Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Quan niệm của Ăng ghen về phân kỳ lịch sử triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.25 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC..........................................................................................................0
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
NỘI DUNG.........................................................................................................1
I. Khái lược về lịch sử triết học.....................................................................1
1. Lịch sử triết học......................................................................................1
2. Phân kỳ lịch sử triết học.........................................................................2
II.

Quan niệm của Ăng ghen về phân kỳ lịch sử triết học............................5

1. Vài nét về tiểu sử của Ph.Ăng ghen........................................................5
2. Quan niệm của Ăng-ghen về phân kỳ lịch sử triết học..............................6
KẾT LUẬN.......................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................12

0


MỞ ĐẦU
Lịch sử hình thành, phát triển triết học trải qua nhiều thời kỳ với nhiều
trường phái khác nhau. Những trường phái này phản ánh trình độ phát triển về kinh
tế - xã hội, chính trị và tri thức khoa học tự nhiên của con người ở các thời kỳ. Việc
phân kỳ lịch sử triết học nhằm phân chia lịch sử triết học ra thành những giai đoạn,
chặng đường phát triển cụ thể khác nhau, trên cơ sở đó các nhà nghiên cứu đi sâu
nghiên cứu lịch sử triết học một cách khoa học. Cho đến nay, có rất nhiều cách
thức phân kỳ lịch sử triết học khác nhau. Trong đó, Ăng ghen – một trong những
nhà triết học lớn của thế giới cũng có đưa ra quan niệm của mình về phân kỳ lịch
sử triết học. Vì vậy việc nghiên cứu quan niệm của Ăng ghen về phân kỳ lịch sử
triết học là nội dung quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu về sự hình thành và


phát triển của các tư tưởng triết học trong lịch sử. Đó cũng là lý do tôi lựa chọn đề
tài: “Quan niệm của Ăng ghen về phân kỳ lịch sử triết học”.
NỘI DUNG
I. Khái lược về lịch sử triết học
1.
Lịch sử triết học
Lịch sử triết học là lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng triết học qua các
giai đoạn phát triển của xã hội; là lịch sử đấu tranh giữa các trường phái triết học,
mà điển hình là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm; giữa
phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình; là lịch sử gạt bỏ và kế thừa
lẫn nhau của các tư tưởng triết học qua các giai đoạn lịch sử, cũng như giữa các
dân tộc và các vùng với nhau.
Từ nhu cầu nghiên cứu lịch sử triết học đã ra đời bộ môn khoa học lịch sử
triết học. Đối tượng của khoa học lịch sử triết học là nghiên cứu làm rõ lịch sử hình
thành, phát triển và nội dung tư tưởng của các học thuyết triết học dưới các biểu
hiện cụ thể của nó trong từng giai đoạn lịch sử, làm rõ cuộc đấu tranh giữa hai
1


trường phái triết học (chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm), giữa hai phương
pháp triết học (phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình).
Là một ngành khoa học, nhiệm vụ của lịch sử triết học là tìm ra bản chất của
các học thuyết triết học và xác định vị trí của nó trong từng nước, từng giai đoạn
nói riêng và của thế giới nói chung để từ đó thấy được mối liên hệ giữa các khuynh
hướng biểu hiện khác nhau của các học thuyết, các trường phái, các phương pháp
triết học trong quá trình phát triển của chúng; thấy được sự đan xen lẫn nhau, thâm
nhập vào nhau, kế thừa lẫn nhau và loại bỏ lẫn nhau giữa các trào lưu triết học;
thấy được sự gắn bó chặt chẽ giữa các trường phái triết học với toàn bộ hoạt động
thực tiễn của con người; phải đánh giá khách quan những đóng góp tích cực,
những hạn chế của các học thuyết và phương pháp triết học trong từng giai đoạn

lịch sử nhất định.
Như vậy, lịch sử triết học với tư cách là khoa học nghiên cứu quá trình hình
thành và phát triển triết học trong lịch sử phải phát hiện ra những quy luật hình
thành, phát triển của các học thuyết, trường phái triết học và xác định vai trò của
chúng đối với sự phát triển của tư duy lý luận nói riêng và đối với đời sống xã hội
nói chung.
2.

Phân kỳ lịch sử triết học

Phân kỳ lịch sử triết học là cơ sở để đi sâu nghiên cứu lịch sử triết học một
cách khoa học. Theo quan điểm Macxit, việc phân kỳ lịch sử triết học cần dựa trên
những căn cứ cơ bản sau:
Thứ nhất, triết học là một hình thái ý thức xã hội và là một bộ phận cấu
thành của kiến trúc thượng tầng, nó hình thành, phát triển gắn liền với sự hình
thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi giai
đoạn phát triển khác nhau của các hình thái kinh tế - xã hội sẽ hình thành nên các
2


học thuyết triết học khác nhau. Cho nên phân kỳ lịch sử triết học cần phải dựa vào
các giai đoạn phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Đó
là triết học xã hội nô lệ, triết học xã hội phong kiến, triết học thời kỳ quá độ từ xã
hội phong kiến lên xã hội tư bản,…
Thứ hai, sự phát triển của triết học luôn luôn gắn liền với sự phát triển của
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học, nhất
là khoa học tự nhiên, triết học đều có bước phát triển mới. Vì vậy, phân kỳ lịch sử
triết học còn phải gắn liền với các giai đoạn phát triển của khoa học tự nhiên. Như
triết học thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu vào khoa học thực nghiệm thế kỷ XVII –
XVIII, triết học thời kỳ khoa học tự nhiên đi sâu vào khái quát những quy luật

chung của tự nhiên cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, triết học trong những thời
kỳ khoa học tự nhiên bắt đầu vào nghiên cứu thế giới vi mô cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, triết học trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay.
Thứ ba, do nhiều yếu tố tác động khác nhau, lịch sử triết học còn có những
bước ngoặt mang tính cách mạng trong quá trình phát triển, Điều đó đòi hỏi phân
kỳ lịch sử triết học cần phải tính đến những bước ngoặt trong sự phát triển của triết
học. Chẳng hạn, triết học cổ điển Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã
nâng phép biện chứng lên thành một hệ thống lý luận luận có tính khái quát cao.
Đặc biệt phải nói đến sự ra đời của triết học Mác đã tạo ra một bước ngoặt cách
mạng trong lịch sử triết học.
Thứ tư, sự phát triển của triết học không thể tách rời những điều kiện cụ thể
về tự nhiên, về kinh tế - xã hội, về văn hóa,… của từng vùng, từng dân tộc. Những
điều kiện cụ thể đó tạo nên những nét độc đáo riêng về tư tưởng triết học của từng
vùng, từng dân tộc. Vì vậy, phân kỳ lịch sử triết học còn phải gắn liền với từng
vùng, từng dân tộc. Chẳng hạn phân ra triết học phương Đông và triết học phương
3


Tây, trên cơ sở đó lại chia ra triết học ở các nước khác nhau và các thời kỳ khác
nhau.
Như vậy, phân kỳ lịch sử triết học dựa trên nhiều căn cứ khác nhau cho nên
có nhiều cách phân kỳ khác nhau. Mỗi cách phân kỳ thỏa mãn được tiêu chí này lại
hạn chế về tiêu chí kia. Để khắc phục điều đó, thông thường trong phân kỳ lịch sử
triết học phải kết hợp nhiều tiêu chí. Sau đây là hai cách phân kỳ phổ biển nhất:
Cách thứ nhất là sự kết hợp nét đặc thù của từng vùng với các thời kỳ phát
triển khác nhau của triết học gắn liền với các hình thái kinh tế - xã hội và với
những bước ngoặt trong sự phát triển của triết học, lịch sử triết học được phân kỳ
như sau:
-


Triết học phương Đông cổ - Trung đại.
Triết học phương Tây cổ, trung – cận và hiện đại.
Triết học Mac – Lênin

Cách thứ hai là dựa vào học thuyết hình thái kinh tế xã hội là cơ sở quan
trọng cho phân kỳ lịch sử triết học; đặc điểm của các vùng, các dân tộc sản sinh ra
Triết học; Tính độc lập tương đối của triết học; Bản chất của các học thuyết triết
học tạo ra được những cột mốc lớn lao trong sự phát triển của triết học. Dựa trên
những định hướng này, việc phân kỳ được chia ra các giai đoạn khác nhau:
Triết học cổ đại
Triết học trung đại
Triết học phục hưng
Triết học cận đại
Triết học cổ điển Đức
Triết học Mac – Lênin
II. Quan niệm của Ăng ghen về phân kỳ lịch sử triết học
1.
Vài nét về tiểu sử của Ph.Ăng ghen

4


Ph. Ăng-ghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820, trong một gia đình chủ
xưởng sợi. Lê-nin đã nhận xét, khi còn là học sinh trung học, Ăng-ghen đã căm
ghét sự chuyên quyền và độc đoán của bọn quan lại. Việc nghiên cứu triết học
trong thời gian ở Béc-Lin khi làm nghĩa vụ quân sự đã dẫn ông đi xa hơn. Song
chính thời gian gần hai năm, từ mùa thu năm 1842, sống ở Anh, việc nghiên cứu
đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham
gia vào phong trào công nhân đã dẫn đến bước chuyển biến căn bản trong thế giới
quan của ông sang chủ nghĩa duy vật chủ và chủ nghĩa cộng sản.

Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen tham gia lãnh đạo Quốc tế cộng sản I.
Tháng 9-1870, Ph. Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa vào tổng hội đồng của
quốc tế cộng sản I. Năm 1871, Ph Ăng- ghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch
bảo vệ công xã Pari.
Một số tác phẩm nổi tiếng của Ăng-ghen là: “Nguồn gốc gia đình”, “Chế
độ tư hữu Nhà nước” (1884), “Biện chứng tự nhiên”, “Vấn đề nông dân Pháp và
Đức” (1894), đặc biệt là cuốn “Chống Đuy-rinh” (1818) góp phần to lớn cho việc
hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa Mác, đồng thời trong phần “Lời mở đầu” của tác
phẩm này ông cũng đã trình bày quan niệm của mình về phân kỳ lịch sử triết học.
2. Quan niệm của Ăng-ghen về phân kỳ lịch sử triết học.
Ăng-ghen đã chứng minh tính tất yếu của sự hình thành chủ nghĩa Mác, tính
quy luật của quá trình thay thế các thời kỳ cơ bản của lịch sử triết học hay còn gọi
là phân kỳ lịch sử triết học, bao gồm: Thời kỳ phép biện chứng tự phát thời cổ đại;
thời kỳ phép biện chứng siêu hình thời Tây Âu kỷ XVII- XVIII; thời kỳ phép biện
chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức và thời kỳ phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác.1
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo, “Triết học” dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành
triết học, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, tr.127-128.

5


II.1.

Thời kỳ phép biện chứng tự phát thời cổ đại.

Những nhà triết học cổ Hy Lạp đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm
sinh và Ari-xtốt, Heraclit thời cổ đại đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất
của tư duy biện chứng.
Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự nhiên, lịch sử loài người hay

hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta thì trước nhất, chúng ta thấy một bức
tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác động qua lại,
trong đó không có cái gì là đứng nguyên, không thay đổi, mà tất cả đều vận động,
biến đổi, phát sinh và mất đi.
Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đó đúng là
thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclit
trình bày một cách rõ ràng rằng: “Mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn
tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không
ngừng phát sinh và tiêu vong”. Nhưng Ăng-ghen cho rằng cách nhìn ấy cho dù nó
có nắm đúng tính chất chung của toàn bộ bức tranh về các hiện tượng, vẫn không
đủ để giải thích những chi tiết hợp thành của bức tranh toàn bộ và chừng nào
chúng ta chưa hiểu hết được những chi tiết ấy thì chúng ta chưa thể hiểu hết được
bức tranh toàn bộ. Muốn nhận biết được những chi tiết ấy, chúng ta buộc phải tách
chúng ra khỏi mối liên hệ tự nhiên hay lịch sử của chúng.
Trong thời kì cổ đại Hy Lạp, khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội chỉ giữ
một vai trò thứ yếu vì đối với họ, điều cần thiết trước hết là phải thu thập được đầy
đủ tài liệu. Ph. Ăng ghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị triết học của
Heraclit và coi ông là đại biểu xuất sắc nhất của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại:
“Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ nhưng căn bản là đúng ấy,

6


quan niệm của các nhà Hy Lạp thời cổ và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng
quan niệm ấy là Heraclit”.
Phép biện chứng thời kì cổ đại đã thấy được các sự vật trong quá trình sinh
ra, hình thành, tiêu vong và mối liên hệ vô tận giữa các sự vật, hiện tượng. Tuy
nhiên, những tư tưởng đó dựa trên cơ sở trực quan, trực giác chứ chưa có được
những cơ sở khoa học vững chắc và quan trọng nhất là chưa đầy đủ.
II.2.


Thời kỳ phép biện chứng siêu hình thời Tây Âu kỷ XVII –

XVIII
Phép biện chứng trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư
duy siêu hình. Hai đại diện tiêu biểu của trường phái tư duy siêu hình này là Bêcơn và Lốc-cơ.
Đối với các nhà siêu hình học thì vật và những khái niệm đều là những đối
tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ, vĩnh viễn, phải được xem xét cái
này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia. Sự vật hoặc là tồn tại, hoặc là không
tồn tại, một sự vật không thể vừa là bản thân nó vừa là một sự vật khác. Cái khẳng
định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, nguyên nhân kết quả cũng đối lập
hẳn với nhau. Ăng-ghen nhận thấy phương pháp tư duy siêu hình mới nghe thì có
vẻ chấp nhận được do nó là kết quả của quá trình nhận thức lành mạnh của con
người nhưng nó sẽ gặp phải một ranh giới mà nếu nó vượt quá thì sẽ trở thành
phiến diện, hạn chế, trừu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể giải quyết
được vì nó chỉ nhìn thấy những sự vật, hiện tượng riêng lẻ mà không nhìn thấy mối
liên hệ qua lại giữa chúng, chỉ nhìn thấy sự tồn tại mà không nhìn thấy sự phát sinh
tiêu vong cảu sự vật, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh mà quên mất sự vận động của
những vật chất ấy.

7


Tất cả những quá trình ấy và tất cả những phương pháp tư duy ấy không
nằm trong khuôn khổ của tư duy siêu hình. Trái lại, đối với phép biện chứng là
phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng
buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng thì những quá trình đó
chỉ chứng thực cho phương pháp nghiên cứu của bản thân nó mà thôi. Giới tự
nhiên là hòn đá thử vàng đối với phép biện chứng, và cần phải nói rằng khoa học

tự nhiên đại đã cung cấp cho sự thử nghiệm ấy những vật liệu vô cùng phong phú
và mỗi ngày một tăng thêm và do đó đã chứng minh rằng trong tự nhiên, tựu chung
lại, mọi vật đều diễn ra một cách biện chứng chứ không phải siêu hình.
Tóm lại, theo quan điểm của Ăng-ghen, tư duy siêu hình là kết quả của quá
trình nhận thức lành mạnh của con người nên xét về mặt bản chất, phương pháp tư
duy đó không hoàn toàn sai lầm mà nó có một ranh giới nhất định mà nếu vượt qua
ranh giới đó thì tư duy siêu hình sẽ trở thành hạn chế, phiến diện. Tư duy siêu hình
chỉ xem xét mọi sự vật, hiện tượng đứng yên mà không vận động, không tác động
qua lại lẫn nhau và ông đã chỉ ra được những điểm hạn chế cơ bản của phương
pháp tư duy này.
II.3.

Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức

Tinh thần của nền triết học Đức ngay từ đầu đã đi theo quan niệm đúng đắn
về vũ trụ, về sự phát triển của vũ trụ và sự phát triển của loài người, cũng như về
sự phản ánh của sự phát triển ấy vào trong đầu óc con người chỉ có thể có được
trên con đường biện chứng, với sự chú ý thường xuyên đến những tác động qua lại
phổ biến giữa sự phát sinh và sự tiêu vong, giữa sự biến đổi đi lên và sự biến đổi
thụt lùi. Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Kant và hoàn

8


thiện ở hệ tthống triết học của Hegel. Tuy nhiên, phép biện chứng của các nhà khoa
học thời kì này còn nặng nề về duy tâm và bảo thủ.
Trong tác phẩm Chống Duhring, Ăng ghen đã khái quát về nền triết học Đức
như sau: “Kant đã mở đầu sự nghiệp khoa học của ông bằng việc biến thái dương
hệ cố định của Newton và sự tồn tại vĩnh cửu của nó - sau khi đã có cái đẩy đầu
tiên nổi tiếng - thành một quá trình lịch sử: thành quá trình nẩy sinh của mặt trời và

tất cả mọi hành tinh từ khối tinh vân đang xoay. Đồng thời, ông đã rút ra được cái
kết luận là sự nẩy sinh của thái dương hệ đồng thời cũng giả định sự tiêu vong tất
yếu của nó trong tương lai. Nửa thế kỷ sau, quan điểm đó của ông, được Laplace
chứng minh bằng toán học và một nửa thế kỷ sau nữa, kính quang phổ biến đã
chứng minh rằng trong không gian của vũ trụ có những đám khí đỏ rực giống như
thế, ở những mức độ ngưng tụ khác nhau. Nền triết học mới của Đức đã đạt tới
đỉnh cao của nó là trong hệ thống của Hegel, trong đó lần đầu tiên - và đây là công
lao to lớn của ông - toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần được trình bày như là
một quá trình - nghĩa là được nhận thức trong sự vận động và sự phát triển ấy.”
Triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép
biện chứng duy tâm. Tính duy tâm trong triết học của Hegel được biểu hiện ở chỗ,
ông coi phép biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”,
coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Ông cho rằng “ý
niệm tuyệt đối” là điểm khởi đầu của tồn tại, tự “tha hóa” thành giới tự nhiên và
trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. Tinh thần, tư tưởng, ý niệm tuyệt đối
là cái có trước, thế giới hiện thực chỉ là bản sao chép của ý niệm.
Như vậy, Hegel là người xây dựng phép biện chứng tương đối hoàn chỉnh
với một hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật. Tuy nhiên, phép biện chứng Hegel
là phép biện chứng duy tâm, là phép biện chứng ngược đầu; ông coi biện chứng
của ý niệm sinh ra biện chứng của sự vật, chứ không phải ngược lại. Ăngghen nhận
xét rằng: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hegel
9


tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao
quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hegel,
phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện
được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”
Mặc dù Hegel là một thiên tài tuy nhiên ông vẫn bị hạn chế bởi những giới
hạn tri thức của bản thân ông, những hạn chế về kiến thức và những quan niệm của

thời đại. Ngoài ra, Hegel là một nhà duy tâm, nghĩa là đối với ông ta, những tư
tưởng trong đầu óc của chúng ta không phải là những phản ánh ít trừu tượng của
những sự vật và quá trình hiện thực, mà ngược lại, những sự vật và phát triển của
chúng chỉ là những phản ánh vốn là hiện thân của một "ý niệm" tồn tại ở một nơi
nào đó ngay trước khi có thế giới.
II.4.

Thời kì phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac.

Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ăngghen cho rằng: “Phép
biện chứng…là môn khoa học về những qui luật phổ biến của sự vận động và sự
phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Xét từ góc độ kết cấu nội dung, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac
có hai đặc điểm cơ bản sau đây:
- Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac là phép biện chứng được xác
lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc trưng này, phép biện
chứng duy vật chẳng những có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm
cổ điển Đức, đặc biệt là với phép biện chứng của Hegel mà còn có sự khác biệt về
trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử triết
học từ thời cổ đại.
- Trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac có sự thống nhất giữa
nội dung thế giới quan và phương pháp luận, do đó, nó không dừng lại ở sự giải
thich thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi
nguyên lý, qui luật trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac không chỉ là
10


sự giải thích đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận
khoa học của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát các mối liên
hệ phổ biến và sự phát triển, những qui luật phổ biến của các quá trình vận động,

phát triển của tất thảy mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac cung cấp những nguyên tắc phương pháp
luận chung nhất cho quá trình nhận thức và cải tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên
tắc phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát
triển, lịch sử - cụ thể, phương pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn
gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động phát triển,…Với tư cách đó, phép
biện chứng duy vật chính là công cụ vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải
tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản đó mà phép biện chứng duy vật giữ vai trò là
một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học
của chủ nghĩa Mac, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mac, đồng
thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng
tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
KẾT LUẬN
Phân kỳ lịch sử triết học là cơ sở để đi sâu nghiên cứu lịch sử triết học. Tìm
hiểu quan niệm Ăng ghen về phân kỳ lịch sử triết học giúp cung cấp cái nhìn toàn
diện, sâu sắc để học tập, nghiên cứu. Là điều kiện cần thiết để nghiên cứu khoa học
phát triển tư tưởng triết học lịch sử loài người

11


1.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học nghiên cứu

sinh không chuyên ngành triết học), Bộ giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 2005.
2.


C-Mác, Ph.Ăng ghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 1994.

3.

/>
hoc-Mac-Lenin/Quan-diem-cua-C-Mac-va-Ph-Angghen-ve-nhung-tien-decua-lich-su-trong-He-tu-tuong-Duc-va-y-nghia-cua-chung-248.html

12



×