Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

KTCT quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.54 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền sản xuất hàng hoá trong quá trình hoạt động và phát triển của nó luân
chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế.Quy luật kinh tế là những mối liên
hệ nhân quả,tất yếu,bản chất ,thường xuyên,lặp đi lặp lại của các quá trình
kinh tế khách quan.Quy luật kinh tế hoạt động ở mỗi phương thưcsanr xuất
hợp thành một hệ thống có tác động chi phối hoạt động của phương thức sản
xuất đó.do đó việc nắm bắt các quy luật kinh tếco ý nghĩa hết sức quan
trọng,nhất là trong điều kiện hiện nay khi đất nước ta đang trong giai đoạn
hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong khuân khổ tiểu luận này tôi tôI xin được phân tích quy luật giá
trị hàng hoá trong nền sản xuất hàng hoá và sự vận dụng quy luật này trong
xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
QLGT là quy luật hoạt động trong các phương thức sản xuất có sản
xuất và lưu thông hàng hoá.QLGT là một quy luật kinh tế nên có biểu hiện
thông qua hoạt động kinh tế của con người,thông qua sự vận động của các
phạm trù kinh tế,các hình thức kinh tế cũng như quá trình kinh tế cụ thể nhất
định.mặt khác cũng mang tính lịch sử nên chỉ xuất hiện ,tồn tại dựa trên
những cơ sở kinh tế xá định.có thể nói QLGT là những kiến thức cơ bản và
kháI quát nhất trong sản xuất kinh doanh.hiểu một cách đầy đủ về
QLGT,chúng ta mới có tri thức để áp dụng chúng vào trong điều kiện thực
tiễn hiện nay.
Vì thời gian cũng như những hiểu biết có hạn trong khuôn khổ đề tài
này tôi không tránh khỏi những hạn chế và thiếu xót.tôi rất mong nhận được
sự chỉ bảo của thầy

1


NỘI DUNG
QLGT VÀ VAI TRÒ CỦA QLGT TRONG NỀN KTHH
1. VỊ TRÍ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ:


.

Trong nền sản xuát hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu ,sản xuất là việc

riêng của từng người ,cho nên ho hoạt động hoàn toàn tự do,không bi một
sức mạnh nào rang buộc.sự thực, mọi hoạt động của họ trong lĩnh vực sản
xuất cũng như trong lĩnh vực lưu thông,đều bị QLGT,quy luật của sản xuất
và trao đổi hàng hoá chi phối.
Trong nền kinh tế hàng hoá ,hàng hoá và dịch vụ do các doanh
nghiệp ,những người sản xuất hàng hoá tư nhân,riêng lẻ xuất ra.những chủ
thể sản xuất hàng hoá cạnh tranh với nhau. Mỗi người đều tự mình sản xuất
độc lập không phụ thuộc vào người khác,vừa lo cạnh tranh giữ vững và mở
rộng địa vị của mình trên thị trường. Tuy nhiên trên thị trường, những người
sản xuất hàng hoá là bình đẳng với nhau. Sản xuất hàng hoá càng phát triển
thì quyền lực của thị trường đối với người sản xuất càng mạnh. Quyền lực
này tồn tại khách quan, độc lập và chi phối họ. Lực lượng khách quan đó
chính là những quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá mà trước hết đó chính
là QLGT.
QLGT quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phảI tién hành
trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay hao phí lao động xã hội cần thiết. điều
đó có nghĩa là : giá trị hàng hoá do lao động trừu tượng của người sản xuất
hàng hoá tạo nên và lươnmgj giá trị của hàng hoá cá biệt phảI phù hợp với
lượng lao động xã hội tất yếu đẻ làm ra loại hàng hoá đó. Nói cách khác :
hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá phảI phù hợp với hao
phí lao động xã hội cần thiết, lực lượng lao động dành cho một nghành sản
xuất nào đó phảI phù hợp với nhu cầu xã hội. Người sản xuất muốn làm ăn
2


có lãI thì ắt hẳn phảI sản xuất ra hàng hoá có hao phí lao động cá biệt nhỏ

hơn hao phí lao động xã hội cần thiết. Nừu không ,hàng hoá của người đó sẽ
không được đại bộ phận người tiêu dùng chấp nhận
Bên cạnh đó , trao đổi phảI được tiến hành theo nguyên tắc ngang
giá. đó là yêu cầu của QLGT. QLGT buộc mọi người sản xuất và trao đổi
hàng hoá phảI tuân theo mệnh lệnh của giá cả trên thị trường. chỉ co thông
qua sự vận động lên xuống của giá cả thị trường mới thấy được sự hoạt động
của QLGT. vỉ giá trị là cơ sở của giá cả ,nên trước hết giá cả phụ thuộc vào
giá trị. Hàng hopá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. trên
thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố như : cạnh
tranh cung, cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm
cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay
quanh trục giá trị của nó.sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay
quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của QLGT. Thông qua sự
vận động của giá cả thị trường mà QLGT phát huy tác dụng. Giá cả thị
trươpngf lên xuống một cách tự phát , xoay chung quanh giá trị , là sản
phảm của nền kinh tế tự do cạnh tranh, biểu hiện sự tác động của QLGT
trong điều kiện sản xuất và trao đổi hang hoá tư nhân.
2. YÊU CẦU CỦA QLGT :
Trong nền sản xuất hang hoá giản đơn: hàng hoá được làm ra phục vụ nhu
cầu cá nhân. vì vậy lưu thông và buôn bán không phải là mục đích của người
sản xuất.sản phẩm làm ra, được đem ra trao đổi cũng chỉ để thoả mãn nhu
cầu cá nhân, không phải nhu cầu của xã hội
VD : 1kg thịt cừu đổi lấy 5kg lúa mạch.
Đó là những sản phẩm cá nhân. ở đây người ta quan tâm đến giá trị
sử dụng của hàng hoá .”mỗi người sở hữu trao đổi hàng hoá để thoả mãn
nhu cầu ca nhân . Anh ta muốn đổi hàng hoá của mình lấy một háng hoá
3


khác hợp với sở thích mà không cần quan tâm xem hàng hoá của mình đối

với người sở hữu hàng hoá kia có một giá trị có ích gì hay không”.(C.Mac)
Trong lền sản xuất hàng hoá TBCN: hàng hoáđược làm ra để phục
vụ cho nhu cầu xã hội . sản phẩm sản xuất ra không đơn thuần để trao đổi
mà để buôn bán và lưu thông .Mục đích của lền sản xuất là phục vụ nhu cầu
xã hội . với người sở hữu hàng hóa ,bất cứ hàng hoá nào cũng là vật ngang
giá chung cho tất cả mọi hàng hoá khác . Nhưng vì tất cả mọi người đều ở
trong trường hợp như vậy cho lên không có một hàng hoá nào la vật ngang
giá chung cả .Giá trị tương đối của hàng hoá không có một hình thức chung
nào làm cho hàng hoá có thể coi là số lượng giá trị đươc đem so sánh với
nhau . hàng hoá được đem là vật ngang giá chung là kết quả của hành vi xã
hội.một hàng hoá đặc biẹt đã được tách riêng ra và được dung để cho các
hàng hoá khác biểu hiện giá trị của mình ,hàng hoá đó là tiền tệ. Giá trị hàng
hoá được biểu hiện ra bằng tiền được gọi là giá cả hàng hoá . trong nền kinh
tế XHCN,tiền tệ cũng được dùng làm tiêu chuẩn giá cả.ở Viêt Nam tiêu
chuẩn giá cả là “Đồng” (VNĐ)
Trong nền sản xuất hàng hoá XHCN : hang hoá đều có giá trị , số
lượng lao động xã hội cần thiết quyết định lượng giá trị đó.chỉ trong giai
đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản ,sản xuất hàng hoá ,QLGT và tiền tệ mới
tiêu vong.
Về các hình thức chuyển hoá của QLGT thì co thể chia làm 2
loại, theo thời gian. Thứ nhất là trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh :
QLGT chuyển hoá thành quy luật giá cả sản xuất . thứ hai là trong giai đoạn
CNTB độc quyền : QLGT chuyển hoá thành quy luật giá cả độc quyền cao.

4


3. NHỮNG TÁC DỤNG CỦA QLGT :
- QLGT điều tiết sản phẩm và lưu thông hàng hoá
Điều tiết sản phẩm hàng hoátức là điều hoà , phân bổ các yếu

tố xuất giữa các nghành,các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng này của
QLGT thông qua sự biến động của quy luật cung cầu . nếu ở ngành nào đó
cung nhỏ hơn cầu ,giá cả hàng hoá sẽ nên cao hơn giá trị , hàng hoá bán
chạy, lãi cao ,thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó tư liệu sản
xuất và sức lao động được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. ngược lại khi
cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ giảm xuống , hàng hoá bán không chạy
và có thể lỗ vốn.tình hình ấy buộc người sản xuất phải thu hẹp quy mô sản
xuất lại hoặc chuyển sang đầu tư vào ngành có giá cả hàng hoá cao hơn. còn
trường hợp cung và cầu trên thị trường cân bằng nhau, tức là giá cả bằng với
giá trị, sản xuất vừa khít với nhu cầu của xã hội, thì hết sức hiếm và ngẫu
nhiên .
Như vậy là theo mệnh lệnh của giá cả thị trường lúc lên, lúc xuống
quanh giá trị mà có sự di chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động từ ngành
này sang ngành khác , do đó quy mô sản xuất của ngành đó mở rộng. Việc
điều tiêt tư liệu sản xuất và sức lao động trong từng lúc có xu hướng phù
hợp với yêu cầu của xã hội, tạo nên những tỷ lệ cân đối nhất định giữa các
ngành sản xuất. đó là biểu hiện vai trò điều tiết của QLGT. Nhưng sản xuất
trong điều kiện chế độ tư hữu, cạnh tranh tự do vô chính phủ sẽ dãn đến
những tỉ lệ cân đối hình thành một cách tự phát đó chỉ là hiện tượng tạm
thời và thường xuyên bị phá vỡ, gây ra những lãng phí to lớn về của cải xã
hội.
QLGT không chỉ điều tiết sản xuất hàng hoá mà còn điều tiết cả
lưu thông hàng hoá . giá cả hàng hoá hình thành một cách tự phát thoe quan
hệ cung cầu. Cung và cầu có ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá, nhưng giá cả
5


cũng có tác dụng khơi thêm luồng hàng, thu hút những luồng hàng từ nơI giá
thấp đến nơi giá cao, làm cho lưu thông hàng hoá thông suất. Vì thế lưu
thông hàng hoá cũng do QLGT điều tiết thông qua sự lên xuống của giá cả

xoay quanh giá trị .
Như vậy sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ
sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.
- QLGT kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,
tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất hàng hoá là một chủ
thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác
nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí xã hội
của hàng hoá thì ở thế có lợi, sẽ thu được lãi cao. Ngươi sản xuất nào có
hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế
bất lợi, lỗ vốn. để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá
sản, họ phai hạ thấp hao phí lao dộng cá biệt của mình, sao cho bằng hao phí
lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy họ phải luân tìm cách cải tiến kỹ thuật,
cảI tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao
động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ
hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy
phát triển mạnh mẽ. Như vậy QLGT đã thúc đẩy sản xuất phát triển.
- QLGT thực hiện sự lựa chọ tự nhiên và phân hoá người
sản xuất hàng hoá thành kẻ giàu người nghèo.
Trên thị trường các hàng hoá có giá trị cá bịêt khác nhau đều phải
trao đổi theo giá trị xã hội. Cạnh tranh là quan hệ kinh tế giữa những người
cùng sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm . cạnh tranh vừa là môi trường
vừa là dộng lực của sự phát triển. Do đó trong quá trìng sản xuất và trao đổi
6


hàng hoá không tránh khỏi tình trạng một số người sản xuất phát tài, làm
giàu, còn một số người khác bị phá sản. những người có điều kiện sản xuất
thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao , trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao

động cá biệt thấp hơn hao phi lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu
lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi
hoặc gặp ruỉ ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn tới phá sản trở thành
nghèo khó.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn sự tác động của QLGT dẫn
đến kết quả là một số ít người mở rộng dần kinh doanh, thuê nhân công và
trở thành nhà tư bản, còn một số lớn người khác bị phá sản dần, trở thành
những người lao động làm thuê.thế là sự hoạt động của QLGT dẫn tới sự
phân hoá những người sản xuất hàng hoá, làm cho quan hệ sản xuất Tư Bản
Chủ Nghĩa phát sinh. Lê –Nin nói : “ …nền tiểu sản xuất thì từng ngày, từng
giờ, luôn luôn đẻ ra chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, một cách tự phát và
trên quy mô rộng lớn”.
Trong nền sản xuất hàng hoá tu bản chủ nghĩa, QLGT cũng tác
động hoàn toàn tự phát “sau lưng’’ những người sản xuất, hoàn toàn ngoài ý
muốn của nhà tư bản. chỉ trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị, con người mới có thể nhận
thức và vận dụng QLGT một cách có ý thức để phục vụ lợi ích của mình.
Tóm lại, QLGT một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên,đào thải
các yếu tố kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển, măt khác nó phân
hoá xã hội thành kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG XÂY DỰNG KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM .
7


1. thực trạng việc vận dụng QLGT và vai trò của QLGT trong nèn kinh
tế ở nước ta trong thời gian qua.
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh

tế của Việt Nam được xã định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội
chủ nghĩa.
-Thời gian trước đổi mới :
Trong thời kỳ trước đổi mới , chunbgs ta đã có cách hiểu không
đúng về việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng,bình đẳng xã hội,do đó việc vận dụng QLGT cũng có những thiếu sót.
Trước năm 1986nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế
tập trung bao cấp. Nhà nước nhận thức, tính toán và lợi dụng tác dụng của
QLGT trong thực tiễn lãnh đạo nền kinh tế một cách có kế hoạch (kế hoạch
hoá mang tính chất mệnh lệnh). điều này là rất cứng nhắc và mang nhiều yếu
tố chủ quan,vô hình chung đã phủ nhận tính khách quan của QLGT.
Cụ thể : trước đổi mới ở nước ta thực hiện cơ chế hai giá :
giá cả theo kế hoạch và giá cả trên thi trường tự do. Giá cả theo kế hoạch
thấp hơn rất nhiều so với giá cả trên thị trường tự do. Nói chung giá cả đó
gần như không có quan hệ gì với giá trị hàng hoá,cũng như không tương
quan đến cung,cầu hàng hoá,nên mọi sự tính toán hiệu quả đều sai lệch. Bao
cấp qua giá là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt lớn của
ngân sách, do đó dẫn đến lạm phát.
Việc phân phối lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành kinh
tế quốc dân không phảI tiến hành dựa trên sự lên xuống của giá cả thị trường
chung quanh giá cả sản xuất. Trong thời kỳ này chúng ta đã có cách hiểu
8


không đúng về công bằng và bình đẳng xã hội, đồng nhất công bằng với
biùnh đẳng, dẫn đến chính sách bình quân trong phân phối. chính sự bất
công đó tăng dần lên đến mức làm cho người lao động thờ ơ với sở hữu xã
hội, không quan tâm đến kết quả lao động.
Và hậu quả là đã làm triệt tiêu những nhân tố tích cực, năng

động của xã hội. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, nghèo đói.
- Thời gian sau đổi mới :
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta không ngoài mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế
và thực hiện công bằng xã hội. đảng ta luôn luôn khẳng định mục tiêu :
“tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dan chủ văn minh, vững
bước đI lên xã hội chủ nghĩa”.và QLGT đã được nhà nước vận dụng vào kế
hoạch hoá mang tính định hướng. Nhà nước phảI tính toán, vận dụng QLGT
vào việc xây dựng kế hoạch dựa trên tình hình định hướng giá cả thị
trường.do giá cả hàng hoá là hình thức biểu hiện riêng của giá trị nhưng hệ
thống giá cả trong nền kinh tế hàng hoá còn chịu sự tác động của các quy
luật khác như quy luật cung – cầu , quy luật cạnh tranh…
Nhà nước sử dụng hệ thống giá cả để quy định tỷ lệ phân phối vốn
cho các ngành, việc phân phối đó căn cứ vào nhu cầu phát triển có kế hoạch
của nền kinh tế quốc dân.
Các chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ phảI tính đến giá trị
và tương quan giữa cung – cầu . trong phân phối : lấy phân phối theo lao
động làm cơ sở . hình thức tiền tệ của tiền lương là phương tiện để kiểm tra
mức độ lao độngvà mức độ trr công trong xã hội.
2. KẾT QUẢ VÀ VAI TRÒ
- Tình hình kinh tế nước nhà thời gian qua
9


Tình hình kinh tế nước ta thời gian qua đã có nhiều chuyển
biến đáng mừng cụ thể:
+ về tăng trưởng kinh tế :
Sau 5 năm thợc hiện đổi mới kinh tế chủ yếu nhờ các biện pháp giảI
phóng sức lao động trong nước và mở cửa nền kinh tế , tận dụng nguồn lực

bên ngoài,từ năm 1991 đến nay nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng với
tốc độ khá cao, trung bình 7,67% hàng năm từ 1991 -1999 và đạt xấp xỉ
7,0% giai đoạn 2000 – 2002, mức kỷ lục là 9,45% năm 1995. từ năm 1998,
tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm do nhiều nguyên nhân trong đó chủ
yếu là yếu kém về cơ cấu và thể chế như tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính châu á (nổ ra đầu tiên ơ Thai Lan năm 1997).
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm
đâu 1990, Viêt Nam đã khá thành công trong viẹc kiềm chế và kiểm soát làm
phát. chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI)giảm từ 67,5% năm 1991 xuống còn
0,1% năm 1999 . từ năm 1996, lạm phát dao động ở mức một con số góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế đã có chuyển biến tích cực theo
hướng giảm tỷ trọng của khu vực nông – lâm – ngư nghiệp trong GDP vẫn
còn chiếm 24,3% trong khi đóng góp của khu vực công nghiệp – xây dựng là
36,6% và của khu vực dịch vụ là 39.1% từ mức 23,5% và 36% tương ứng
của năm 1991.
Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế cũng có những chuyển dịch
đáng lưu ý là : sau thời kỳ suy giảm kinh tế từ năm 1986 đến 1991 tỷ trọng
của khu vực kinh tế nhà nước tăng nhanh từ 29,25% năm 1991 lên 39,2%
năm 1993 sau đó giữ ổn định khoảng trên 40% từ 1994 – 1999, trong khi đó
tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước GDP liên tục
giảm từ 70,75% năm 1991 xuống còn 49,4%năm 1999. tiềm năng của khu
10


vực kinh tế tư nhân vãn còn lớn và chưa được khai thác cao cho tăng trưởng
kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân tập trung chủ yếu ở sản xuất nông-lâm- ngư
nghiệp, sản xuất công nghiệp và cung cấp dịch vụ với quy mô nhỏ và rất
nhỏ. Từ năm 1994 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có vai trò ngày càng
tăng trong phát triển kinh tế VIỆT NAM . mặc dù từ năm 1998 đầu tư trực

tiếp nước ngoài vào Việt Nam giảm mạnh ,tỉ trọng của khu vực này GDP
vẫn tăng chiếm 9,82% năm 1998 và 10,4% năm 1999
Việt Nam dã trảI qua thập kỉ 90 của thế kỉ xx vói những
thành tựu khá ấn tượng về phát triển kinh tế , đồng thời xuất hiện những vấn
đề mới đe doạ tới sự phát triển bền vững . tăng trưởng kinh tế với tốc độ
tương đối cao và giá cả ổn định là những tiền đề thuận lợi cho công cuộc đổi
mới trọng giai đoạn tới cũng như cho việc giảI quyết các vấn đề xã hội nổi
cộm như việc làm thất nghiệp ngèo đói
+ về vấn đề đầu tư và tiết kiệm:
Tổng vốn đàu tư toàn xã hội, giai đoạn 1990-2000đạt
khoảng 682,880 tỷ đồng, tăng liên tục từ 6,747 tỷ đồng năm 1990 lên68,018
tỷ đồng năm 1995 và 120,600 tỷ năm 2000 (giá hiện hành) . Tổng đầu tư xã
hội so vói GDP cũng tăng nhanh, từ 15,1% năm 1991 lên 28,3% năm 1997là mức cao nhất trong cả giai đoạn . Từ năm 1998, khi khủng hoảng tài chính
châu á nổ ra , tỷ lệ này có xu hướng giảm chỉ còn 26,3% năm 1999, là một
trong nhưng nguyên nhân chính làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu
hiệu tăng trở lại với mức 4,8% của năm 1999, nhưng tổng đầu tư xã hội ước
tính chỉ đạt khoảng27,2% so với GDP.
Trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn của tư nhân và vốn đầu tư
nước ngoài ngày cangy chiếm tỷ trọng lớn. Vốn đầu tư của tư nhân trong
nướckhông những ở mức thấp mà còn tăng chậm, kết hợp với su hướng

11


giảm của FDI đã ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng kinh tế, từ đó gây sức ép
đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Tiết kiệm trong nước trên GDP tăng từ 2,9% năm 1990
lên 18,2% năm 1995, năm 1996 có giảm nhẹ và từ 1997 trở đI liên tục tăng .
Trong cả thập kỉ 90, tỷ lệ tiết kiệm/GDP tăng liên tục, kích thích đầu tư, từ
đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này còn thể hiện rõ hơn qua tỉ lệ tổng

đầu tư phát triển so với tổng vốn sử dụng dành cho tiêu dùng và tích luỹ tăng
nhanh từ 12,9%-1999 lên khoảng 27,9% - 2000.Tiết kiệm trong nước đã làm
giảm sức ép phụ thuộc vào vốn đầu tư từ bên ngoài , góp phần quan trọng
cho tăng trưởng kinh tế bền vững hơn.
+về cán cân thương mại và tài khoản vãng lai.
Trong giai đoạn 1991 – 2000 , tổng kim ngạch xuất khẩu
bình quân hàng năm tăng 18,2%. Xuất khẩu bình quân đầu người năm 1999
là 166 USD, tăng 4,6 lần so với năm 1990.
Hiện nay, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt
rộng khắp trên thị trường của 150 quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu
lục. Nhiều mặt hàng của Việt Nam đã chiếm được vị trí cao trên thị trường
thế giới như: gạo, cà phê, dầu thô, hàng thuỷ sản chế biến, cao su, quần áo
may sẵn, giầy dép ,…Có thể kể đến một vài tên tuổi đã tạo được chỗ đứng
riêng , đóng mác “ thương hiệu Việt Nam “ , như cafe Trung Nguyên , giầy
dép kâpp, cá tra, vinamilk,…
Kim ngạch nhập khẩu trong thời kỳ 1991- 2000 tăng
liên tục, nhưng với tốc độ giảm dần, đặc biệt từ năm 1996 đến nay. Tỷ trọng
hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm nhanh từ 16,4% sống
còn 8,1% vào thời kỳ 1996-2000. Cán cân thương mại đã được cảI thiện
đáng kể. Theo đó, thâm hụt thương mại giảm từ 3150 triệu USD năm 1999.

12


Trong thời kỳ 1991-1998, tài khoản vãng lai của Việt
Nam luôn bị thâm hụt , đạt mức cao nhất 2418 triệu USD năm 1996 . năm
1999, lần đầu tiên tài khoản vãng lai có mức thặng dư, khoảng 146 triệu
USD. CảI thiện về tài khoản vãng lai đã có tác động cảI thiện cán cân thanh
toán của lền kinh tế, qua đó góp phần tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô .
+Về thu- chi ngân sách nhà nước (NSNN):

Thu ngân sách nhà nước so với GDP trong thời kì
1991- 1999 trung bình đạt 20%, tăng từ 13,8% năm 1991 lên mức cao nhất
là 23,3% năm 1995 như là kết quả của tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao
trong cả giai đoạn. Từ năm 1997, theo đà giảm sút tăng trưởng kinh tế, thu
NSNN so với GDP cũng giảm đáng kể. Thu NSNN tăng bình quân hằng
năm khoảng 7,3%.
Chi NSNN so với GDP bình quân thời kỳ 1991-1999
đạt 23,9% mức thấp nhất là 15,7% năm 1991 và cao nhất là 27,9% năm
1993 và 1994 .Như vậy trong 9 năm liên tục giai đoạn này, bội chi NSNN
được kiểm soát ở mức thấp nhất, trung bình cả thời kỳ là 3,7%, dao động từ
1,9%-4,9%.
- các vấn đề xã hội ở nước ta thời gian qua .
Những thành quả của công cuộc đổi mới đã tạo tiền đề
cho phát triển xã hội ở việt nam .Đến cuối thập kỉ 90 , nhiềi chỉ số xã hội đã
được cảI trhiện , trước hết là GDP đầu người , chỉ số phát triển nguần nhân
lực hdi, tỷ lệ tăng dân số, lao động và
Tình trạng nghèo đói……
+ Tình hình dân số ,lao động việc làm và thất nghiệp :
Trong suốt thập kỷ 90, chính phủ đã thành công trong thực hiện chương
trình kế hoạch
13


hoá gia đình ,nhờ vậy tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm liên tục ,từ
2,33% năm 1991 xuông còn 1,75% năm 1998
Tổng số lao độngviêc làm trong ngành kinh tế tă từ 30,2 triệu
nguời năm 1991
Xuống còn 1,75% năm 1998,
Tổng số lao động viêc làm trong ngành kinh tế tăng từ
30,2 triệu người năm 1990 lên khoảng 40,6 triệu người vào năm 2000,

trung bình mỗi năm tăng 1 triệu lao động. Măc dù cơ cấu lao động đã
chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng lao động trong khu vực công
nghiệp – xây dựng và dịch vụ giảm tỷ trọng nông – lâm – ngư nghiệp
nhưng chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra với tốc độ rất chậm. Năm
2000 khu vực nông nghiệp vẫn chiếm tới 62,56% tổng lực lượng lao
đốngo với tỷ lệ 73,26% vào năm 1991.
Trong giai đoạn vừa qua việc làm được tạo ra trong khu
vựckinh tế ngoài quốc doanh là chính. Tỷ lệ lao động trong khu vực này
tăng liên từct 89,52% năm 1991 lên 91,72% năm 1998, nhưng năm 1999
lại giảm còn 90,96% bằng mức của năm 1993. tỷ lệ lao động trong khu
vực nhà nước tăng lên chủ yếu trong ngành giáo dục, y tế.
Tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua đã có tác dụng
tích cựctới giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thi, từ 9-10% năm
1990 xuống còn 5,8% năm 1996 . từ năm 1997 giảm suát về tăng trưởng
kinh tế đã làm cho số người mất việc làm và khó tìm được việc làm tăng
lên, đạt mức cao nhất 6,85% năm 1997 và 6,74% năm 1999. năm 2000
tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn khoản 6,5%.
+ Về thu nhập : chỉ số GDP bình quân đầu người đã được
cảI thiện.theo giá hiện hành,GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã
tăng từ 222 USD năm 1995 lên 400 USD năm 2000. tức tăng khoảng 1,8
14


lần GDP bình quân đầu người trong thời kỳ này tăng trung bình 5.7%
hàng năm,trong đó giai đoạn 1991-1995 là 6,3% giai đoạn 1996-2000 là
5,1%.
Mức tiêu dùng cuối cùng bình quân đầu người trong cả
giai đoạn trung bình tăng 3,4% lần.thu nhập của các nhóm dân cư tăng
đã làm thay đổi cơ cấu chỉ tiêu theo hướng tích cực.
So sánh mức thu nhập giữa thành thị , nông thôn và các vùng có

sự chênh lệch đáng kể, mức thu nhập ở thành thị đạt 832,5 nghìn đông /
tháng, tăng 63,4% hany tăng 17,8% / năm so với năm 1996, nếu loại trừ
yếu tố lạm phát thì mức tăng 13,1% / năm ( theo kết quả cuộc điều tra
mức sống dân cư năm 1999 của tổng cụa thống kê ). Mức thu nhập ở
nông thôn đạt 225 nghìn đông / tháng,tăng 19,7% và tăng 6,2% so với
cùng kỳ, nếu loại trừ yếu tố giá chỉ còn tưng 1,9%. Như vậy mức thu
nhập hiện nay ở khu vực thành thi gấp 3,7 lần mức thu nhập hiện nay ở
nông thôn.
+ Về tình trạng nghèo đói : trong thập kỷ 90 đặc biệt giai
đoạn 1993-1998 Việt Nam được đánh giá là nước có thành tích cao trong
cuộc đấu tranh xoá đói giảm nghèo trong khuôn khổ của chiến lược
phát triển kinh tế gắn tăng trưởng kinh tế nhanh với xoá đói giảm
nghèo.theo tiêu chuản và phương pháp xãc định đường nghèo khổ của
ngân hàng thế giới,tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1% năm 1993
xuống còn 37,4% năm 1998, trong đó tỷ lệ nghèo về lương thực giảm từ
24,9% xuống còn 15%.
- đánh giá tình hình kinh tế- xã hội của Việt Nam giai đoạn
qua, từ đó thấy được vai trò việc vạn dụng QLGT vào nền kinh tế thị
trường Việt Nam.

15


Hai mươi năm là một khoảng thời gian không dài đối với
lịch sử mấy ngàn năm của một dân tộc , nhưng hai mươI năm đổi mới đã là
một bước ngoặt trong lịch sử hiện đại Việt Nam . nhờ có đổi mới , Việt Nam
đã vượt qua được khủng hoảng kinh tế, kiềm chế được lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, đạt được tốc độ tăng trưởng cao và lâu bền nhất từ năm 1975
đến nay.cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ,cơ sở vật chất của nền kinh tế được tăng cường

và cảI thiện một bước, đời sống đại bộ phận nhân dân dược cải thiện rõ rệt.
Các nguồn lực trong nước thuộc các thành phần kinh tế được phát huy cao
nhất, với khung khổ pháp lý mới, phù hợp với cơ chế thị trường đã được
hình thành trên những nét cơ bản. những cơ sở vững chắc không thể đảo
ngược được về thể chất,chính sách cũng như những chuẩn mực hành vi mới
trong người dân đã dược hình thành. Hai mươI năm đổi mới đã tạo cho Việt
Nam thế và lực mới, đã thay đổi sâu sắc xã hội và con người.
Nhờ có những tiến bbộ đổi mới, Việt Nam đã vượt qua được bao
vây, cấm vận về kinh tế, đã thực hiện hội nhập kinh tê quốc tế và trở thành
một đối tác kinh tế ngày càng được coi trọng trong khu vực cũng như trên
thế gới. chính thức gia nhập ASEAN, cam kết thực hiện các quy định của
AFTA , gia nhập WTO và APEC, đa dạng hoá các quan hệ tài chính và
thương mại với các nươc và các tổ chức trên thế giới, thành công trong việc
ký hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, đạt được quy chế tối huệ quốc, Việt
Nam đang cố gắng huy động những nguồn lực quuốc tế để phục vụ choi
công cuộc dựng xây đất nước.
Tóm lại nhờ vận dụng một cách khéo léo , hợp lý các quy luật
trong đó có QLGT trong đường lối chính sách của đảng mà chúng ta đã đạt
được những thành tựu kinh tế – xã hội đáng kể : kinh tế tăng trưởng với tốc
độ khá cao , được nhưng kết quả khá ấn tượng về phát triển kinh tế, lạm phát
16


được kiềm chế, kiểm soát góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tỷ lệ đầu tư trong
và ngoài nước tăng mạnh, cơ cấu kinh tế đã có xu hướng thay đổi tích cực,
nguồn nhân lực phát triển thể hiện qua chỉ số HDI ngày càng tăng.
Tuy nhiên không thể xem xét vấn đề theo một hướng chủ quan,cả
những thành quả đạt được nhưng chúng ta cũng cần nhìn lại những thiếu sót
trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội.tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng
thực chất vãn chưa đạt được mục tiêu đề ra.như mục tiêu tăng trưởng GDP

trung bình của kinh tế Viêt Nam giai đoạn 2001 – 2005 là 8%nhưng cho đến
nay năng suất đạt cao nhất của thời kỳ này mới là 7,5%. điều này do đâu?
các cơ sở kinh tế đặc biệt là khu vực nhà nước, đã dần trở nên già cỗi, lỗi
thời. Bên cạnh đó có vấn đề xã hội đang ngày một nổi cộm, nhức nhối, như
việc làm thất nghiệp, nghèo đói, tham những, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi
trường....
Ngoài ra vấn đề phát triển bền vững dang bị đe doạ
nghiêm trọng do ô nhiễm môI trường, thói sống thiếu ý thức bảo vệ, sự bất
bình đẳng xã hội.
Từ những ưu nhược điểm ấy chúng ta đã thấy được vai trò của
QLGT, nghiệm qua lịch sử hiện đại Việt Nam cho thấy một cách rõ
nét.QLGT quyết định giá cả của cung- cầu có ý nghĩa quan trọng trong nền
kinh tế thi trường.nó điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá , kích thích cảI
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động…. Như vậy
nó đã góp phần thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật của xã hội. Cho nên tôn trọng
QLGT hoàn thành giá cả qua tình hình cung cầu của thị trường, là biện pháp
và con đường quan trọng để thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật của xã hôị.
QLGT tạo ra một môI trường cạnh tranh khốc liệt mà cạnh tranh lại là linh
hồn của kinh tế thị trường nên nó đã dần làm hoàn thiện cơ chế thị trường
đang được xây dựng ở nước ta.
17


Tuy nhiên song song với nó lại chính là khiếm khuyết của
thị trường vấn đề “thị trường mất thiêng”. biểu hiện thứ nhất là: giá cả thiết
lập trên thị trường những cặp chủ thể người mua – người bán nhưng lại
không phản ánh được hiện tượng ăn theo của một số chủ thể bên ngoài ( có
thể là tiaêu cực hoặc tích cực).như nhà máy thảI chất ô nhiễm gây thiệt hại
cho dân cư xung quanh . những ảnh hưởng bên ngoài này khó được đền bù
và uốn nắnbằng tác động tự phát của cơ chế thị trường. Ngoài ra có một số

sản phẩm mà hiệu quả đối với cá nhân và hiệu quả đối với xã hội mâu thuẫn
nhau, như chất gây nghiện,vũ khí, văn hoá phẩm đồi truỵ…người kinh
doanh có thể thu được lợi lớn nhưng sức khoẻ , sự an toàn và lối sống của
toàn xã hội lại bị xâm phạm. thứ hai : cạnh tranh thị trường có lúc mất thiêng
VD : tác động của QLGT trên thị trường thường dẫn đến độc quyền, còn độc
quyền trái lại phá hoại cơ chế thị trường, loại bỏ cạnh tranh,từ đó làm cho
hiệu quả suy giảm . thứ ba : thị trường không thể thực hiện được hoàn toàn
việc phân phối công bằng thu nhập. Theo QLGT giao dịch trên thị trường về
nguyên tắc là ngang giá nhưng do của cảI , khí chất của mọi người khác
nhau nên mức thu nhập cũng sẽ chênh lệch. Hơn nữa trên thực tế do giá cả
thị trường lên xuống theo biến động cung – cầu sự điều tiết về thị trường dễ
làm tăng khoảng cách về thu nhập , gây ra mâu thuẫn xã hội. Thứ tư : bản
thân sự điều tiết của thị trường chứa đựng tính mù quáng nhất định. Bởi vì
sự điều tiết của thjị trường là loại điều tiết đến sau, từ việc hình thành giá
cả , tín hiệu được phản hồi đến sản phẩm sản xuất có sự chênh lệch thời gian
nhất định.do vậy cần có sự điều chỉnh của nhà nước XHCN để tránh dẫn đến
suy thoái kinh tế có tính chất chu kỳ và các mâu thuẫn kinh tế, xã hội khác.
QLGT có tác dụng phan hoá những người sản xuất nhỏ , phân hoá
giàu nghèo sâu sắc dẫn đến bất công bằng trong xã hội. Từ đó hình thành

18


nên mâu thuẫn giữa hiệu quả và công bằng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

19




×