Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Khóa luận tốt nghiệp pháp luật bảo vệ môi trường trong nhập khẩu hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.51 KB, 68 trang )

Khãa luËn tèt nghiÖp
häc LuËt Hµ Néi

1

§¹i

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong thời kỳ mà quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra
với tốc độ hết sức nhanh chóng. Toàn cầu hóa được coi là một xu thế tất yếu
khách quan, xuất phát từ bản thân quá trình phát triển của thế giới với những yếu
tố tác động cơ bản là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công
nghệ và kinh tế thị trường. Nó tạo nên quan hệ gắn kết và phụ thuộc, sự tác động
qua lại lẫn nhau giữa các nước trên thế giới. Quá trình này đòi hỏi các quốc gia
phải hội nhập hơn nữa với nền kinh tế thế giới, phải chấp nhận cạnh tranh và chủ
động mở cửa thị trường trong nước của mình.
Cùng với trào lưu chung đó, trong vòng một thập kỷ qua, Việt Nam đã
thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế với phương châm đa phương hóa, đa
dạng hóa trong quan hệ kinh tế quốc tế, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế
giới và khu vực. Một trong những hoạt động thương mại giúp chúng ta mở rộng
quan hệ với các nước, đồng thời thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển là
hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Bên cạnh đó, một vấn đề được đặt ra và cần phải
quan tâm trong mọi hoạt động thương mại nói chung và trong hoạt động nhập
khẩu hàng hóa nói riêng là vấn đề bảo vệ môi trường. Trong thời gian qua, hoạt
động nhập khẩu hàng hóa đã có những tác động tích cực tới nền kinh tế nhưng
cũng ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường. Môi trường bị ô nhiễm, mất cân
bằng sinh thái… có thể do nhiều lý do khác nhau, trong đó có nguyên nhân do
hoạt động nhập khẩu hàng hóa mang lại.
Dù kinh tế có phát triển đến đâu thì con người cũng không thể sống thiếu
môi trường. Con người có quyền được sống trong một môi trường trong lành
nhưng cũng có nghĩa vụ xây dựng, giữ gìn, bảo vệ môi trường trong lành đó cho


chính bản thân và cho thế hệ con cháu tương lai. Chính vì vậy, trong mọi hoạt
động kinh tế, con người luôn phải đặt cạnh các lợi ích về môi trường, coi bảo vệ
môi trường là một nhiệm vụ đi đôi với phát triển kinh tế. Bảo vệ môi trường đã,
đang và sẽ luôn luôn là mối quan tâm của toàn nhân loại.
Vì những lý do trên mà em đã chọn đề tài: “Pháp luật bảo vệ môi trường
trong nhập khẩu hàng hóa” cho khóa luận tốt nghiệp của mình. Vấn đề này được


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
2
häc LuËt Hµ Néi
quy định tại các Điều 42, Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường 2005. Tuy nhiên,
trong phạm vi đề tài này chỉ bao gồm phạm vi tại Điều 42 Luật Bảo vệ môi
trường 2005: “Bảo vệ môi trường trong nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa” mà
không bao gồm phạm vi của Điều 43 Luật Bảo vệ môi trường: “Bảo vệ môi
trường trong nhập khẩu phế liệu”.
Nội dung của đề tài bao gồm:
Chương I. Khái quát chung về nhập khẩu hàng hóa và sự cần thiết
phải bảo vệ môi trường trong nhập khẩu hàng hóa.
Chương II. Pháp luật bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu
hàng hóa và thực trạng của những quy định này.
Chương III. Định hướng và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật
môi trường về nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam.
Với khả năng nghiên cứu cũng như thời gian nghiên cứu còn hạn chế,
khóa luận này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để khóa luận có thể hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!



Khãa luËn tèt nghiÖp
häc LuËt Hµ Néi

3

§¹i

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VÀ SỰ
CẦN THIẾT PHẢI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG NHẬP
KHẨU HÀNG HÓA
1.1. Khái niệm, thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hóa và tác động của
hoạt động nhập khẩu hàng hóa đối với môi trường
1.1.1. Khái niệm, thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hóa
* Khái niệm hoạt động nhập khẩu hàng hóa
Sự phát triển của xã hội loài người gắn liền với sự phát triển của nền sản
xuất. Sản xuất càng phát triển thì các mối quan hệ kinh tế giữa người sản xuất
với người sản xuất, người sản xuất với người tiêu dùng và giữa những người tiêu
dùng với nhau ngày càng phát triển và diễn ra ngày càng phức tạp. Khi sản xuất
xã hội phát triển đến trình độ nhất định, các mối quan hệ kinh tế phát triển
không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn vươn ra bên ngoài, tạo nên các
mối quan hệ kinh tế đối ngoại và kinh tế quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc
tế, tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong
nước. Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà hàng hóa trong nước chưa sản xuất được
hoặc sản xuất không đáp ứng được yêu cầu được bổ sung, nâng cao trình độ và
chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm cho sản xuất và tiêu dùng trong nước
ngày càng đa dạng. Nhập khẩu còn để thay thế cho những hàng hóa mà sản xuất
không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế

tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. Với tác
động đó, nhập khẩu được coi là một phương pháp sản xuất gián tiếp, qua đó tạo
điều kiện thúc đẩy nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Xu thế toàn cầu hóa xuất hiện và phát triển như một tất yếu khách quan do
sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự đổi mới nhanh chóng về công
nghệ, công cụ sản xuất và năng suất lao động tăng ngày càng cao hơn. Sự phát


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
4
häc LuËt Hµ Néi
triển đó đã phá vỡ khuôn khổ chật hẹp của nền sản xuất khép kín từng vùng,
từng nước, làm cho sản xuất và tiêu dùng của các nước mang tính chất quốc tế.
Đó cũng chính là nguyên nhân làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Hàng nhập khẩu cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ kích thích các nhà sản xuất
trong nước cải tiến công nghệ và các sản phẩm để tạo chỗ đứng vững chắc trên
thị trường.
Hoạt động nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa là quá trình
chuyển đổi nền kinh tế một cách cơ bản từ lao động thủ công sang lao động cơ
khí ngày càng hiện đại hơn. Tăng cường nhập khẩu công nghệ, thiết bị máy móc
làm rút ngắn khoảng cách về trình độ kỹ thuật của Việt Nam so với thế giới.
Theo Khoản 2 Điều 28 Luật Thương mại 2005 thì: “Nhập khẩu hàng hóa
là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực
đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy
định của pháp luật”.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Hải quan 2001, được sửa đổi, bổ
sung 2006; Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005

quy định chi tiết một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra,
giám sát hải quan; Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 149/2005 ngày 8/12/2005 quy
định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì khu vực hải quan
riêng gồm: khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan,
khu thương mại đặc biệt, khu thương mại – công nghiệp và khu vực kinh tế khác
được thành lập theo quyết định của thủ tướng Chính phủ, có quan hệ mua bán,
trao đổi hàng hóa giữa khu này với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu.
Như vậy, hoạt động nhập khẩu không chỉ là việc đưa hàng hóa từ nước ngoài
vào Việt Nam mà còn gồm hoạt động đưa hàng hóa từ những khu vực có quy
chế đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam ra bên ngoài khu vực này vào thị trường nội
địa của Việt Nam, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân. Qua đó, tác
động tích cực đến việc mở rộng hợp tác giữa Việt Nam với nước ngoài, thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.


Khãa luËn tèt nghiÖp
5
häc LuËt Hµ Néi
* Thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hóa

§¹i

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, hàng hóa
nhập khẩu có ba loại là: máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng được nhập khẩu
để đổi mới kỹ thuật, công nghệ, nhằm nâng cao năng suất, tăng sức cạnh tranh;
loại thứ hai là các nguyên liệu, nhiên vật liệu mà trong nước không sản xuất
được hoặc sản xuất được nhưng không đủ hoặc không có hiệu quả bằng nhập
khẩu; loại thứ ba là các loại hàng hóa tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu tăng nhanh
về số lượng, đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã và cao hơn về chất
lượng.

Trong năm 2008, tính chung kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 8 tháng đầu
năm ước tính 59,3 tỷ USD, tăng 54,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, khu
vực kinh tế trong nước 40,1 tỷ USD, tăng 65,4%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài 19,2 tỷ USD, tăng 41,3%. Nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng
vẫn đạt kim ngạch cao nhất với 9,6 tỷ USD, tăng 41,6% so với cùng kỳ năm
trước; xăng dầu 9,1 tỷ USD, tăng 94,3%; sắt thép 5,5 tỷ USD, tăng 81,3%, trong
đó phôi thép 1,5 tỷ USD, tăng 118,1%; vải 3 tỷ USD, tăng 18,2%; điện tử máy
tính và linh kiện 2,3 tỷ USD, tăng 32,5%; chất dẻo 2,1 tỷ USD, tăng 40,3%; ô tô
nguyên chiếc 44,3 nghìn chiếc, tương đương 843 triệu USD, tăng 223,6% về
lượng và tăng 206,3% về kim ngạch. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 8 tháng
tăng so với cùng kỳ năm trước một mặt do lượng nhập khẩu tăng, mặt khác do
giá nhập khẩu tăng; nếu loại trừ yếu tố tăng giá của 5 mặt hàng gồm xăng dầu,
sắt thép, phân bón, chất dẻo và giấy thì kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 8 tháng
đầu năm ước tính 53,2 tỷ USD, tăng 38,3% so với cùng kỳ năm 2007 [37].
Đến tháng 12/2008, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu của tháng này ước
tính đạt 5,4 tỷ USD, tăng 16,1% so với tháng trước do một số mặt hàng nhập
khẩu tháng này tăng mạnh là: Máy móc thiết bị tăng 272 triệu USD; xăng dầu
tăng 78 triệu USD; thức ăn gia súc tăng 53 triệu USD; sắt, thép tăng 182 triệu
USD. So với tháng 12/2007, kim ngạch nhập khẩu tháng 12/2008 giảm 25%.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD,
tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
6
häc LuËt Hµ Néi
USD, tăng 26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng
31,7%. Trong tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2008, tư liệu sản xuất
chiếm 88,8%; hàng tiêu dùng chiếm 7,8%; vàng chiếm 3,4% (năm 2007, tỷ

trọng của 3 nhóm hàng này tương ứng là: 90,4%; 7,5%; 2,1%). Nếu loại trừ yếu
tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng
21,4% so với năm 2007.
Nhìn chung, các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển sản xuất trong nước đều tăng so với năm 2007. Tuy nhiên, nhập khẩu
nguyên liệu cho sản xuất những tháng cuối năm có xu hướng giảm nhiều, đây là
một trong những dấu hiệu của sự chững lại trong đầu tư và sản xuất. Trong khi
đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng đang có xu hướng tăng vào các tháng
cuối năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang tạo sức ép lên hàng tiêu
dùng Việt Nam ngay tại thị trường trong nước. Nhập khẩu ô tô năm 2008 đạt
mức cao kỷ lục với 2,4 tỷ USD, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 1 tỷ USD với
50,4 nghìn chiếc. Nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng khác (trừ ô tô và máy
tính, điện tử) ước tính đạt 13,7 tỷ USD, tăng 23,3% so với năm 2007. Nhập khẩu
xăng dầu đạt 12,9 triệu tấn, tăng 0,1% so với năm trước, tương ứng với kim
ngạch 10,9 tỷ USD, tăng 41,2%. Sắt thép đạt 6,6 tỷ USD, tăng 28,5%. Vải và
nguyên phụ liệu dệt may là những mặt hàng phục vụ chủ yếu cho sản xuất hàng
xuất khẩu vẫn đạt kim ngạch cao với 6,8 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2007.
Hàng điện tử máy tính và linh kiện đạt 3,7 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm
trước, đây là nhóm hàng không chỉ gắn với tiêu dùng trong nước mà còn liên
quan đến gia công, lắp ráp để xuất khẩu [48].


Khãa luËn tèt nghiÖp
7
häc LuËt Hµ Néi
THỐNG KÊ SƠ BỘ NHẬP KHẨU NĂM 2008
Mặt hàng
Ô tô nguyên chiếc
Thép thành phẩm
Phôi thép

Phân bón
Xăng dầu
Máy, thiết bị dụng cụ
Điện tử, máy tính và

Đơn vị tính Số lượng
Chiếc
50.395
1.000 tấn
5.626
1.000 tấn
2.216
1.000 tấn
2.987
1.000 tấn
12.656
Triệu USD

Triệu USD
linh kiện
Dầu mỡ, động thực vật Triệu USD
Thuốc trừ sâu
Triệu USD
(Theo www.hptrade.com.vn)

§¹i

Trị giá
1.036
4.905

1.576
1.470
10.883
13.612
3.722
655
472

Đến tháng 1/2009, kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 4,1 tỷ USD, giảm
27,6% so với tháng trước và giảm 44,8% so với cùng kỳ năm 2008. Kim ngạch
nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước
của tháng 1/2009 nhìn chung đều giảm so với cùng kỳ năm 2008, trong đó máy
móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 1 tỷ USD, giảm 19,5%; xăng dầu đạt 244
triệu USD, giảm 75,2%; vải đạt 230 triệu USD, giảm 20,6%; hàng điện tử, máy
tính và linh kiện đạt 200 triệu USD, giảm 45,1%; sắt thép đạt 155 triệu USD,
giảm 82,3%. Nguyên nhân chủ yếu tác động đến kim ngạch hàng hóa nhập khẩu
tháng 1 năm nay giảm là do giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới giảm
mạnh so với cùng kỳ năm 2008; trong đó giá xăng dầu giảm 56,2%; giá chất dẻo
giảm 33,7%; sợi dệt giảm 29,2%; sắt thép giảm 9,4% [39].
Do giá thế giới giảm mạnh, nhiều mặt hàng sản xuất trong nước đã dần
thay thế được hàng nhập khẩu, tiêu thụ trong nước chậm nên dự báo kim ngạch
nhập khẩu hàng hóa của cả nước trong năm 2009 có thể sẽ giảm khoảng 5% so
với năm 2008, xuống còn 76 tỷ USD.
Tuy nhiên, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính
toàn cầu khiến giá hàng hóa, vật tư, máy móc, thiết bị giảm mạnh. Vì vậy, các
doanh nghiệp ở trong nước sẽ tranh thủ cơ hội này để gia tăng lượng hàng nhập
về với giá rẻ. Điều này sẽ khiến khối lượng nhập khẩu ở một số mặt hàng tăng


Khãa luËn tèt nghiÖp

§¹i
8
häc LuËt Hµ Néi
cao, nhất là ở nhóm hàng máy móc, thiết bị [49]. Một vấn đề đáng chú ý là có
một phần đáng kể máy móc, thiết bị được nhập khẩu từ một số nước không
thuộc công nghệ nguồn, thậm chí là máy móc, thiết bị, công nghệ cũ, hoặc đang
trong quá trình thải loại của nước xuất khẩu. Việc nhập khẩu những hàng hóa
này sẽ gây tác động rất xấu tới môi trường. Do đó, cần tăng cao hơn nữa tỷ trọng
nhập khẩu máy móc, thiết bị, đồng thời cần lựa chọn trình độ kỹ thuật – công
nghệ tiên tiến để tránh thiệt hại “kép”: vừa tốn ngoại tệ, vừa biến Việt Nam trở
thành bãi rác công nghệ của thế giới.
Qua các phân tích trên, có thể khẳng định nhập khẩu hàng hóa là hoạt
động thuộc lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân, đảm nhận chức
năng lưu thông hàng hóa, dịch vụ trong và ngoài nước, nhằm mục đích đẩy
mạnh sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và từng bước nâng
cao đời sống của nhân dân. Hoạt động nhập khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại
đem lại hiệu quả kinh tế rất cao, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của đất nước.
1.1.2. Tác động của hoạt động nhập khẩu hàng hóa đối với môi trường
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà các quan hệ kinh tế quốc tế đã
phát triển tới mức không một quốc gia nào dù thuộc hệ thống kinh tế - xã hội
nào, có thể tồn tại và phát triển mà không chịu sự tác động qua lại của các mối
quan hệ. Toàn cầu hóa được coi là một xu thế khách quan, xuất phát từ bản thân
quá trình phát triển của thế giới với những yếu tố tác động cơ bản là sự phát
triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ và kinh tế thị trường. Nó
tạo nên sự gắn kết và phụ thuộc, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các nước trên
thế giới. Từ những con số thống kê về tình hình nhập khẩu hàng hóa ở trên cho
thấy hoạt động nhập khẩu hàng hóa của nước ta đã, đang và sẽ còn vận động
mạnh mẽ, hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạt động này tác động tới môi
trường ở cả hai mặt: tích cực và tiêu cực.

* Tác động tích cực
Thông qua hoạt động nhập khẩu, chúng ta có cơ hội tiếp thu với công
nghệ cao, công nghệ sạch và công nghệ ít hoặc không sản sinh chất thải. Hiện


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
9
häc LuËt Hµ Néi
nay, sản phẩm dầu thực vật ở Việt Nam được sản xuất từ nguyên liệu trong nước
là các loại hạt có dầu (lạc, vừng, dừa, đậu tương, hướng dương…) qua các công
đoạn trích ly dầu thô từ nguyên liệu và tinh luyện. Tuy nhiên, do nguồn nguyên
liệu trong nước còn hạn chế nên một lượng lớn sản phẩm được sản xuất chỉ qua
công đoạn tinh luyện bằng nguồn nguyên liệu là dầu thô nhập khẩu. Các cơ sở
sản xuất chế biến dầu có công suất lớn hoặc mới được đầu tư ở Việt Nam đều sử
dụng công nghệ và thiết bị hiện đại được nhập từ những nước có trình độ chế tạo
cơ khí tiên tiến. Nhà máy ép dầu cám của liên doanh COLOFIC tại Cần Thơ đã
sử dụng công nghệ trích ly bằng dung môi tiên tiến, sản xuất ra dầu cám chất
lượng cao phục vụ xuất khẩu. Các công ty có quy mô lớn thuộc ngành dầu nước
ta, như: Công ty cổ phần dầu Tường An, Tân Bình, Công ty TNHH Bình An,
Liên doanh Cái Lân – CALOFIC (Quảng Ninh) hiện đang áp dụng công nghệ
tinh luyện dầu thực vật theo phương pháp vật lý hiện đại nhất hiện nay của thế
giới. Đây là công nghệ có nhiều ưu việt hơn so với tinh luyện bằng phương pháp
hóa học, như: sản phẩm có chất lượng cao hơn, giảm tốn kém hóa chất và giảm
ô nhiễm môi trường [38].
Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã
đem theo những công nghệ tiên tiến, ít gây ô nhiễm, sử dụng nguyên liệu hiệu
quả hơn, là điều kiện để phát triển phân công lao động và chuyên môn hóa sản
xuất. Các doanh nghiệp nước ngoài, nhất là các tập đoàn đa quốc gia có công
nghệ sạch, áp dụng những tiêu chuẩn môi trường cao hơn so với yêu cầu của

nước chủ nhà, do vậy có khả năng góp phần vào quá trình phát triển bền vững
môi trường của nước chủ nhà. Theo thống kê của Bộ TN&MT cho thấy, đã có
20 tỉnh và thành phố của nước ta đã bị ảnh hưởng dầu tràn. Lượng dầu thu gom
được mới chỉ vào khoảng 1,721 tấn (xử lý được 1.440 tấn). Chính phủ Việt Nam
đã kêu gọi các tập đoàn nước ngoài đưa vào Việt Nam những công nghệ mới
nhằm giúp xử lý những sự cố trên. Do vậy, tập đoàn Marcon đã đưa công nghệ
DCR (xử lý về phản ứng hóa học) vào Việt Nam. Đại diện Marcon tại Việt Nam
cho biết, công nghệ DCR do công ty Tasmani, một thành viên của tập đoàn
Marcon, nắm giữ giấy phép độc quyền về thiết kế và thực hiện. Công nghệ này


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
10
häc LuËt Hµ Néi
đã được hai bang Alaska và California của Hoa Kỳ sử dụng độc quyền trong
việc sử dụng đất, xử lý chất cặn và các ứng dụng về nhựa và axit. DCR bao gồm
các lĩnh vực về hữu cơ, vô cơ, hạt nhân và các ứng dụng khử halogen, khắc phục
các vấn đề môi trường. Công nghệ đã được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới
với các dự án đáng chú ý như: sự cố tràn dầu, xử lý rác thải lâu năm nguy
hiểm… Đây là một lò phản ứng di động, nơi nào có ô nhiễm là có thể di chuyển
lò phản ứng tới khá dễ dàng. Khi đó lò phản ứng sẽ thu gom các chất ô nhiễm
trong đất và nước ngầm (cặn dầu, cặn dầu đã phân tích trước khi xử lý, chất ESP,
chất thải gây ô nhiễm và chất thải ở rãnh, cống) và xử lý. Trong quá trình xử lý,
công nghệ tự phân tách luôn các chất thải thành các chất hữu dụng trong nông
nghiệp cũng như công nghiệp, như: chất thải đó trộn vào phân bón, trộn vào làm
các khối tấm xi măng hoặc làm các nhiên liệu thay thế nhựa đường… Do đó,
không phải chôn và đốt rác thải mà hàng trăm năm sau khi chôn vẫn còn nguyên
vẹn [38].
Hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa thương mại, chúng ta có điều kiện thu

nhận thông tin, kiến thức về bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ môi trường
trong hoạt động nhập khẩu nói riêng; học hỏi được các kinh nghiệm quốc tế
trong việc xử lý hài hòa giữa lợi ích kinh tế trong việc nhập khẩu hàng hóa và
bảo vệ môi trường, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, một thách thức lớn được đặt ra là xử
lý ô nhiễm môi trường. Những năm gần đây, số lượng các khu công nghiệp, khu
chế xuất tăng rất nhanh nhưng chỉ có một số hệ thống xử lý chất thải tại doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện tại, phần lớn các chất thải công nghiệp,
chất thải y tế và rác thải sinh hoạt được thu gom, xử lý bằng phương pháp chôn
lấp, gây ô nhiễm môi trường. Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối mặt với
tình trạng rất cấp bách về địa điểm chôn lấp rác; năm 2006, một trong hai bãi rác
lớn của thành phố phải đóng cửa vì đã vượt khối lượng cho phép. Vào thời điểm
đó, công ty xử lý chất thải rắn VN-VWS đã đưa vào công nghệ POSI-SHELL
(công nghệ mới, tiên tiến nhất được sử dụng tại Hoa Kỳ trong 2 năm qua và lần
đầu tiên được áp dụng tại châu Á) để xây dựng khu xử lý chất thải rắn Đa


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
11
häc LuËt Hµ Néi
Phước. Ngày 1/11/2007, khu liên hợp bắt đầu đi vào hoạt động với công suất
3.100 tấn/ngày và có thể tiếp nhận rác trong thời gian 21 năm. Ông David
Dương, Giám đốc công ty cho biết, đây là công nghệ được sử dụng chất phụ gia
keo được trộn chung với xi măng và bột vôi (được nhập khẩu từ nước ngoài) và
phun lên bề mặt của rác. Hàng ngày, rác được tiếp nhận đến đâu sẽ phun xịt đến
đó. Máy POSI-SHELL có thể sử dụng liên tục với hiệu quả cao trong mọi thời
tiết khắc nghiệt, kể cả trong điều kiện mưa gió. Công nghệ phun xịt này đem lại
hiệu quả tối ưu hơn so với phương pháp thông thường là sử dụng đất và bạt. Lớp
phủ được rải và nén chặt có tác dụng giảm tối đa mùi hôi, ngăn nước rỉ rác thẩm

thấu vào tầng nước mặt, diệt côn trùng và phòng ngừa hỏa hoạn xảy ra trong bãi
chôn lấp. Công nghệ này còn giúp tách nước mưa ra khỏi bãi rác, giảm bớt tổng
lượng nước phải xử lý. Mùi phát sinh từ rác còn được khống chế bằng máy phun
sương khử mùi được xịt hàng ngày [47]. Như vậy, với công nghệ nhập khẩu từ
nước ngoài, chúng ta có thể xử lý ô nhiễm môi trường một cách có hiệu quả,
đảm bảo môi trường sống trong lành.
* Tác động tiêu cực
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết phải đổi mới công
nghệ, bởi vì, trình độ công nghệ có vai trò quyết định đến việc khai thác và sử
dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đồng thời cũng
quyết định cả năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Hiện nay, công nghệ đang
sử dụng ở Việt Nam chủ yếu là nhập từ nước ngoài. Bởi vậy, chuyển giao công
nghệ luôn là một nhu cầu cấp bách, thiết thực của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Song, vì là một nước nghèo, nguồn vốn eo hẹp, cho nên, trong
chuyển giao công nghệ, dù là trực tiếp hay gián tiếp, chúng ta cũng rất khó có
thể nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến nhất, mà thường chỉ nhận được
các thiết bị loại trung bình, thậm chí, trong nhiều trường hợp còn phải nhận cả
các thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, đã bị loại bỏ ở các nước phát triển.
Nhập khẩu từ các nước châu Á chiếm tới 75% kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam. Lý do là công nghệ của các nước phương Tây thường có giá thành
cao. Trong khi công nghệ và trình độ kỹ thuật của doanh nghiệp Việt Nam còn


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
12
häc LuËt Hµ Néi
thấp, thêm vào đó là trình độ của cán bộ quản lý còn hạn chế, chúng ta khó có
thể đưa ra được những quy định có lợi cho môi trường và kiểm soát tác động
môi trường của hoạt động nhập khẩu và hoạt động đầu tư. Do đó, Việt Nam có

thể sẽ phải gánh chịu những hậu quả môi trường nghiêm trọng do bên ngoài du
nhập vào. Đã có trường hợp nhập vào cả những công nghệ lạc hậu mà những
nước bán hàng cho ta không còn sử dụng. Ngoài ra, có trường hợp các tập đoàn
đầu tư đa quốc gia đưa các dây chuyền sản xuất ô nhiễm hoặc chuyển giao các
công nghệ lạc hậu tới nước ta, mà những công nghệ này không được chấp nhận
tại nước đầu tư.
Đặc biệt nghiêm trọng là nạn xuất khẩu ô nhiễm môi trường từ các nước
phát triển trên thế giới đang ngày càng gia tăng. Có hiện tượng chuyển các
ngành gây ô nhiễm nặng nề từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển
thông qua FDI. Việc xuất khẩu ô nhiễm mang lại cho các tập đoàn đa quốc gia
một lợi thế cạnh tranh mới nhờ giảm chi phí sản xuất. Nguyên nhân của tình
trạng này là do chi phí để khắc phục ô nhiễm môi trường tại các nước phát triển
là rất cao. Vì vậy, doanh nghiệp của các nước này buộc phải tìm đến giải pháp
chuyển lĩnh vực sản xuất gây ô nhiễm của họ ra nước ngoài. Ví dụ: các nước
phát triển như: Đức, Áo, Bỉ… đang đánh thuế mạnh vào các ngành gây ô nhiễm,
trong khi đó các nước đang phát triển lại có mức thuế thấp hơn nhiều do khát
vốn và vì vậy, họ trở thành những nước có mức nhập khẩu ô nhiễm cao (Trung
Quốc, Ấn Độ, Việt Nam…). Lợi nhuận thương mại và áp lực cạnh tranh của thị
trường cũng là yếu tố khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng các quy trình sản
xuất, nhập khẩu các thiết bị, công nghệ không thân thiện với môi trường để giảm
tối đa chi phí sản xuất.
Tự do hóa thương mại làm tăng nguy cơ lưu thông những sản phẩm có
ảnh hưởng tới môi trường. Khi các biện pháp quản lý nhập khẩu bị hạn chế áp
dụng thì nguy cơ nhập khẩu tràn lan các sản phẩm tiềm ẩn, nguy cơ ảnh hưởng
xấu đến môi trường là không tránh khỏi [17].
Việc nhập khẩu hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm không
đúng quy chuẩn đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường và sức khỏe con người.


Khãa luËn tèt nghiÖp

§¹i
13
häc LuËt Hµ Néi
Việc di nhập các loài sinh vật lạ, những sản phẩm biến đổi gen có thể làm xuất
hiện những nguy cơ đối với môi trường, tác động tiêu cực đến đời sống của một
số loài sinh vật trong nước, ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy, môi trường và kinh tế có mối liên
hệ mật thiết với nhau trong việc góp phần vào lợi ích của con người. Vì vậy, việc
quản lý môi trường phải trở thành một phần không thể thiếu khi hoạch định
chính sách kinh tế.
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường trong nhập khẩu hàng hóa
Sự phát triển của xã hội có nhiều mục đích, nhưng mục đích của mọi mục
đích là vì sự sống, sự tự do phát triển toàn diện của con người. Với tư cách là
một thực thể sinh học - xã hội, sự sống của con người không chỉ phụ thuộc vào
những điều kiện xã hội, mà còn gắn bó chặt chẽ với những điều kiện của môi
trường tự nhiên. Vì vậy, để duy trì và phát triển sự sống của chính mình, con
người không thể không thực thi các biện pháp giữ gìn và bảo vệ môi trường.
Ngày nay hơn lúc nào hết, sự phát triển của xã hội chỉ được coi là sự phát triển,
sự tiến bộ đích thực khi có sự kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu
sinh thái.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của thương mại
luôn đi liền với những thách thức về môi trường. Trong những năm qua, Việt
Nam đã hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, đạt được những thành
tựu to lớn về thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế và sự phát triển thương mại lại nảy sinh những thách thức không nhỏ về môi
trường. Việc nhập khẩu thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, hàng hóa kém chất lượng,
không đảm bảo các quy chuẩn môi trường tạo nên nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường rất lớn. Việc nhập khẩu hàng hóa, vật tư nếu không được kiểm tra, giám
sát sẽ dẫn đến nguy cơ nước ta trở thành bãi chứa các thiết bị, công nghệ lạc
hậu, nơi tiêu thụ những hàng hóa kém chất lượng làm ảnh hưởng đến sức khỏe

của người tiêu dùng, dẫn đến sự suy thoái môi trường, phá vỡ cân bằng sinh
thái.


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
14
häc LuËt Hµ Néi
Hội nhập kinh tế, thương mại làm gia tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường
từ bên ngoài hay ô nhiễm môi trường xuyên quốc gia. Vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam là làm thế nào để ngăn ngừa và quản lý tốt việc nhập khẩu những sản
phẩm, hàng hóa có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trong quá trình nước ta mở
cửa thị trường, nới lỏng các quy chế quản lý xuất nhập khẩu. Chính sách thương
mại phải được xây dựng sao cho vừa phù hợp với pháp luật quốc tế vừa bảo vệ
và giải quyết được các vấn đề môi trường hiện nay của Việt Nam. Trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, cần phải cân nhắc, tính toán tới vấn đề môi
trường tương xứng với vị trí và vai trò của nó, cần nhận thức một cách sâu sắc
và đúng đắn bản chất, vai trò của môi trường đối với sự phát triển nói chung.
Thiếu quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đến các vấn đề môi trường thì
chúng ta sẽ phải trả giá, phải chịu sự “trả thù” ghê gớm của môi trường.
Qua các phân tích trên có thể thấy, môi trường đóng vai trò hết sức quan
trọng trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế không
những tác động trực tiếp đến môi trường mà còn có thể gây ra những tác động
gián tiếp thông qua việc nảy sinh các hiện tượng xã hội không thân thiện với
môi trường. Chính vì vậy, công tác bảo vệ môi trường không những được thực
hiện song song với các hoạt động kinh tế - xã hội mà được đặt ra ngay từ giai
đoạn đầu, giai đoạn hoạch định các chính sách phát triển.
Điều đó được thể hiện trước hết trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết
Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi

trường”. Theo tinh thần đó, Nghị quyết số 41/NQ-TW của Bộ chính trị đã khẳng
định quan điểm chỉ đạo xuyên suốt về bảo vệ môi trường, theo đó, bảo vệ môi
trường phải được gắn kết chặt chẽ, hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm
công bằng xã hội.
Trong xã hội, nhận thức về bảo vệ môi trường cũng ngày càng được nâng
cao. Đặc biệt là trong bối cảnh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu và thực
tế trong nước cho thấy không thể không bảo vệ môi trường, nếu muốn được
sống trong một môi trường trong lành và có được sự phát triển bền vững.


Khãa luËn tèt nghiÖp
häc LuËt Hµ Néi

15

§¹i

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
2.1. Vai trò của pháp luật bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu
hàng hóa


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
16
häc LuËt Hµ Néi
Thực tế đã chứng minh, con người có thể vì lợi ích trước mắt về kinh tế
mà bỏ qua những lợi ích về môi trường. Họ có thể nhận thức được mối nguy

hiểm cho môi trường trong khi cố gắng để đạt được lợi nhuận tối đa nhưng họ
vẫn bỏ qua lợi ích môi trường. Trong khi đó, tình trạng xấu đi của môi trường sẽ
tác động không nhỏ tới lợi ích của chính họ và của các chủ thể khác. Pháp luật
môi trường ra đời nhằm bảo đảm hài hòa giữa các lợi ích khi bảo vệ môi trường
được coi là một vấn đề tất yếu khách quan. Vai trò của pháp luật bảo vệ môi
trường trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa được thể hiện ở một vài khía cạnh
sau:
- Pháp luật môi trường đã thể chế hóa đường lối, chính sách của Nhà nước
về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Thông qua việc xây dựng các quy
định phù hợp với nguyện vọng, ý chí của nhân dân trong việc bảo vệ môi
trường, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật về môi trường để ngăn
chặn, hạn chế hoặc loại trừ các yếu tố có khả năng gây ô nhiễm môi trường
trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa, đảm bảo quyền được sống trong môi
trường trong lành của người dân.
- Pháp luật môi trường góp phần đảm bảo lợi ích kinh tế cho các chủ thể
thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Khi nhu cầu về nguyên, nhiên liệu,
hàng hóa, thiết bị, dây chuyền công nghệ để phục vụ cho sản xuất cũng như để
đáp ứng nhu cầu của người dân tăng cao, hàng hóa trong nước không đáp ứng
được thì phải thông qua hoạt động nhập khẩu. Với việc thỏa mãn các điều kiện
của pháp luật, trong đó có pháp luật môi trường, các chủ thể đó sẽ được phép
thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Như vậy, pháp luật môi trường đảm
bảo lợi ích kinh tế cho các chủ thể nhập khẩu, tạo cơ hội tăng trưởng kinh tế,
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
- Pháp luật môi trường góp phần bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Nhờ hoạt động nhập khẩu, chúng ta có điều kiện nhập khẩu những nguồn
nguyên liệu với giá rẻ hơn những nguồn nguyên liệu được khai thác từ nguồn tài
nguyên thiên nhiên trong nước. Qua đó, các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể


Khãa luËn tèt nghiÖp

§¹i
17
häc LuËt Hµ Néi
được bảo vệ trước sức ép của nhu cầu khai thác làm nguyên liệu để phục vụ cho
sản xuất.
- Pháp luật bảo vệ môi trường giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho các
chủ thể thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa cũng như cho người tiêu dùng.
Bằng việc quy định các điều kiện đối với chủ thể nhập khẩu hàng hóa, điều kiện
về môi trường đối với hàng hóa được phép nhập khẩu, các biện pháp xử lý khi
có hành vi vi phạm pháp luật môi trường…, pháp luật môi trường đã tạo cơ sở
pháp lý cho các chủ thể điều chỉnh hành vi cho phù hợp, tránh những hành vi
gây ô nhiễm môi trường trong quá trình thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng
hóa.
- Pháp luật môi trường là phương tiện để đảm bảo phát triển bền vững. Sự
kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu môi trường đã trở thành một nguyên
tắc cơ bản của phát triển lâu bền. Hoạt động nhập khẩu hàng hóa tạo ra những
lợi ích về kinh tế, góp phần vào quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của đất nước. Đồng thời hoạt động này cũng có những tác động tới môi
trường sinh thái. Pháp luật môi trường đã gắn kết mục tiêu kinh tế với mục tiêu
môi trường, tăng cường chất lượng môi trường sống.
2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật môi trường về nhập khẩu hàng
hóa và việc thực hiện các quy định này trên thực tế
2.2.1. Những loại hàng hóa được phép nhập khẩu theo quy định của pháp
luật
Tất cả những hàng hóa không thuộc danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu
do pháp luật quy định đều được phép nhập khẩu. Bên cạnh đó, tại Khoản 2 Điều
1 Nghị định số 12/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật
Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế và các hoạt động đại lý
mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài thì: “Hàng hóa là tài
sản di chuyển, hàng hóa phục vụ nhu cầu của cá nhân có thân phận ngoại giao

và hành lý cá nhân theo quy định của pháp luật, thực hiện theo quy định riêng
của Thủ tướng Chính phủ”. Như vậy, hàng hóa trong hoạt động nhập khẩu được
đề cập trong phạm vi đề tài này là những loại hàng hóa không thuộc Khoản 2


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
18
häc LuËt Hµ Néi
Điều 1 Nghị định số 12/2006/NĐ-CP và không thuộc danh mục hàng hóa cấm
nhập khẩu.
Khoản 2 Điều 42 Luật BVMT 2005 quy định:
2. Cấm nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện, nguyên liệu, nhiên liệu,
hóa chất, hàng hóa sau đây:
a. Máy móc, thiết bị, phương tiện không đạt tiêu chuẩn môi trường;
b. Máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải đã qua sử dụng để
phá dỡ;
c. Nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hóa chất thuộc danh mục hàng hóa
cấm nhập khẩu;
d. Máy móc, thiết bị, phương tiện bị nhiễm chất phóng xạ, vi trùng gây
bệnh, chất độc khác chưa được tẩy rửa hoặc không có khả năng làm
sạch;
đ. Thực phẩm, thuốc y tế, thuốc bảo vệ động vật, thực vật đã hết hạn sử
dụng hoặc không đạt tiêu chuẩn về chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Các quy định về hàng hóa cấm nhập khẩu còn tiếp tục được quy định tại
Nghị định số 12/2006/NĐ-CP, Pháp lệnh về bảo vệ và kiểm dịch thực vật
2001… Song việc thực hiện các quy định này trên thực tế vẫn chưa nghiêm túc,
nhiều hàng hóa thuộc danh mục cấm nhập khẩu vẫn được nhập khẩu vào Việt
Nam dưới nhiều hình thức.

Tình trạng nhập khẩu máy móc cũ, công nghệ lạc hậu diễn ra khá phổ
biến với những thủ đoạn tinh vi, như “tạm nhập, tái xuất” qua cảng biển, khi bị
phát hiện thì khai là “gửi nhầm hàng” và xin được chuyển trả lại…
Một loại hàng hóa thuộc diện cấm nhập khẩu là các thiết bị thông tin đã
qua sử dụng. Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm gần đây, lượng máy tính đã
qua sử dụng được nhập khẩu ngày càng tăng dần. Bên cạnh tác động tích cực là
tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên và những người có thu nhập thấp tiếp cận
với công nghệ thông tin, thu hẹp khoảng cách số; đồng thời là nguồn cung cấp
linh kiện thay thế quan trọng khi các nhà sản xuất chỉ quan tâm đến các sản


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
19
häc LuËt Hµ Néi
phẩm công nghệ mới thì rất cần chú ý đến tác hại của rác thải điện tử. Việc nhập
khẩu tràn lan máy tính cũ đã qua sử dụng ẩn chứa nhiều hiểm họa khó lường.
Cấu trúc bên trong máy tính có chứa nhiều kim loại nặng như chì, cadmium,
thủy ngân… là những kim loại rất nguy hiểm đối với sức khỏe con người. Chính
vì vậy, Nghị định số 12/2006/NĐ-CP đã đưa hàng hóa là sản phẩm công nghệ
thông tin đã qua sử dụng vào danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu.
Nhưng những số liệu từ các nhà sản xuất máy tính Việt Nam cho thấy
đang có những đợt nhập khẩu khá ồ ạt các thiết bị này. Theo ước tính, mỗi tháng
có thể có từ 40-60 container các loại màn hình và máy tính đã qua sử dụng đủ
các nhãn hiệu được nhập vào và bán trên thị trường. Hiện nay, Việt Nam có
khoảng 1.216 công ty trong nước và 187 công ty có vốn nước ngoài sản xuất
phần cứng. Các công ty trong nước chiếm 75% thị trường máy tính cả nước,
80% kim ngạch nhập khẩu linh kiện máy tính theo đường chính ngạch. Tuy
nhiên, số lượng thiết bị công nghệ thông tin đã qua sử dụng được nhập về hằng
năm là không thể thống kê được nhưng chắc chắn là một con số lớn [41].

Các thiết bị công nghệ thông tin nhập về Việt Nam thường là công nghệ
quá cũ, đã qua sử dụng từ một đến vài năm được thu hồi từ các công sở, trường
học, thậm chí cả bãi rác hoặc cũng có thể là những hàng bị lỗi trong quá trình
sản xuất đáng lẽ phải hủy bỏ. Việc nhập khẩu những thiết bị này gây ảnh hưởng
xấu tới môi trường cũng như sức khỏe con người. Song, các doanh nghiệp nhập
khẩu đặt lợi nhuận lên trên hết. Mục tiêu cao nhất của các doanh nghiệp là lợi
nhuận nên để có lợi nhuận, họ đã bằng mọi cách nhập vào trong nước cả những
hàng hóa mà họ biết chắc là bị cấm. Khi hàng đã được nhập về, những bộ linh
kiện còn dùng được sẽ được chọn để bán, số còn lại bị quẳng ra bãi rác. Cứ như
vậy, trong một thời gian dài, nước ta có cả “núi” rác thải công nghiệp.
Một hoạt động cũng gây rất nhiều tranh cãi trong thời gian qua và còn
nhiều vi phạm trong quá trình thực hiện luật là hoạt động nhập khẩu tàu cũ để
phá dỡ. Xét về góc độ kinh tế và về mặt xã hội, hoạt động nhập khẩu, phá dỡ tàu
cũ thời gian qua đã tạo việc làm và thu nhập thường xuyên cho hàng ngàn lao
động, góp phần tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, tăng doanh thu đáng kể cho


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
20
häc LuËt Hµ Néi
doanh nghiệp; góp phần giảm áp lực nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành sản
xuất thép trong nước; tạo ra nguồn linh kiện quan trọng để hình thành mạng lưới
các cơ sở dịch vụ sửa chữa tàu thủy, làm tiền đề cho sự phát triển các cơ sở công
nghiệp sửa chữa và đóng mới tàu thủy. Bên cạnh đó, hoạt động nhập khẩu tàu cũ
để phá dỡ thời gian qua đã tạo không ít khó khăn cho công tác bảo vệ môi
trường, nguy cơ ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước bởi dầu mỡ, kim loại
nặng tại các khu vực phá dỡ ngày càng trầm trọng. Như vậy, công nghiệp phá dỡ
tàu cũ có thể mang lại lợi nhuận cho một số doanh nghiệp và cung cấp một phần
nguyên liệu cho ngành công nghiệp thép; tuy nhiên trong quá trình phá dỡ tàu sẽ

làm phát sinh rất nhiều chất thải nguy hại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường và sức khỏe con người.
Theo Công ước Basel, việc nhập khẩu các loại tàu cũ để phá dỡ thực chất
là một hình thức nhập chất thải vào nước nhập khẩu. Hơn nữa, chất thải ở đây là
“chất thải kim loại độc hại”. Chính vì vậy, ngay từ 1/1/1998, Công ước Basel đã
cấm xuất khẩu từ các nước EU đến các nước không thuộc Tổ chức hợp tác phát
triển kinh tế (OECD) những loại tàu để phá dỡ trong đó có chứa amiăng, asen,
PCBs, kim loại nặng và sơn có chứa TBT. Ở các nước công nghiệp phát triển
cũng có rất nhiều quy định, hướng dẫn cụ thể và nghiêm ngặt đối với hoạt động
nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ. Chẳng hạn như ở Đức, khi tàu nhập vào để phá dỡ
phải tuân thủ nghiêm ngặt Luật về kiểm soát khí thải, Luật về đánh giá tác động
môi trường. Các nước trong khu vực châu Á là thành viên của Công ước Basel
đều có các yêu cầu trong các quy định luật pháp của mình về việc phải tuân thủ
nghiêm ngặt các điều khoản của Công ước. Tuy nhiên có một thực tế là trong
khu vực này, hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường cũng như các văn bản pháp
quy liên quan đến việc quản lý các chất thải nguy hại nói chung và công nghiệp
phá dỡ tàu nói riêng còn chưa hoàn chỉnh, có nhiều lỗ hổng, do đó đã bị các nhà
đầu tư nước ngoài lợi dụng, nhập khẩu các loại tàu có chứa các chất độc hại vào
các nước trong khu vực để phá dỡ [12].


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
21
häc LuËt Hµ Néi
Là thành viên của Công ước Basel đồng thời nhận thức được hiểm họa ô
nhiễm môi trường do hoạt động phá dỡ tàu, Việt Nam cũng có những quy định
về vấn đề này trong pháp luật môi trường.
Năm 2002, Bộ Khoa học – Công nghệ và Môi trường đã có công văn số
1122/BKHCNMT-MTg ngày 3/5/2002 gửi Thủ tướng Chính phủ báo cáo cụ thể

về tình hình nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ, kiến nghị không nên cho phép nhập
khẩu tàu cũ để phá dỡ mà chỉ phá dỡ tàu cũ ở trong nước. Thủ tướng Chính phủ
đã chỉ đạo đình chỉ hoạt động gia công phá dỡ tàu cũ cho nước ngoài hoặc nhập
tàu cũ để phá dỡ lấy thép phế liệu tái xuất thông qua Công văn số 3880/VPCPKG ngày 15/7/2002 của Văn phòng Chính phủ. Vậy mà bằng hình thức này hay
hình thức khác, doanh nghiệp vẫn cứ tiếp tục nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường và sức khỏe con người.
Đến khi ban hành Luật BVMT 2005, tại điểm b, Khoản 2 Điều 42 cũng
quy định cấm nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải đã
qua sử dụng để phá dỡ. Như vậy, một lần nữa, hoạt động nhập khẩu tàu cũ để
phá dỡ lại bị cấm thực hiện theo quy định của pháp luật môi trường.
Tuy nhiên, theo quy định của Luật Thương mại 2005 và Nghị định số
59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 quy định chung về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh
doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có
điều kiện thì hoạt động nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ không bị cấm trên lãnh thổ
Việt Nam nhưng phải tuân thủ các quy định về nhập khẩu hàng hóa. Theo đó, tại
Nghị định số 12/2006/NĐ-CP quy định về danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu,
cấm nhập khẩu thì tàu cũ không thuộc danh mục này. Tuy nhiên, tại Khoản 2
Điều 23 Nghị định số 49/2006/NĐ-CP ngày 18/5/2006 về đăng ký và mua, bán
tàu biển lại có quy định về điều kiện nhập khẩu tàu biển để phá dỡ. Như vậy,
theo các quy định này thì hoạt động nhập khẩu tàu biển để phá dỡ không bị pháp
luật thương mại cấm.
Từ những phân tích trên có thể thấy về cùng một vấn đề nhập khẩu tàu cũ
để phá dỡ đã có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa pháp luật thương mại và pháp
luật môi trường. Chính điều này đã gây nên sự tranh cãi giữa các doanh nghiệp


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
22
häc LuËt Hµ Néi

thực hiện hoạt động này. Vậy, họ sẽ phải thực hiện theo quy định nào và hoạt
động nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ có bị cấm hay không?
Như đã biết, thương mại và môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Mục đích bảo vệ môi trường cũng là một trong những căn cứ để Nhà nước cấm
thực hiện hành vi nhập khẩu một số loại hàng hóa nhất định thông qua các quy
định của pháp luật thương mại. Do đó, các tổ chức, cá nhân khi thực hiện hoạt
động nhập khẩu hàng hóa, bên cạnh việc phải thực hiện các quy định của pháp
luật thương mại còn đồng thời phải thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường
theo Luật BVMT 2005. Khi không tuân thủ các quy định của Luật BVMT thì
các cá nhân, tổ chức không được phép thực hiện hoạt động đó.
Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006, trong khi
đó, Luật BVMT 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006. Đồng thời, Luật
BVMT 2005 cũng có hiệu lực pháp lý cao hơn các văn bản quy định không cấm
nhập khẩu hoặc nhập khẩu có điều kiện tàu cũ để phá dỡ của pháp luật thương
mại (Nghị định số 12/2006/NĐ-CP, Nghị định số 49/2006/NĐ-CP). Theo Điều
80 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1997 thì nếu các văn bản quy
phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản
có hiệu lực pháp lý cao hơn; nếu các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một
vấn đề do cùng một cơ quan ban hành mà có quy định khác nhau thì áp dụng
quy định của văn bản được ban hành sau. Như vậy, kể từ ngày Luật BVMT 2005
có hiệu lực (1/7/2006) thì hoạt động nhập khẩu tàu cũ phải tuân theo các quy
định của luật này. Theo đó, hoạt động nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ bị cấm theo
điểm b, Khoản 2 Điều 42 Luật BVMT 2005 [14]. Ngày 30/10/2006, Bộ
TN&MT có công văn báo cáo Thủ tướng Chính phủ một số vấn đề liên quan đến
nhập khẩu, phá dỡ tàu biển cũ. Ngày 10/11/2006, Thủ tướng Chính phủ ra Công
văn số 1844/TTg-KG đồng ý với các đề xuất của Bộ TN&MT về việc nhập khẩu
tàu cũ để phá dỡ đều phải tuân thủ theo Luật BVMT 2005. Theo Quyết định số
12/2006/QĐ-BTNMT cho phép nhập khẩu vỏ tàu cũ đã tháo gỡ, loại bỏ dầu,
mỡ, cao su, amiăng và các thành phần phi kim loại tại nước xuất khẩu.



Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
23
häc LuËt Hµ Néi
Có thể thấy rằng trên thế giới, ở các khu vực và các quốc gia, các quy
định của pháp luật về bảo vệ môi trường trong việc nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ
đã được ban hành và đang phát huy tác dụng. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều bất cập
trong các quy định này, đặc biệt là tính hệ thống của pháp luật và tính hiệu quả
thực thi của chúng.
Hiện nay trên thế giới đang có xu hướng di chuyển dịch vụ phá dỡ tàu từ
các nước phát triển sang các nước nghèo. Đây chính là hình thức vận chuyển các
chất thải nguy hại trên quy mô toàn cầu, và hậu quả là các nước nghèo sẽ nhận
được ngày càng nhiều chất thải, đặc biệt là chất thải nguy hại. Đây là hành vi vi
phạm Công ước Basel. Một điều đáng lo ngại khác là các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ phá dỡ tàu luôn tìm cách vi phạm các quy định pháp luật của các
quốc gia nhập khẩu tàu để phá dỡ. Chủ tàu, các cơ quan chức năng, doanh
nghiệp phá dỡ tàu và đôi khi cả Chính phủ các nước nhập tàu vì quyền lợi kinh
tế trước mắt mà đã quên đi nguyên tắc vàng trong vấn đề bảo vệ môi trường là:
Tái sử dụng, tái sản xuất, tái chế càng nhiều càng tốt và xử lý, tiêu hủy các chất
thải nguy hại phải trong khả năng môi trường cho phép, đảm bảo an toàn và vệ
sinh môi trường.
Với lợi thế về giao thông đường thủy, phát triển vận tải biển tại Hải Phòng
là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ. Bên cạnh đó, những năm gần đây, ngành công nghiệp đóng mới và sửa
chữa tàu biển của Hải Phòng cũng phát triển nhanh. Trong đó có sự đóng góp
quan trọng của hoạt động nhập khẩu tàu cũ để phá dỡ mà Hải Phòng gần như là
địa phương duy nhất trong cả nước có hoạt động này. Thực hiện ý kiến chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 1844/TTg-KG ngày 10/11/2006 về
Xử lý nhập khẩu tàu biển cũ để phá dỡ, Bộ trưởng Bộ TN&MT đã ban hành

Quyết định số 473/QĐ-BTNMT và Quyết định số 474/QĐ-BTNMT thành lập
đoàn thanh tra, kiểm tra 12 cơ sở phá dỡ tàu cũ tại thành phố Hải Phòng. Nội
dung thanh tra chủ yếu tập trung vào việc tuân thủ các quy định của pháp luật về
bảo vệ môi trường từ việc nhập khẩu, phá dỡ tàu cũ của các cơ sở thực hiện hoạt
động này và công tác quản lý về bảo vệ môi trường đối với hoạt động nhập khẩu


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
24
häc LuËt Hµ Néi
và quá trình phá dỡ, đặc biệt là sau thời điểm Luật BVMT 2005 có hiệu lực
(1/7/2006). Kết quả thanh tra cho thấy, từ vài doanh nghiệp thực hiện hoạt động
này lúc đầu (năm 1994), đến thời điểm gần tháng 7/2006 đã có hàng trăm cơ sở
tham gia hoạt động nhập khẩu và phá dỡ tàu cũ với những tàu lớn hàng ngàn tấn.
Sau thời điểm tháng 7/2006 (Luật BVMT 2005 có hiệu lực), do yêu cầu bảo vệ
môi trường đối với hoạt động phá dỡ tàu cũ, các quy định về bảo vệ môi trường
đối với hoạt động nhập khẩu, phá dỡ tàu cũ ngày càng chặt chẽ, quản lý xuất
nhập khẩu được tăng cường, nhiều doanh nghiệp đã tự chuyển đổi sang ngành
nghề khác.
Sau khi kết thúc thanh tra có thể thấy, công tác quản lý nhập khẩu và phá
dỡ tàu cũ đã được phối hợp và triển khai tương đối đồng bộ giữa các ngành: Hải
quan, Tài nguyên và môi trường, Công an… nên việc kiểm tra, giám sát, tiêu
độc, khử trùng trước khi làm thủ tục thông quan được thực hiện nghiêm túc. Do
quy định của Luật BVMT hết sức chặt chẽ, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát
hoạt động nhập khẩu thân, vỏ tàu cũ để phá dỡ được thực hiện nghiêm túc, quyết
liệt nên các cơ sở không đáp ứng được điều kiện quy định tại Điều 42 và 43 Luật
BVMT 2005 đã tự động dừng hoạt động nhập khẩu thân, vỏ tàu cũ để phá dỡ.
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần giải quyết như: Việc kiểm tra trước khi
thông quan chủ yếu là quan sát, kể cả cơ quan giám định cũng chỉ bằng phương

pháp quan sát phụ thuộc vào chủ quan của người kiểm tra, nên có trường hợp
thân, vỏ tàu cũ được thông quan trong khi máy móc tàu chưa được tháo dỡ và
làm sạch hoàn toàn dầu, mỡ; các thành phần phi kim loại chưa được loại bỏ
trước khi nhập là chưa phù hợp với Quyết định số 12/2006/QĐ-BTNMT ngày
8/9/2006 của Bộ trưởng Bộ TN&MT về việc ban hành danh mục phế liệu được
phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất [10].
Việt Nam là nước sản xuất nông nghiệp với khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm.
Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng nhưng cũng rất thuận
lợi cho sự phát sinh, phát triển của sâu bệnh, cỏ dại gây hại mùa màng. Do vậy,
việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để phòng trừ sâu hại, dịch bệnh, bảo vệ mùa
màng và giữ vững an ninh lương thực vẫn là một biện pháp quan trọng và chủ


Khãa luËn tèt nghiÖp
§¹i
25
häc LuËt Hµ Néi
yếu. Do các loại thuốc bảo vệ thực vật thường là các chất hóa học có độc tính
cao nên mặt trái của thuốc bảo vệ thực vật là rất độc hại với sức khỏe cộng đồng
và là một đối tượng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường sinh thái nếu không
được quản lý chặt chẽ và sử dụng đúng cách. “Thuốc bảo vệ thực vật là hàng
hóa hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Nhà nước thống nhất quản lý
việc sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, bảo quản, dự trữ, vận chuyển, buôn bán và
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo quy định của pháp luật” (Điều 28 Pháp lệnh
bảo vệ và kiểm dịch thực vật 2001).
Hầu hết các loại thuốc bảo vệ thực vật sử dụng trong nông nghiệp ở Việt
Nam đều được nhập từ nước ngoài. Vì vậy, Luật BVMT 2005 (Khoản 2 Điều
43) đã quy định cấm nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật đã hết hạn sử dụng hoặc
không đạt tiêu chuẩn về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Đồng thời, tại
Phụ lục số 03 về Danh mục hàng hóa thuộc diện quản lý chuyên ngành và

nguyên tắc quản lý, ban hành kèm theo Nghị định số 12/2006/NĐ-CP của Chính
phủ thì thuốc bảo vệ thực vật và nguyên liệu sản xuất thuốc bảo vệ thực vật
ngoài danh mục được phép sử dụng tại Việt Nam hay thuộc danh mục hạn chế
sử dụng muốn nhập khẩu vào Việt Nam thì đều phải được Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn cấp giấy phép nhập khẩu, quy định rõ điều kiện, số lượng
và thủ tục cấp giấy phép.
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, trung bình hàng năm, cả nước
sản xuất và nhập khẩu một lượng thuốc bảo vệ thực vật khoảng 36.000 – 40.000
tấn. Ước tính khoảng 30-35% lượng thuốc bảo vệ thực vật được nhập khẩu trái
phép qua đường tiểu ngạch. Hiện tượng nhập lậu các loại thuốc bảo vệ thực vật
(bao gồm cả thuốc cấm, thuốc ngoài danh mục, thuốc hạn chế sử dụng) đang là
vấn đề chưa thể kiểm soát nổi. Một số loại thuốc bảo vệ thực vật được nhập vào
Việt Nam, thuộc danh mục bị cấm như: Linda, Methammidopos,
Monocrotophos… [6]. Tình trạng các thuốc bảo vệ thực vật tồn đọng không sử
dụng, nhập lậu bị thu giữ đang ngày càng tăng lên cả về số lượng và chủng loại.
Điều đáng lo ngại là hầu hết các loại thuốc bảo vệ thực vật tồn đọng này được
lưu giữ trong các kho chứa tồi tàn hoặc bị chôn vùi dưới đất không đúng kỹ


×