, cái hay, tổng hợp các đức tính tốt để gây thành cái nhân cách hoàn toàn của
người ta.
Sách Trung dung chép rằng: “Đức trọng ni tổ thuật đạo vua nghiêu, vua
thuấn, bắt chước phép vua văn, vua võ, trên theo trời mà quyền biến, dưới tùy thổ
mà an vui”. Đạo ấy ví như trời đất, không có cái gì là không che chở, chuyển vần
như bốn mùa, sáng rõ như mặt trời mặt trăng. Ở trong đạo ấy thì muôn vật đều hóa
dục mà không hại lẫn nhau, các đạo đều thi hành mà không trái nhau. Đức nhỏ thì
phân minh như nước sông chảy, đức lớn thì đôn hậu mà sinh hóa vô cùng. Đạo của
Khổng Tử chủ ở sự làm điều lành điều phải, bao giờ cũng ung dung, không cố chấp
điều gì. Đối với đạo khác Khổng Tử cũng không bài bác, công kích đạo nào, vì theo
ông: “Công hồ dị đoan, tư hại giã dĩ: công kích đạo khác chỉ hại mà thôi”.[9, 53]
Đạo của Khổng Tử chỉ theo lẽ thường, cứ việc phải thì làm, việc trái thì bỏ,
cốt dạy người ta giữ cái lương tâm sáng suốt, biết phân biệt điều hay điều dở. Điều
hay là phải theo, điều dở là phải bỏ, không lấy cái trí hẹp hòi mà câu chấp một mặt
nào hay một thuyết nào. Bất cứ điều gì hễ nó hợp thời thuận lý là được, để lúc nào
cũng giữ được cái điều hòa tự nhiên.
Đạo của Khổng Tử lấy hai chữ chí thiện làm cực điểm. Chí thiện tức là nhân.
Từ đầu chí cuối chỉ có một mối, chủ lấy thiên lý làm gốc, dùng hiếu đễ, lễ nhạc mà
khiến người ta tiến lên đến bậc nhân. Trước sau chỉ theo một cái lý nhất thể ấy mà
thôi, cho nên ông nói rằng: “Ngô đạo nhất dĩ quán chi: đạo của ta suốt từ đầu chí
cuối chỉ có một mà thôi”.[9, 70]
Khổng Tử rất thành thực tin đạo là chí thiện, chí mỹ. Trong đạo có cái vui thú vô
cùng, hễ ai đã được nghe một lần rồi thì dẫu có chết cũng không cho là uổng một


10


đời: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ: buổi sáng được nghe mà hiểu được đạo, buổi tối
chết cũng thỏa”.[9, 68]. Đạo ấy rất hay nhưng ai theo thì phải thành thực lắm mới
được. nếu không thành thực thì dẫu đạo ấy hay thế nào cũng là vô ích. Khổng Tử
nói rằng: “nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân: Người có thể mở rộng đạo,
đạo không thể mở rộng người”[9, 186]. Người có cái biết mà đạo thể thì vô vi, nhờ
có cái biết nên người mới làm cho đạo rộng lớn ra, chứ đạo tự nó không làm cho
người rộng lớn ra được.
Khổng Tử theo cái lý tưởng cho thiên lý lưu hành bất tức, cho nên cái học
của ông không nhận cái gì là nhất định và không cố chấp điều gì cả. Sách Luận Ngữ
chép rằng: “Tử tuyệt tứ: vật ý, vật tất, vật cố, vật ngã: Khổng Tử chủ trương: không
chủ quan áp đặt, không khẳng định tuyệt đối, không cố chấp tự cho mình là
đúng”[9, 113].
Sách Luận Ngữ chép rằng: khi bàn bạc đến cái đức tính của những người
hiền đời trước, như bọn ông Bá Di, Thúc Tề, Liễu Hạ Huệ.. người thì cương quá,
người thì nhu quá, cho nên Khổng Tử nói rằng: ta thì khác thế, chẳng có gì nhất
định phải làm, chẳng có gì nhất định là không nên làm[9, 214]. Nghĩa là ông có thể
cương cũng được, nhu cũng được, có lúc kinh, có lúc quyền, lúc nào làm việc gì
cũng thời trung và hợp lý, chứ không chấp nhất. người chấp nhất là người hại đạo,
vì đã chấp nhất thì chỉ biết được một điều mà bỏ mất trăm điều. Qua đó biểu thị cho
ta thấy cái học điều hòa và chiết trung của Khổng Tử.
Đạo của Khổng Tử là đạo nhân, cốt cầu lấy cái vui trong sự sinh hoạt ở đời.
cái vui ấy do ở sự điều hòa với lẽ tự nhiên của tạo hóa, bao giờ trong bụng cũng
được thư thái, không để ngoại vật hệ lụy đến mình. Sách Luận Ngữ chép: Một hôm
Tử Lộ, Tăng Tích, Nhiễm Hữu, Công Tây Hoa ngồi hầu, Khổng Tử nói: ta tuy có
hơn tuổi các ngươi, nhưng các ngươi đừng vì ta mà nệ, chí mình thế nào, cứ thẳng
mà nói… Khi nghe Tăng Điểm nói chí của mình rằng: “Đến cuối mùa xuân, áo mùa
xuân đã may xong, năm sáu người trạc độ hai mươi tuổi, sáu bảy đứa trẻ con, rủ
nhau đi tắm sông Nghi, hóng gió đền Vũ, rồi hát mà về. Khổng Tử nói rằng: Ta
thích như Điểm vậy”[9, 140]. Đạo của Khổng Tử là dạy người ta cầu lấy cái vui ở



11

đời, khiến cho lúc nào trong bụng người ta cũng thản nhiên vui vẻ, không có lo sợ
sầu buồn gì cả.
Khổng Tử thường khen thầy Nhan Hồi rằng: “Hiền vậy thay Nhan Hồi! một giỏ
cơm, một bầu nước, ở chỗ ngõ hẹp, giá người khác ở vào cảnh ấy thì lo buồn không
chịu được, thế mà nhan hồi không bao giờ đổi cái vui của mình. Hiền vậy thay
Nhan Hồi”[9, 86].
Cần lấy cái vui là cái vui trong bụng, lúc nào cũng an nhàn thư thái, mà vẫn
siêng năng cần mẫn. Khổng Tử tự tả mình rằng: “Ta làm người, hễ có việc gì chưa
nghĩ ra, thì nghĩ đến quên ăn, nghĩ ra được thì vui quên mất cả cái lo, không biết cái
già đã sắp đến vậy”[9, 98].
Đạo của Khổng Tử ở sự theo thiên lý mà hành động. Thiên lý lưu hành bất
tức, nghĩa là biến hóa hết thái độ nọ, đến thái độ kia, để tìm lấy cái điều hòa, cái
bình hành. Trung dung là theo thiên lý mà giữ lẽ điều hòa, khiến cho không có điều
gì chếch lệch. Trung là chính giữa, không lệch về bên nào, dung là bình thường,
không thái quá hay bất cập. trung dung là cái thể trung bình ở vào thái độ nào cũng
giữ được cái điều hòa, cái bình hành. Cao đến đâu cũng có trung dung, mà thấp thế
nào cũng có trung dung, không ở vào cảnh ngộ nào là không có trung dung. Song
muốn theo cho đúng lẽ trung dung, thì phải biết suốt được cả cái hơn cái kém, cái
cao cái thấp, rồi mới phân biệt cái trung bình điều hòa ở giữa mà theo. Đạo trung
dung tức là cái trật tự điều hòa của trời đất. Đạo ấy có kinh, có quyền, chứ không
phải lúc nào cũng cố chấp một mực. Khi đáng theo kinh thì có chết cũng không bỏ
kinh, mà khi đáng theo quyền thì biết bỏ kinh theo quyền, cốt cho hợp thời, thuận lý
thì thôi. Theo đạo ấy là theo cái tinh thần đạo lý, bao giờ cũng phải lấy thiên lý làm
chừng, chứ không cố chấp điều gì. Người chấp nhất là người trí lự hẹp hòi, không
biết quyền biến cho hợp đạo lý. Khổng Tử viết: “Trung dung chi vi đức dã, kì chí hĩ
hồ! Dân tiển cửu hĩ: trung dung là tiêu chuẩn tối cao của đạo đức đó. Dân chúng ít
có đức đó đã từ lâu rồi.”[9, 91]

Khổng Tử còn đề cập: Quân tử thì trung dung, tiểu nhân thì trái trung dung.
Trung dung của quân tử là quân tử thời trung; trung dung của tiểu nhân mà không


12

kiêng sợ gì cả. Vậy theo ông trung dung của quân tử mới thật là trung dung, mà
trung dung của tiểu nhân không phải là trung dung. Trung dung của quân tử hợp với
đạo lý, mà trung dung của tiểu nhân thì tầm thường đê hạ.
Đạo trung dung rất khó theo vì người tài giỏi thì thường hay quá mất cái vừa
phải, mà người ngu hèn thì lại bất cập, cho nên Khổng Tử mới nói: Đạo mà không
thi hành ra được, ta đã biết tại sao rồi: Người trí giả thì quá đi, kẻ ngu giả thì bất
cập, đạo mà không sáng rõ ra được, ta đã biết tại sao rồi: Người giỏi thì quá đi,
người không giỏi thì bất cập. Người ai mà chả ăn uống, nhưng ăn uống mà biết mùi,
thì ít lắm vậy.
Khổng giáo vốn chú trọng ở đạo trung dung, nhưng nếu không trung dung được thì
cũng không ưa sự tầm thường. Khổng Tử nói: Không được người theo đúng đạo
trung mà dạy, thì ắt dạy kẻ cuồng kẻ quyến chăng. Kẻ cuồng thì tiến lên theo cái cao
xa, kẻ quyến thì có điều không thèm làm[9, 160]. Ông muốn nói cái đạo của ông là
đạo trung dung, nếu được người theo đúng đạo ấy mà truyền cho là hơn cả, nhược
bằng không có hạng người ấy thì truyền cho hạng cuồng quyến. Vì rằng cuồng là kẻ
có chí rất cao mà việc làm thì không kịp; quyến là kẻ trí chưa đủ mà phần giữ đạo
có thừa. Những kẻ ấy còn có tài đức khích lệ để tiến đến đạo trung, hơn là những
người tầm thường không thể làm cho hiểu đạo và theo đạo được.
Nói tóm lại đạo của Khổng Tử là đạo trung dung của người quân tử, theo
được cái đạo ấy thì người ta thành ra có cái nhân cách hoàn toàn, tiến có thể làm
được ích quốc lợi dân, thoái có thể khiến cho sự sinh hoạt của mình được ung dung
vui thú. Đem đạo ấy mà thực hành ở đời, thì có thể làm cho sự cư xử của người ta
rất có nề nếp, có trật tự, mà vẫn điều hòa, người trên không kiêu căng xa xỉ, người
dưới không xảo nịnh, giả dối.


2.1.2. Quan điểm về Thiên mệnh, quỷ thần
Thiên mệnh
Nho giáo đã tin có trời làm chủ tể cả vũ trụ thì tất là nhận có cái ý chí rất
mạnh để khiến sự biến hóa ở trong thế gian cho hợp lẽ điều hòa. Cái ý chí ấy gọi là


13

thiên mệnh hay là đế mệnh. Cổ nhân dùng chữ thiên để chỉ cái ý to lớn cao xa, bao
bọc, che chở, và dùng chữ đế để chỉ cái ý làm chủ tể cả muôn vật. Nói thiên mệnh
hay đế mệnh tức là nói cái ý chí của trời.
Nhưng ta phải biết rằng quan niệm của Khổng Tử về trời hay thượng đế
không giống như quan niệm của phần nhiều người thường tưởng tượng. Trời hay
thượng đế là một đấng có hình dáng, có tình cảm, có tư dục như người ta. Trời hay
đế chỉ là cái lý vô hình rất linh diệu, rất cương kiện, mà khi đã định sự biến động ra
thế nào thì dẫu làm sao cũng không cưỡng lại được.
Khổng Tử tin có trời như thế, và có thiên mệnh cho nên ông nói rằng:
“Không biết mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử”[11, 539]. Những công việc
người ta ở đời thành hay bại, thế cục thịnh hay suy đều do thiên mệnh cả. Cái đạo
của ông mà thi hành ra được cũng là mệnh của trời, mà không thi hành ra được cũng
là mệnh trời: “Đạo chi tương hành dã dư, mệnh dã, đạo chi tương phế dã dư, mệnh
dã”[9, 175]. Người quân tử cứ an mà làm điều lành, điều phải, dẫu thế nào cũng đã
có cái mệnh của trời, không oán trời và giận người, cho nên ông nói rằng: Trên
không oán trời, dưới không trách người, cứ bình dị mà đợi mệnh(Trung dung, kim
56) và “Không oán trời, không trách người, học từ những tri thức thông thường mà
thông đạt được học vấn cao sâu. Hiểu ta chỉ có trời thôi”[9, 175].
Tri mệnh tức là biết vui theo mệnh trời mà sinh hoạt, mà hành vi cho phải
đạo, chứ không lập ý riêng, mà cưỡng làm những điều tư tâm của mình. Nhưng tri
mệnh là việc rất khó, đến Khổng Tử mà còn đến năm mươi tuổi mới biết mệnh trời:

“Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”[9, 50], huống chi người thường cho là dễ làm sao
được. Người ta lúc còn trẻ tuổi, khí huyết đang hăng, tưởng việc gì cũng làm được.
Về sau dần dần có kinh nghiệm nhiều mới biết là những công việc thành hay bại
thường không phải tự mình định lấy được.
Người ta ở đời lưu hành trong cái đạo biến hóa của trời đất, khác nào như cá
lặn lội ở giữa dòng nước chảy, tuy lúc nào cũng có cái năng lực vẫy vùng chạy
nhảy, nhưng vẫn cứ phải trôi theo dòng nước. Dòng nước chảy càng to, càng mạnh
bao nhiêu thì sự trôi đi lại càng khó cưỡng bấy nhiêu. Sự trôi đi như thế, tức là thiên


14

mệnh vậy. Song ta phải hiểu rằng trong khi ta đang theo thiên lý mà lưu hành, thì
bao giờ ta cũng có cái năng lực tự do để tự cường tự kiệt, khiến cho cái tâm tình của
ta được sáng suốt, mẫn nhuệ để lúc nào ta hành động cũng không mất cái trung. Vậy
trong sự theo thiên mệnh ấy, có cái sức cố gắng để hoạt động luôn, chứ không phải
như những người tầm thường nhu nhược, cứ đành chịu ép một bề mà đợi số mệnh.
Bởi thế cho nên Kinh dịch nói rằng: việc hành động của trời rất mạnh, người quân
tử phải theo mà tự cường không nghỉ. (kim, 56). Nếu người ta không hiểu rõ cái ý
ấy, rồi cứ vì cái lẽ theo thiên mệnh mà thành ra biếng trễ, thì tự ông trời cũng tuyệt
diệt đi, không tài bồi cho cái yếu đuối hèn hạ bao giờ.
Quỷ thần:
Khổng Tử đã tin có trời, thiên mệnh, tất là tin có quỷ thần. Quỷ thần là cái
khí thiêng liêng ở trong trời đất, tuy mắt ta không trông thấy, tai ta không nghe thấy,
nhưng vẫn thể được cả muôn vật, không sót vật nào: đâu đâu cũng hình như ở trên
đầu ta, ở bên tả bên hữu ta.(Trung dung) vì vậy ta phải: “Tế thần như thần tại: tế
thần như là thần có ở đó”[9, 60].
Tế quỷ thần là lấy sự tận thành để tỏ cái lòng tôn kính, chứ không phải tế để
cầu lấy cái phúc riêng cho mình như những người thường vẫn tin tưởng đâu. Quỷ
thần là thông minh chính trực, có lẽ nào lại thiên vị ai bao giờ. Người ta ở đời cứ

theo cái lẽ công chính mà làm, đừng làm việc gì tàn bạo, gian ác. Việc bổn phận của
mình thế nào thì cứ cố gắng mà làm cho trọn vẹn, rồi sẽ có ngày quỷ thần chứng
giám cho, hà tất phải nay cầu nguyện, mai cầu nguyện mà làm gì? Thường những
việc của chính nhân quân tử đã làm là việc cầu nguyện đó rồi, vì rằng có cầu
nguyện có thể sửa mình đến chí thiện được.
Đã có trời lại có quỷ thần chứng giám cho vạn vật. Vậy đã thờ trời thì tất
phải thờ quỷ thần. Nhưng thờ quỷ thần chỉ cốt có lòng thành, thì quỷ thần mới
chứng giám cho, vì có thành mới cảm đến quỷ thần được. Nếu không thì dẫu có bày
đặt ra đủ các thứ lễ nghi đồ vật, nhưng cũng như không mà thôi. Quỷ thần đã chứng
giám cái lòng thành cho mình, thì mình cứ an lòng mà làm điều lành điều phải.


15

Không nên đem tư tâm mà dùng sự lễ bái để cầu tài cầu lợi. đó là điều mê hoặc
không phải là đạo công chính của quỷ thần.
Kính thành là cái gốc luân lý của nho giáo. Có kính thì mới giữ được cái bản
tính của mình cho thuần nhất, và có thành thì người với trời và quỷ thần mới tương
cảm với nhau được. Thiết tưởng kẻ học giả có hiểu rõ nghĩa hai chữ kính và thành,
thì mới biết được nghĩa lý những điều nhân nghĩa lễ trí và mới hiểu được cái tinh
thần của nho giáo vậy.

2.1.3. Quan điểm Chính trị - xã hội
Chính danh
Từ quan điểm vạn vật đều chung nguồn, chung gốc, cái phức tạp biến sinh từ
cái bình dị, đơn sơ, Khổng Tử cho rằng sự thay đổi làm cho thiên hạ không phải là
nguyên nhân một sớm một chiều mà là một quá trình bắt nguồn từ một mối, đấy là
sự sa đọa của thế lực cầm quyền làm cho “danh” không được “chính”. Vì vậy, để
khôi phục lại trật tự xã hội, Khổng Tử chủ trương thực hiện thuyết “chính danh”.
Ông cho rằng: trong xã hội, mỗi vật, mỗi người đều có một công dụng nhất định,

nằm trong một mối quan hệ nhất định, mỗi người, mỗi vật đều có một địa vị nhất
định và tương ứng với nó là một danh nhất định. Mỗi danh đều có tiêu chuẩn riêng.
Vật nào, người nào mang danh nào phải được thực hiện và phải thực hiện cho bằng
được những tiêu chuẩn của danh đó, nếu không phải gọi bằng danh khác. Chính là
làm cho mọi việc ngay thẳng.
Khổng Tử cho việc chính trị hay hay dở là do ở người cầm quyền. Người
cầm quyền biết theo đường ngay chính để sửa đạo nhân thì việc gì cũng thành ra
ngay chính cả. Ông bảo Quý Khang tử rằng: “Chính trị là làm mọi việc cho ngay
thẳng, ông lấy ngay thẳng mà khiến người thì ai dám không ngay thẳng?”[11, 356].
Hễ người trên đã ngay chính thì người dưới ắt phải theo mà bắt chước. Vậy nên mới
nói: “Người bề trên ngay thẳng, dù không ra lệnh, người dưới vẫn làm theo. Người
bề trên không ngay thẳng, tuy có mệnh lệnh rất nghiêm, người dưới cũng chẳng
theo”[11, 371].


16

Người trên phải giữ mình cho ngay chính và làm việc gì cũng phải giữ cái
danh cho chính. Một hôm thầy Tử Lộ hỏi Khổng Tử: “giá như vua nước Vệ có cậy
thầy sửa việc chính trị, thì thầy làm việc gì trước?” – Khổng Tử trả lời: ắt là phải
sửa cái danh cho mình. – có đâu thế, sửa cái danh cho chính làm gì? – người quê
lắm thay! Người quân tử điều gì mà chưa biết rõ thì đừng nói vội. Danh không
chính thì nói không xuôi, nói không xuôi thì việc không thành. Cho nên quân tử
danh chính ắt là khá nói được, nói được ắt là khá làm được. Bởi vậy quân tử giữ lời
nói không có cẩu thả bao giờ”[11, 367].
Khổng Tử còn nói: “Nếu danh không chính thì lời nói sẽ không đúng đắn.
Lời nói không đúng đắn sẽ dẫn tới việc thi hành sai. Khi đó, người với người trong
xã hội sẽ không còn kính trọng nhau, không còn hòa khí, luật pháp lỏng lẻo và
người dân sẽ mất nơi trông cậy, nhờ vả”[9, 153]. “Dân không có chỗ trông cậy, nhờ
vả thì dân sẽ không còn tin ở bề trên, lúc đó dù muốn hay không xã tắc cũng khó

tránh bề suy sụp”[9, 145]. Những lời ấy giải rõ nghĩa cái tông chỉ chính đáng của
Khổng Tử về đường chính trị.
Danh tự đã chính thì việc gì có nghĩa lý việc ấy, những điều tà thuyết không
làm mờ tối được chân lý. Danh phận đã định rõ, thì người nào có địa vị chính đáng
người ấy, trên ra trên, dưới ra dưới, trật tự phân minh. Vua có phận vua, tôi có phận
tôi: “Vua lấy lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”[9, 62]. Một nước thịnh trị là
trong nước “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”[9, 147]. Giữ trật tự cho
minh, và danh phận cho chính tức là giữ cái căn bản của chính trị vậy.
Sự thể hiện của chính danh được thực hiện trong quan hệ xã hội và trong các
chuẩn mực đạo đức.
Cho chính danh quan trọng nhất, Khổng Tử chủ trương chia xã hội thành
những quan hệ. Mỗi quan hệ gọi là một “luân”. Triết học nho gia xác định có 5 quan
hệ chính là vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn. Mỗi quan hệ lại có những
tiêu chuẩn riêng cho từng đối tượng: cha hiền con thảo, anh tốt em ngoan, chồng
biết điều vợ nghe lẽ phải, bề trên rộng rãi – bề dưới kính thuận, vua nhân tôi trung.
Và ông nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ vua tôi, cha con. Đối với quan hệ vua tôi,


17

Khổng Tử chống lại việc ngôi vua duy trì theo huyết thống, dòng tộc. Ông cho rằng
người cầm quyền phải có đức, tài mà không cần tính đến đẳng cấp xuất thân của
người ấy. Tài đức ấy thể hiện: Vua phải đảm bảo cho dân được no ấm, phải xây
dựng được lực lượng quân đội hùng hậu và đặc biệt phải chiếm được lòng tin của
dân[11, 347]. Vua phải biết làm cho dân giàu và phải biết giáo hóa dân; vua phải
biết trọng dụng người đức độ, trọng dụng người có năng lực và phải biết rộng lượng
với cộng sự của mình[9,152; 155]. Dân đối với vua phải như đối với cha mẹ mình.
Nội dung trung trong quan hệ vua tôi của Khổng Tử đòi hỏi sự hết lòng và thành
tâm thật ý của mỗi một danh.
Khổng Tử đề cập đến phạm trù hiếu trong quan hệ cha con song ông chủ yếu

nói đến cái “tâm” để đánh giá hiếu thảo. Hiếu của con cái không chỉ là phụng dưỡng
người đã sinh đẻ ra mình mà trước hết phải là lòng thành kính. Trong quan hệ cha
con cha phải ra cha, con phải ra con.
Như vậy, Khổng Tử không chủ trương ngu trung, ngu hiếu, không bắt buộc
con người phải phục tùng bề trên vô điều kiện như nội dung trung hiếu của Nho
giáo sau này. Đối với Khổng Tử, trong xã hội, chính danh là quan hệ hai chiều:
quân có nhân thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu, mà công cụ để thực hiện
hai chiều này là đạo đức xã hội.
Học thuyết Chính danh của Khổng Tử còn được thể hiện trong các
chuẩn mực đạo đức. Trong đó Khổng Tử đề cập đến các phạm trù đạo đức căn bản
như: nhân, hiếu, lễ, trí, dũng.
Cách thực hiện chính danh
Lấy lễ để thực hiện chính danh: Lễ được coi là công cụ hữu hiệu nhất để nho
gia thực hiện thuyết chính danh. Với quy định của lễ và việc truyền bá vừa có tính
chất khuyên răn, vừa có tính chất cưỡng bức con người thực hiện, lễ đã từng ngày,
từng giờ tạo ra thói quen của cá nhân, của toàn xã hội.
Lễ như quy phạm, như chế độ điển chế, chế độ quy định quan hệ trong gia
tộc, nó như thể chế xã hội mở rộng ra, chữ lễ gần ngang chữ pháp. Và lễ như một
phương tiện muốn thực hiện nhân nghĩa, giữ quan hệ vua tôi, cha con phải dùng lễ.


18

Khổng Tử nói: “dùng mệnh lệnh pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng hình
phạt để quản lý dân, làm như vậy tuy có thể giảm được phạm pháp, nhưng người
phạm pháp không biết xấu hổ sỉ nhục. dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân,
dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là
nhục nhã khi phạm tội, mà còn can tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận
gốc từ mặt tư tưởng” [11,123]. Đây là một quan điểm cực kỳ quan trọng về tư tưởng
chính trị của Khổng Tử.

Vì vậy, Nho gia chủ trương không xem, không nghe, không nói, không làm
gì không hợp với lễ. “Không phải lễ thì chớ trông, không phải lễ thì chớ nghe,
không phải lễ thì chớ nói, không phải lễ thì chớ làm”[9, 142]. Lễ là cốt để giữ
chừng mực cho sự hành vi của người ta. Và còn thông qua trí để thực hiện chính
danh, thông qua trí còn dùng thi thư, nhạc.. dùng việc giáo hóa đạo đức nhằm dạy
con người biết trật tự lễ nghĩa trong xã hội.

2.1.4. Quan điểm về Đạo đức
Trong khi những kẻ nắm quyền hành thuộc giai cấp chủ nô quý tộc ban hành
hết sắc luật này đến sắc luật khác thì Khổng Tử cho rằng không nên lạm dụng luật
pháp để ép dân đi vào tôn ti trật tự; ổn định xã hội hữu hiệu nhất phải bằng đức
hạnh, bằng lễ tiết vì đức hạnh có khả năng cảm hóa con người tự điều chỉnh mình
khi có hành vi sai phạm. Nội dung của đức hạnh ấy theo Khổng Tử thông thường
nhất và cũng quan trọng nhất là: Nhân, Trí và Dũng.
Nhân
Trong Luận ngữ, khái niệm "Nhân" được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần và tùy
từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà "Nhân" được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo nghĩa sâu rộng nhất "nhân" là một nguyên tắc đạo đức trong triết học Khổng
Tử. “Nhân" được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua "lễ",
"nghĩa", quy định quan hệ giữa người và người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội.
"Nhân" có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác trong triết học Khổng
Tử để làm nên một hệ thống triết lý nhất quán, chặt chẽ và do vậy, đã có người cho


19

rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn
đồng tâm thì "Nhân" là tâm điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính
con người. "Nhân" cũng có thể hiểu là "trung thứ", tức là đạo đối với người, nhưng
cũng là đạo đối với mình nữa. Trong một cuộc nói chuyện với các học trò Khổng Tử

đã nói: Đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả. Về điều này, Tăng Tử - một học
trò của Khổng Tử cho rằng, Đạo của Khổng Tử là "trung thứ". "Trung" ở đây là làm
hết sức mình, còn "thứ" là suy từ lòng mình ra mà biết lòng người, mình không
muốn điều gì thì người cũng không muốn điều đó. "Trung thứ" là sống đúng với
mình và mang cái đó ứng xử tốt với người.
Dù trong Luận ngữ có nhiều sự giải thích khác nhau về "Nhân", song sự giải
thích trong thiên "Nhan Uyên" là có tính chất bao quát hơn cả. Có thể nói, ở đây
"Nhân" trong quan niệm của Khổng Tử là "yêu người"[11, 361]. Nếu nhìn toàn bộ
tư tưởng của ông, phải xem nội dung trên là tiêu biểu cho điều "Nhân". "Nhân" là
"yêu người", nhưng người nhân cũng còn phải biết "ghét người". Với Khổng Tử thì
chỉ có người có đức nhân mới biết "yêu người" và "ghét người". Khổng Tử nói:
"Chỉ có người có đức nhân mới có thể yêu người hay ghét người"[11, 164]. Khổng
Tử cho rằng nhất cử nhất động của người có đức nhân đều rất tự nhiên và rất phù
hợp với nguyên tắc của nhân, yêu hay ghét đều dựa vào tiêu chuẩn đức nhân rất
đúng đắn. vì vậy, người có đức nhân mỗi khi gặp những trường hợp cụ thể đều căn
cứ vào tiêu chuẩn của nhân thể hiện thái độ yêu ghét rất rõ ràng.
Có người cho rằng, "Nhân" (người) trong "ái nhân" (yêu người) là chỉ con
người trong giai cấp thống trị và yêu người trong tư tưởng Khổng Tử chỉ là yêu
người trong giai cấp phong kiến. Thực ra, khái niệm "Nhân" (người) mà Khổng Tử
dùng ở đây là để đối với "cầm thứ'. Do đó, đi liền với "Nhân" (người) là các khái
niệm "thiện nhân", "đại nhân", "thành nhân", "nhân nhân", "thánh nhân", "tiểu
nhân"... Các khái niệm này nhằm chỉ những con người có tính cách khác nhau, trình
độ đạo đức khác nhau. "Thánh nhân" là người có đạo đức cao siêu, "tiểu nhân" là
người có tính cách thấp hèn…


20

"Nhân" ở đây là chỉ con người nói chung và "ái nhân" là yêu người, yêu bất
cứ người nào, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội của họ.

Trong Luận ngữ, có chỗ Khổng Tử không dùng khái niệm "Nhân" (yêu người),
nhưng nội dung thể hiện ở đó lại thấm đượm tình yêu thương cao cả. Qua những
trường hợp sau có thể thấy rõ. Có lần một học trò của Khổng Tử là Tử Du hỏi về
“hiếu”, Khổng Tử trả lời: "Điều hiếu ngày nay chỉ có nghĩa là có thể nuôi cha mẹ.
Nhưng đến loài chó ngựa cũng đều được nuôi, nếu không có lòng kính thì làm thế
nào phân biệt được". "Hiếu” ở đây vừa có ý nghĩa là nuôi nấng, chăm sóc cha mẹ,
vừa phải có lòng kính yêu cha mẹ, yêu thương rất mực đối với cha mẹ. Lại một lần
khác, Khổng Tử xong việc ở triều đình về, nghe nói chuồng ngựa cháy, câu đầu tiên
ông hỏi là: có ai bị thương không và không nói gì tới ngựa cả. Điều đó cho thấy,
ông quan tâm đến sinh mệnh con người (dù đó là những người hầu hạ) hơn là sự
sống còn của ngựa (tức là của cải). Tư tưởng "Nhân" là "yêu người" của ông thực sự
đã được thể hiện ra mọi nơi, mọi lúc.
Coi "Nhân" là "yêu người", trong Luận ngữ, Khổng Tử đã dành không ít lời
để nói về đạo làm người. Khi Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về "Nhân", Khổng Tử đã
nói: “khắc phục ham muốn của mình, nói và làm phù hợp với lễ. một ngày làm
được như thế, người trong thiên hạ sẽ cùng theo về đức nhân. Thực hiện đức nhân
hoàn toàn ở mình, không lẽ dựa vào người khác hay sao?”[11, 340]. Trọng Cung một học trò khác của Khổng Tử hỏi về "Nhân", Khổng Tử cho rằng, những cái gì
mà mình không muốn thì đừng đem thi hành cho người khác - đó là đức hạnh của
người nhân [11, 342]. Phàn Trì hỏi về "Nhân", Khổng Tử giảng giải rằng: “Cư xử
thì lễ độ, đúng mực; làm việc cho người thì tận trung. Dù đi đến đất mọi rợ, cũng
không thể để mất đi những phẩm đức này”[11, 381]. Người nhân trong quan niệm
của Khổng Tử còn là người phải làm cho năm điều đức hạnh được phổ cập trong
thiên hạ. Năm điều đức hạnh đó là: cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Ông nói: “Nếu mình
nghiêm trang cung kính thì chẳng ai dám khinh mình. Nếu mình có lòng rộng lượng
thì thu phục được lòng người. Nếu mình có đức tín thật thì người ta tin cậy mình.
Nếu mình cần mẫn, siêng năng thì làm được công việc hữu ích. Nếu mình thi ân, bố


21


đức, gia huệ thì mình sai khiến được người” [11, 477]. Không chỉ thế, người nhân,
theo Khổng Tử, còn là người mà “trước hết phải làm điều khéo, rồi sau mới đến thu
hoạch kết quả” và “Người có tính cương trực, quyết đoán, lòng chất phác, nói cẩn
thận, có đủ bốn phẩm đức này là đã gần với đạo nhân”[11, 389] . Với Khổng Tử, chỉ
có người nhân mới có thể có được cuộc sống an vui lâu dài với lòng nhân của mình
và dẫu có ở vào hoàn cảnh nào, cũng có thể yên ổn, thanh thản. Do vậy, theo ông,
người nhân "Bậc quân tử không bao giờ lìa bỏ điều nhân, dẫu chỉ trong một bữa ăn.
Người quân tử không bao giờ ở sai điều nhân, dẫu trong lúc vội vàng, khi ngả
nghiêng cũng vẫn theo điều nhân"[11, 165].
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Khổng Tử, "Nhân" không chỉ là
"yêu người", "thương người", mà còn là đức hoàn thiện của con người, và do vậy,
"nhân chính" là đạo làm người - sống với mình vả sống với người, đức nhân là cái
bền vững như núi sông. Với ông, nếu thịnh đức của trời - đất là sinh thành, bắt
nguồn từ đạo trung hoà, trung dung thì cái gốc của đạo lý con người là "trung thứ"
và đạo đức, luân lý con người là "Nhân", người có đạo nhân là bậc quân tử, nước có
đạo nhân thì bền vững như núi sông. Tuy nhiên, trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến
Quốc đã có nhiều học thuyết phê phán chữ "Nhân" (yêu người) của Khổng Tử. Có
người cho đó là giả dối, có người cho đó là nói suông, có người lại cho đó là nguồn
gốc của bất nhân, bất nghĩa... Thế nhưng không phải vì thế mà tư tưởng "Nhân" của
Khổng Tử không đi vào lòng của nhiều người đương thời, gây cho họ biết bao sự
xúc động và làm cơ sở cho hành động nhân đạo của họ. Thực tế cho chúng ta thấy,
"Từ đời Hán trở đi, suốt trên hai nghìn năm đạo Khổng được độc tôn, Vua Chúa đời
nào cũng ráng áp dụng nó, mặc dầu không đúng. Nó thực tế hơn đạo Mặc, đạo Lão,
nhân bản hơn thuyết của Pháp gia". Cũng cần phải nói thêm rằng, trong Luận ngữ,
tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử còn bao gồm nhiều đức khác, như: Trực (ngay
thẳng, không giả dối), Kính (nghiêm trang, cẩn trọng, cẩn thận trong công việc),
Nghĩa, Lễ...
Hiếu



22

Theo Khổng Tử, hiếu có lúc là cội nguồn của nhân và cũng có lúc hiếu với
nhân là một. Vì chủ lấy sự dạy cho người ta cho tới đạo nhân, tức là khiến cho
người ta bao giờ cũng có đầy tình cảm rất hậu và thành thực. Cái gốc của đạo nhân
là ái và kính. Lấy ái và kính làm làm nên hiếu đễ thì sự giáo hóa có công hiệu rất
hay. Vậy nên trong giáo hóa Khổng Tử lấy hiếu đễ làm nết trọng. Người có hiếu
trước hết phải nuôi cha mẹ. Nuôi thì phải kính, chứ không kính thì không phải là
hiếu. Một hôm Tử Du hỏi Hiếu. Khổng Tử nói: Hiếu ngày nay là bảo có thể nuôi
được cha mẹ; đến như giống chó giống ngựa đều có người nuôi, nuôi mà không
kính thì lấy gì mà phân biệt?[11, 127]. Vậy nuôi cha mẹ thì cốt ở sự thành kính, dẫu
phải ăn gạo xấu, uống nước lã mà làm cho cha mẹ được hết cái vui, ấy gọi là Hiếu.
Khổng Tử nói: “Cha mẹ còn sống, không được đi chơi xa, nếu có đi phải nói
rõ nơi nào cụ thể”; “Ba năm không thay đổi truyền thống, quy phạm, quy tắc đối xử
với cha mẹ, có thể xem là đã có hiếu”[11, 176], những câu này đều giảng rõ ràng về
đạo hiếu.
Trong sự hiếu có hai điều rất nên chú ý là vô vi và vô cải. Vô vi là xử cảnh
thường, thì thờ cha mẹ không trái lễ, vô cải là xử cảnh biến, thì không đổi ngay cái
đạo của cha mẹ. Hai điều ấy hàm cái ý phục tùng, song phục tùng theo đạo phải,
chứ không phục tùng một cách thuận thụ, không biết phân biệt phải trái gì.
Sách Luận Ngữ chép: Mạnh Ý tử hỏi về đạo hiếu. Khổng Tử đáp lại rằng:
“vô vi: không làm trái”, rồi sau Phàn Trì không hiểu rõ nghĩa hai chữ ấy mới hỏi lại.
Ông mới giải rõ nghĩa là: “Khi cha mẹ còn sống thì phụng dưỡng cho hợp lễ, cha
mẹ mất rồi thì mai táng và cúng tế cha mẹ theo quy định của lễ”[9, 50]. Vậy sự vô
vi đó là sự thờ cha mẹ cho đúng lễ. Lễ là hợp nghĩa lý, là vừa phải, chứ không thái
quá hay bất cập, miễn là vừa sức nhà giàu nhà nghèo mà làm cho phải lẽ thường.
Khổng Tử còn nói: “Lễ mà quá xa xỉ thì thà kiệm ước còn hơn; tang mà cầu được
chu toan thì thà thương xót còn hơn”[9, 58]. Nghĩa là nếu theo lễ mà không được
trung dung, thì thà bất cập còn hơn thái quá. Ông nói như thế, nhưng chủ ý là vẫn
bảo phải theo lễ. Theo lễ là theo cái lý phải.



23

Lấy lễ mà thờ cha mẹ không phải là cha mẹ làm điều gì trái đạo cũng theo.
Khổng Tử nói: phụng dưỡng cha mẹ, đối với những sai sót của cha mẹ nên nhẹ
nhàng khuyên can; nếu thấy cha mẹ không theo ý mình thì vẫn cung kính như
thường chứ không làm phật lòng cha mẹ, tuy khó nhọc nhưng không được cáu
bẳn”[9, 70]. Nghĩa là khi cha mẹ có làm điều gì trái đạo, thì con phải dùng cách ôn
hòa mà can ngăn. Nếu cha mẹ không nghe, thì lại tỏ lòng cung kính và hiếu thảo,
rồi dần dần lựa cách nói cho cha mẹ biết lẽ phải mà sửa đổi lại. Dẫu có khi cha mẹ
giận mà đánh đập hay bắt phải chịu khổ sở, cũng không oán. Việc giữ cái danh tiết
của cha mẹ được trong sạch là cái bổn phận người con hiểu đạo hiếu vậy.
Khổng Tử có dạy phải vô cải, như ngài nói: “Khi người cha còn sống thì
quan sát chí hướng của người con, khi người cha chết thì quan sát hành vi của người
con. Nếu ba năm sau khi cha mất, người con không thay đổi những quy tắc của đạo
làm con đối với cha, như vậy được gọi là người con có hiếu vậy”[11, 115]. Xã hội
tông pháp cổ đại đề xướng bề tôi phải trung với vua, con phải hiếu với cha mẹ. Khi
tuyển dụng nhân tài hay quan lại, người xưa đều rất coi trọng tiêu chuẩn hiếu và
liêm chính. Người như vậy thường là bề tôi trung với vua. Cho nên xã hội cổ đại
đặc biệt tôn trọng người có hiếu. Điều đó được thể hiện khi cha mẹ còn sống, người
con không có quyền quyết định, nhưng có thể bộc lộ chí hướng của mình. Khi cha
mẹ mất, người ta có thể thấy rõ nết cư xử của người con có giữ được đạo hiếu đối
với cha mẹ đã chết hay không. Nếu người con không giữ vững mà dám thay đổi
những quy tắc, quy phạm của xã hội đương thời quy định, thì việc làm dù thiện
cũng không thể gọi là người có hiếu.
Khổng Tử dạy hiếu, nhưng bao giờ cũng dạy phải giữ đạo Trung dung. Một
hôm Diệp Công bảo Khổng Tử rằng: “Nơi chúng con có một người rất ngay thẳng.
Cha đi ăn trộm dê, con ra làm chứng. Khổng Tử nói rằng: Người ngay thẳng ở chỗ
ta thì khác thế. Cha che giấu cho con, con che giấu cho cha, sự ngay thẳng vẫn ở

trong đó vậy”[11, 380].
Song sự thờ cha mẹ không phải là cái lẽ cuối cùng của sự hiếu. Cái lẽ cuối
cùng của sự hiếu là lấy hiếu gây thành đạo nhân, vì người có hiếu tức là có nhân.


24

Nhân với hiếu thường dắt díu nhau, cho nên những người có địa vị trọng yếu trong
xã hội phải chú ý về đạo hiếu lắm. Khổng Tử nói: “Người quân tử giữ tình cảm sâu
đậm với người thân thì dân chúng sẽ phát khởi lòng nhân ái, không bỏ rơi bạn cũ thì
dân chúng sẽ không bạc bẽo”[9, 104]. Tăng tử còn nói rằng: phải cẩn thận làm tốt
tang lễ cho cha mẹ khi qua đời; thành tâm, thành ý khi cúng tế tổ tiên. Được như
vậy, dân chúng được cảm hóa, phong tục đạo đức của dân chúng ngày một tốt đẹp
và thuần hậu”[11, 111]. Như vậy, muốn xây dựng đạo đức cho con người phải từ hai
mặt, một mặt là phải tu dưỡng đạo đức của từng cá nhân – thành viên của xã hội.
Mặt khác là xây dựng nền tảng cơ bản của đạo đức xã hội, mặt bằng đạo đức của
quần chúng. Mỗi người phải nghiêm khắc tự yêu cầu mình; về mặt xã hội phải làm
rất nhiều việc mới có thể xoay chuyển được tệ hại, sai trái, hủ tục, làm sạch bầu
không khí đạo đức xã hội, làm cho đạo đức xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện.
Lễ
Khổng Tử rất coi trọng lễ, ông đã san định lại lễ, và từ ông trở đi Nho gia đã
khai thác triệt để lễ ở góc độ luân lý của nó.
Lễ là lễ nghi thể hiện các quy phạm đạo đức, lễ là hình thức của nội dung
“nhân”. Theo quan niệm của Khổng Tử, nhân gắn chặt với lễ. Có thể coi lễ là
phương thức giúp người ta đạt được tới chữ nhân. Ông nói: Một ngày biết nén mình
theo lễ thì thiên hạ sẽ quay về nhân vậy, chớ xem điều trái lễ, chớ nghe điều trái lễ,
chớ nói điều trái lễ, chớ làm điều trái lễ. Vậy nhân và lễ là hạt nhân tư tưởng đạo
đức của Khổng Tử, từ nhân và lễ có thể diễn dịch ra cả một hệ thống các khái niệm
đạo đức như trung, hiếu, nghĩa, tín. Lễ còn là toàn bộ nghi lễ, chuẩn mực trong quan
hệ giữa người với người, từ hành vi ngôn ngữ cho đến trang phục nhà cửa…

Dùng lễ để giữ những tình cảm cho thích hợp với đạo trung. Gây thành ra
những tình cảm rất tốt, rất hậu, là một điều rất trọng yếu của Khổng giáo. Nhưng cứ
để cho tình cảm được tự do hành động thì thường sinh ra lắm điều chếch lệch, phi
thái quá thì bất cập. Vậy nên phải lấy lễ mà khiến sự hành vi của người ta cho có
chừng mực, để lúc nào cũng hợp với đạo trung. Khổng Tử nói: “Cung kính mà
không có lễ thì khó nhọc. Cẩn thận mà không biết lễ thì thành ra sợ hãi. Dũng cảm


25

mà không biết lễ thì xảy ra loạn nghịch. Ngay thẳng mà không biết lễ thì rất dễ mắc
bệnh nóng nảy”[11, 259]. Vì vậy cho nên Khổng Tử bảo thầy Nhan Uyên là một
người đã hiểu đạo nhân hơn cả mọi người, rằng: những việc không hợp với lễ chớ
xem, không hợp với lễ chớ nghe, không hợp với lễ chớ nói, không hợp với lễ chớ
làm”[11, 341]. Lễ là cốt để giữ chừng mực cho sự hành vi của người ta.
Lễ nhạc quan hệ đến việc giáo hóa và việc chính trị mật thiết cho nên xưa
nay những người nho học rất sùng thượng lễ nhạc. Song vì người đời sau câu nệ cái
hình thức bề ngoài, dần bỏ mất cái thâm ý mà chỉ giữ lấy cái phiền văn. Đến nay thì
thành phiền toái, mà nhạc thì không tiến hóa được. Lễ là cốt lấy sự thành kính làm
gốc, nhạc cốt lấy sự hòa làm gốc. Nếu lễ mà không kính, nhạc mà không hòa, dẫu
bề ngoài có giữ được đủ các lề lối, thì cũng không có ích lợi gì cho sự tiến hóa của
người ta. Khổng Tử nói: “Lễ có nội dung sâu sắc của nó, chứ không phải những lễ
vật lụa là, vàng bạc châu báu như người ta thường nói. Nhạc có nội dung cụ thể của
nó, chứ không phải chỉ những nhạc khí chuông trống như người ta thường nói”[11,
483]. Lời ấy thật là chứng rõ cái tông chỉ của ông dùng lễ nhạc trọng về tinh thần là
bao nhiêu. Nhưng dẫu lễ nhạc hay thế nào cũng mặc lòng, người mà không có nhân,
thì cũng không có hiệu quả gì. Có nhân tức là có tình cảm rất hậu, có trực giác rất
mẫn nhuệ, rồi lấy lễ nhạc mà khiến thì công dụng của lễ nhạc rất hay. Nếu không có
nhân mà dùng lễ nhạc, thì chỉ là một cái hư văn mà thôi. Bởi vậy mà Khổng Tử nói:
“Một người không có lòng nhân sao có thể hành được lễ? Một người không có lòng

nhân sao có thể tấu được nhạc?”[11, 145]. Vậy lễ nhạc cũng như hiếu đễ, cốt ở đạo
nhân. Người có nhân là người quân tử hoàn toàn, có phẩm giá tôn quý, làm việc gì
cũng thích hợp với lẽ trời và có thể để làm tiêu chuẩn cho người ta theo.
Nếu như học thuyết Chính danh, xét về mục đích, là biểu hiện tư tưởng bảo
thủ của Khổng Tử thì học thuyết về Lễ bộc lộ rõ tính hai mặt; bảo thủ và tiến bộ
trong tư tưởng của ông. Lễ của nhà Chu thuần túy là hình thức thể hiện hành vi và ý
thức của tôn giáo có tính chất tín điều, Khổng Tử đã biến lễ thành một phạm trù có
ý nghĩa xã hội và có nội dung khác. Ông phản đối đấu tranh của quần chúng bị áp
bức. Ông khuyên họ nghèo mà vui(an bần nhi lạc), nghèo mà không oán(bần nhi vô


×