Tải bản đầy đủ (.pdf) (320 trang)

Pháp luật đại cương cô ánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 320 trang )


PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
ThS. NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH
BM: Chính sách- Pháp luật (PV344)
Tel: 0985968021
Email:


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
CHƯƠNG 3: QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ CÁC LOẠI VĂN BẢN
QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG 4: QUAN HỆ PHÁP LUẬT
CHƯƠNG 5: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
CHƯƠNG 6: HẾ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
CHƯƠNG 7: PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ
NƯỚC

1.1. NGUỒN GỐC SỰ RA ĐỜI CỦA NHÀ NƯỚC
Nhà nước là một hiện tượng chính trị - xã hội đa dạng và
phức tạp, có liên quan đến lợi ích của các giai cấp, các tầng
lớp dân cư, các dân tộc, các quốc gia và tác động trực tiếp
đến cuộc sống của tất cả mọi người trong xã hội.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Nhà nước luôn
là trung tâm của các cuộc tranh chấp nhằm giành lấy chính


quyền và thực hiện quyền lực của mình. Quyền lực ấy thực
chất chính là Nhà nước.


Tuỳ theo cách nhìn và quan điểm khác nhau, người ta có
những cách đánh giá khác nhau về Nhà nước. Có hai luồng
quan điểm:
- Các thuyết phi Mác xít về nguồn gốc Nhà nước
- Học thuyết Mác – Lê-nin
1.1.1. Các thuyết phi Mác xít
a. Thuyết Thần học (thời trung cổ: Ph.Acvin, xã hội tư sản:
Masiten, Koct-Phlore…) cho rằng: Thượng đế là người sắp
đặt mọi trật tự xã hội. Mọi thứ trên đời đều do Thượng đế
sinh ra. Nhà nước cũng vậy đều là do đấng tối cao sáng tạo,
thể hiện ý Chúa. Thượng đế đã sáng tạo ra Nhà nước nhằm
bảo vệ trật tự chung.


- Nhà nước là sản phẩm của Thượng đế vừa mang tính vĩnh
cửa vừa mang tính siêu nhiên.
- Tuỳ vào ý chí của Thượng đế sẽ quyết định sự tồn vong của
Nhà nước.
Như vậy:
Quyền lực Nhà nước là hiện thân của quyền lực của Thượng
đế, là vĩnh cửu, tuân theo quyền lực Nhà nước là tuân theo
ý Thượng đế.


b. Thuyết gia trưởng:
Nhà nước ra đời từ gia đình là hình thức tổ chức tự nhiên

của đời sống con người, vì vậy, cũng như gia đình Nhà nước
tồn tại vĩnh hằng trong mọi xã hội và quyền lực Nhà nước,
về thực chất cũng giống như quyền lực của người gia
trưởng đứng đầu gia đình, nó chỉ sự kế tiếp quyền lực gia
trưởng trong gia đình.
Vì vậy, trong mọi hình thái xã hội, Nhà nước luôn tồn tại và
không có tính giai cấp.


c. Thuyết khế ước xã hội
Sự ra đời của Nhà nước là kết quả của một khế ước (hợp
đồng) xã hội được ký kết giữa những con người sống trong
trạng thái tự nhiên không có Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước
phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội và mỗi
thành viên đều có quyền yêu cầu Nhà nước phục vụ họ, bảo
vệ lợi ích của họ.
T.Hobbes: Nhà nước là khế ước xã hội dựa trên cơ sở ý chí
của mọi người nhằm chống lại sự thống trị chuyên chế, tạo
ra một trật tự xã hội mới, ở đó các quyền tự nhiên của con
người được tôn trọng.


J.J. Rousseau phát triển quan điểm về khế ước xã hội. Việc
xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân sâu xa xuất hiện
Nhà nước bằng luận điểm rằng:
Nhà nước là kết quả của sự phát triển xã hội từ trạng thái tự
nhiên sang xã hội công dân, gắn liền với chế độ sở hữu tư
nhân. Chế độ sở hữu tư nhân xuất hiện đã làm biến dạng
các quan hệ tự nhiên của con người, đẩy xã hội vào tình
trạng bất công, áp bức. Cho nên, Nhà nước xuất hiện trên cơ

sở khế ước xã hội do Nhân dân tự lập ra nhằm bảo vệ quyền
bình đẳng giữa họ và xoá bỏ tình trạng áp bức, bất công.


Như vậy:
- Nhà nước là sản phẩm của ý chí chung của nhân dân, do
nhân dân kiểm soát.
- Quyền lực của bộ máy nhà nước không tách rời nhân dân.
- Mọi hoạt động của Nhà nước vì lợi ích của nhân dân và phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân.


Đại diện thuyết khế ước xã hội các nhà tư tưởng tư sản (thế
kỷ 17,18) quan niệm: do việc ký kết hợp đồng thành lập Nhà
nước nên các cá nhân chuyển một số quyền tự nhiên của
mình cho Nhà nước, do đó, Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ sở
hữu, an toàn tính mạng, tài sản cho các công dân, trong
trường hợp Nhà nước không giữ được vai trò của mình, các
quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và
Nhân dân có quyền lật đổ Nhà nước và ký kết khế ước mới.
Như vậy, Thuyết khế ước xã hội đã trở thành cơ sở cho
thuyết dân chủ cách mạng và là cơ sở tư tưởng cho cách
mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến.


Hạn chế:
Giải thích nguồn gốc Nhà nước trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm,
coi Nhà nước ra đời do ý muốn, nguyện vọng chủ quan của
các bên tham gia hợp đồng, không giải thích được cội nguồn
vật chất và bản chất giai cấp của Nhà nước.

d. Thuyết bạo lực:
Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị
tộc này đối với thị tộc khác, kết quả là thị tộc chiến thắng
lập ra một bộ máy đặc biệt (Nhà nước) để nô dịch kẻ chiến
bại.


đ. Thuyết tâm lý:
Nhà nước xuất hiện do nhu cầu tâm lý của con người nguyên
thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ… vì vậy,
Nhà nước là tổ chức siêu nhiên có sứ mạng lãnh đạo xã hội.
Nhìn chung:
Tất cả các quan điểm hoặc do hạn chế về mặt lịch sử, do nhận
thức còn thấp kém hoặc do bị chi phối bởi lợi ích giai cấp
hay cố tình giải thích sai lệch những nguyên nhân đích thực
làm phát sinh Nhà nước, che đậy bản chất Nhà nước, cố ý
hay vô tình lảnh tránh bản chất giai cấp của Nhà nước.


1.1.2. Học thuyết Mác Lê-nin
a. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu khoa học của xã hội
loài người, những luận điểm khoa học về sự xuất hiện Nhà
nước được Ph. Ăngghen trình bày trong tác phẩm nổi tiếng:
“Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và Nhà nước” và được
V.I. Lê nin phát triển thêm trong tác phẩm “Nhà nước và
cách mạng”. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lê-nin
giải thích: “Nhà nước không phải là hiện tượng xã hội vĩnh
cửu, bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu
vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát
triển của chúng không còn nữa”.



b. Quan điểm của Mác Lê-nin: Xã hội loài người đã từng trải
qua thời kỳ tiền nhà nước là thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ
(ở thời kỳ này chưa thể và chưa cần sự xuất hiện của Nhà
nước) và thời kỳ có nhà nước. Đến một lúc nào đó thì xã hội
không cần có Nhà nước nữa và Nhà nước sẽ tự nó tiêu
vong, đó là giai đoạn Cộng sản chủ nghĩa.
* Chế độ cộng sản nguyên thuỷ: là hình thái kinh tế - xã hội
đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Đó là xã hội không có giai
cấp, chưa có Nhà nước. Nhưng những nguyên nhân dẫn đến
sự ra đời của Nhà nước lại nảy sinh chính trong xã hội chưa
có giai cấp đó.


Đặc trưng của xã hội nguyên thuỷ:
- Con người sống chung trong cộng đồng;
- Nhặt nhạnh trái cây và săn bắt chim thú;
- Sở hữu tập thể đối với tư liệu sản xuất và phân phối bình
đẳng của cải, cùng làm, cùng hưởng và không có sự phân
chia lợi ích. Đây là cơ sở của những quan hệ kinh tế xã hội
cộng sản nguyên thuỷ.
 Xã hội không có giai cấp, không có đấu tranh giai cấp,
không có áp bức bóc lột.


Thị tộc là một cộng đồng xã hội độc lập, là tổ chức tế bào cơ
sở của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, là tổ chức xã hội đầu
tiên của loài người và được hình thành trên cơ sở quan hệ
huyết thống. Nó xuất hiện ở một giai đoạn khi xã hội đã

phát triển đến một trình độ nhất định.Nó đặt nền móng cho
việc hình thành hình thái kinh tế- xã hội đầu tiên trong lịch
sử hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Tổ chức
lao động và sản xuất, một bộ máy kinh tế - xã hội.
Tổ chức Thị tộc được hình thành trên cơ sở quan hệ huyết
thống: chế độ mẫu hệ. chế độ phụ hệ.


Trên cơ sở sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao
động đã quyết định mối quan hệ giữa người với người trong
Thị tộc. Mọi người đều bình đẳng, không có ai có đặc quyền
đặc lợi và tồn tại phân công lao động nhưng mới là sự phân
công lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, người già và
trẻ nhỏ để thực hiện các loại công việc khác nhau.
Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của Thị tộc
gồm những người đàn ông, đàn bà lớn tuổi. - Quyết định
các vấn đề quan trọng của Thị tộc:


- Tổ chức lao động sản xuất;
- Tiến hành chiến tranh;
- Giải quyết các tranh chấp nội bộ…
Những quyết định của hội đồng Thị tộc thể hiện ý chí chung
của tất cả các thành viên và có tính bắt buộc chung đối với
tất cả mọi người. Quyền lực xã hội có hiệu lực rất cao và đã
thể hiện tính cưỡng chế mạnh mẽ.
Người đứng đầu: Tù trưởng, Thủ lĩnh quân sự để thực hiện
các công việc chung, nhưng không có đặc quyền, đặc lợi, họ
chịu sự kiểm tra của cộng đồng và có thể bị bãi miễn khi
không còn uy tín hay ủng hộ của cộng đồng.



Hôn nhân: Đến một giai đoạn nhất định có sự cấm đoán trong
hôn nhân trong nội bộ Thị tộc nên các thành viên của Thị tộc
này có quan hệ hôn nhân với các thành viên của Thị tộc
khác, chế độ ngoại tộc hôn.
Các Thị tộc (có quan hệ ngoại tộc hôn) hợp thành Bộ tộc (Bào
tộc). Bộ tộc liên kết với nhau thành Bộ lạc và đến giai đoạn
cuối cùng của chế độ cộng sản nguyên thuỷ thì các liên minh
Bộ lạc đã hình thành.
Nguyên tắc tổ chức quyền lực trong xã hội thị tộc, đã có sự
tập trung cao hơn nhưng quyền lực vẫn mang tính xã hội
chưa mang tính giai cấp.


Tóm lại, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã tồn tại quyền
lực và hệ thống quản lý các công việc của Thị tộc, nhưng chỉ
là quyền lực xã hội, không mang tính chính trị, chưa mang
tính giai cấp do toàn xã hội tổ chức và thực hiện dựa trên cơ
sở của những nguyên tắc dân chủ thực sự và phục vụ cho lợi
ích cộng đồng. Quyền lực này không tách rời khỏi xã hội mà
hoà nhập với xã hội, tức là chưa phải là Nhà nước.
Chưa có pháp luật nhưng đã tồn tại những quy phạm xã hội
như đạo đức, tập quán, tôn giáo,… để điều chỉnh các quan
hệ xã hội: thể hiện ý chí chung của các thành viên và được
mọi người tuân theo thói quen, tập quán cưỡng chế
của thị tộc.


Trong lịch sử xã hội cổ đại đã trải qua 3 lần phân công lao

động xã hội, tạo tiền đề mới sự tan rã của xã hội cộng sản
nguyên thuỷ.
Con người không chỉ sống và bản năng tồn tại mà trong quá
trình ấy, con người tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
Trong lao động và cùng lao động, con người được phát triển,
hoạt động con người ngày càng phong phú, chủ động và tự
giác hơn.
Thuẫn dưỡng động vật (kỷ nguyên mới) đàn gia súc 
nguồn tích luỹ tài sản quan trọng mầm móng sinh ra chế
độ tư hữu. Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt  ngành kinh tế
độc lập.


Xuất hiện dư thừa sản phẩm và đã phát sinh khả năng chiếm
đoạt những sản phẩm dư thừa ấy và phát sinh nhu cầu về
sức lao động. Tù binh chiến tranh biến thành nô lệ.
Như vậy: sau lần phân công lao động đầu tiên:
- Chế độ tư hữu xuất hiện.
- Xã hội phân chia thành người giàu, kẻ nghèo (giai cấp chủ
nô và nô lệ).
- Thay đổi quan hệ hôn nhân: hôn nhân một vợ một chồng
thay thế hôn nhân đối ngẫu (quần hôn).
- Vai trò tuyệt đối và quyền lực vô hạn của người chồng trong
gia đình- thay thế chế độ mẫu hệ gia đình cá thể đe doạ
sự tồn tại thị tộc.


Gia đình xuất hiện dẫn đến sự phân hoá xã hội thành giai cấp
và là tiền đề cho sự xuất hiện của Nhà nước sau này.
Xã hội tiếp tục phát triển: chăn nuôi, trồng trọt, thủ công

nghiệp việc tìm ra kim loại và chế tạo công cụ lao động
bằng kim loại
- Năng suất lao động nâng cao;
- Nghề chế biến đồ kim loại;
- Nghề dệt, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp.
Từ lần phân công lao động xã hội thứ hai dẫn đến hậu quả:


- Nô lệ phát triển và trở thành lực lượng phổ biến;
- Quá trình phân hoá xã hội diễn ra nhanh chóng;
- Sự phân biệt giàu nghèo;
- Mâu thuẫn giai cấp càng thêm sâu sắc.
Nền sản xuất phát triển và các ngành nghề được chuyên môn
hoá xuất hiện nhu cầu trao đổi và nền sản xuất hàng hoá đã
ra đời.
- Phát triển thương nghiệp;
- Thương nghiệp tách ra thành một ngành hoạt động độc lập.
Lần phân công lao động thứ ba này giữ vai trò rất quan trọng
và có ý nghĩa quyết định:


×