Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Kinh tế quốc tế nghiên cứu những ảnh hưởng của ACFTA ASEAN – China free trade area – khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc ASEAN) đến dịch vụ việt nam đồng thời tìm hiểu một số giải pháp cho sự phát triển của thương mại dịch vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.68 KB, 37 trang )

Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế là sự vận dụng của xu thế toàn cầu hóa kinh tế phục vụ
yêu cầu về kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia. Các quốc gia muốn phát triển
được không thể tiếp tục thực thi chính sách đóng cửa kinh tế, mà cần phải hội
nhập như một xu thế tất yếu.Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới các
liên kết kinh tế có vai trò hết sức quan trọng vì nó tạo ra khung khổ pháp lý và
môi trường kinh doanh thuân lợi cho các nước. Đồng thời giúp các thành viên
tận dụng được lợi thế của mình. ACFTA (ASEAN – China free trade area –
khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN) là một liên kết kinh tế có ý
nghĩa quan trọng với cả các nước Đông Nam Á và Trung Quốc. So với các
nước ASEAN khác Việt Nam lại có thêm lợi thế về vị trí địa lý gần gũi, phong
tục tập quán có nhiều nét tương đồng, do đó có thể phát triển quan hệ hợp tác
song phương trong nhiều lĩnh vực nhất là thương mại dịch vụ .
Tuy nhiên, so với một số nước khác trong khu vực chúng ta vẫn còn tồn
tại những yếu kém về cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, nguồn nhân lực…Do
đó đây là một cơ hội lớn nhưng cũng có rất nhiều thách thức. Hội nhập cũng là
một quá trình sẽ tạo ra những sự cạnh tranh hết sức gay gắt, do đó các nước
phải có sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt: Từ kinh tế, đến chính trị, đến việc
hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật, và tăng cường nhận thức của doanh
nghiệp cũng như của người dân… Vì vậy nghiên cứu những ảnh hưởng của
ACFTA đến dịch vụ Việt Nam đồng thời tìm hiểu một số giải pháp cho sự phát
triển của thương mại dịch vụ là rất cần thiết.
Đây là một đề tài rộng, do đó người viết chỉ có thể nghiên cứu dược một
số vấn đề cơ bản: Thực trạng của thương mại dịch vụ Việt Nam, Nội dung
cam kết của Việt Nam về thương mại dịch vụ trong ACFTA, Tác động của cam
kết đối với sự phát triển thương mại dịch vụ Việt Nam, cuối cùng là đưa ra
một số giải pháp và kiến nghị mang tính chất gợi ý ban đầu đơn giản nhất.



Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

Đề tài chủ yếu nghiên cứu ảnh hưởng của ACFTA đến thương mại
dịch vụ Việt Nam. Tuy nhiên ta cũng biết Việt Nam gia nhập ASEAN từ năm
1995, đây là một tổ chức kinh tế có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với các nước
Đông Nam Á nhưng cũng có những hạn chế do các nước này phần lớn là nước
nông nghiệp, và lại có cơ cấu kinh tế giống nhau nên chưa bổ sung được cho
nhau. Tham gia khu vực mậu dịch tự do ACFTA Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội
mới. Vì vậy ở đây sẽ chủ yếu đề cập đến những ảnh hưởng từ phía Trung Quốc
đối với Việt Nam trong khuôn khổ ACFTA. Trong đó thời gian: Kể từ khi Việt
Nam, Trung Quốc và các nước ASEAN ký hiệp định khung về hợp tác kinh tế
toàn diện vào 4/11/2001.
Phương pháp nghiên cứu: Thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, duy vật lịch
sử,…
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, mặc dù chúng em đã hết sức cố gắng nhưng
không thể tránh khỏi những sai sót. Mong thầy giáo và các bạn quan tâm và
đóng góp ý kiến cho chúng em. Chúng em xin chân thành cảm ơn!


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

CHƯƠNG MỘT
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VIỆT NAM
I- Các khái niệm cơ bản
Dịch vụ là kết quả Lao động xã hội mà sản phẩm tạo ra không tồn tại
dưới dạng hình thái vật chất, trong đó quá trình cung ứng và tiêu thụ dịch vụ
không thể tách rời nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người.
Thương mại dịch vụ: là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại trong
lĩnh vực dịch vụ, hay nói chính xác khái niệm dùng để nhấn mạnh khía cạnh

thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Người ta thường phân biệt Thương mại
dịch vụ và Thương mại hàng hóa. Thương mại dịch vụ chính là dịch vụ cung
ứng nhằm mục đích kinh doanh và thu lợi nhuận (bảo hiểm, tài chính, ngân
hàng, khách sạn…)
Thương mại dịch vụ có thể phân chia căn cứ theo mục tiêu, gồm: dịch vụ
phân phối, dịch vụ sản xuất, dịch vụ cá nhân, dịch vụ xã hội. Phân loại theo
GATT gồm các nhóm ngành: dịch vụ môi trường, dịch vụ giáo dục, dịch vụ
phân phối, dịch vụ xây dựng, dịch vụ thông tin (viễn thông), dịch vụ kinh
doanh, dịch vụ tài chính, dịch vụ y tế, dịch vụ du lịch, dịch vụ văn hóa, giải trí,
dịch vụ vận tải.
II- Thực trạng thương mại dịch vụ Việt Nam
Ở Việt Nam, trước thời kì đổi mới, thương mại là một ngành ít phát triển
do thực hiện cơ chế quản lý hành chính mệnh lệnh, hàng hóa không được đưa
ra trao đổi trên thị trường mà thực hiện phân phối theo chế độ bao cấp, dịch vụ
do đó cũng không phát triển được. Trong thời kì này, nhà nước ta ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng, vì vậy dịch vụ cũng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

cấu kinh tế. Các loại hình dịch vụ nói chung và thương mại dịch vụ nói riêng
chỉ được thực sự phát triển sau khi nhà nước thực hiện chính sách mở cửa kinh tế.
Tuy dịch vụ nước ta vẫn chưa phát triển như ở một số nước trong khu
vực và trên thế giới, nhưng cũng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh
tế của nước ta, ngày nay nhà nước ta càng ý thức rõ hơn vai trò của dịch vụ
trong sự phát triển kinh tế. Dịch vụ ngày càng có những đóng góp lớn cho
GDP, tỷ trọng dịch vụ hiện nay ổn định trên dưới 40%. Dịch vụ cho dù chiếm
tỷ trọng lớn nhưng đang có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Nếu như
năm 1995, tỷ trọng của dịch vụ trên GDP khoảng 42-43% thì năm 2000 chỉ
còn khoảng 38,73% và năm 2003 là 37,99%. Năm 2005 tỷ trọng dịch vụ của

nước ta vào khoảng 38.08% trong khi đó công nghiệp là 41.03%, nông lâm
nghiệp và thủy sản giảm xuống chỉ còn 20.09%. Tỷ trọng của các ngành dịch
vụ Việt Nam trong GDP là thấp hơn so với thế giới (Từ giữa thập kỷ 90 tỷ
trọng dịch vụ trong thương mại thế giới là 60% sản xuất và việc làm của toàn
cầu, riêng với Mỹ là 80%) và cả các nước đang phát triển trong khu vực như
Thái Lan, Malaysia, Phillipines. Theo kế hoạch, đến năm 2010, tỷ trọng dịch
vụ trong GDP chiếm 43-45% có nghĩa là mức tăng trưởng phải đạt 9-10%/năm
và cao hơn mức tăng trưởng GDP (khoảng 8 đến 8,5%). Năm 2004, tốc độ
tăng trưởng của dịch vụ là 7,47% và thấp hơn mức tăng trưởng GDP chung là
7,69%. .Tuy nhiên đến năm 2005 khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng cao hơn
hẳn đó là 8,5%. Trong khu vực này các ngành có tỷ trọng lớn và thuộc lĩnh vực
dịch vụ kinh doanh như thương nghiệp; khách sạn, nhà hàng; vận tải, bưu điện,
du lịch; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đều có mức tăng cao hơn so với mức
tăng của từng ngành trong năm trước: Thương nghiệp năm nay tăng 8,3%
(năm 2004 tăng 7,8%); Khách sạn nhà hàng tăng 17% (năm 2004 tăng 8,1%);
Vận tải, bưu điện, du lịch tăng 9,6% (năm 2004 tăng 8,1%)...


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

Tỷ trọng dịch vụ trong GDP
100%
90%
80%
70%

C«ng nghiÖp

60%
50%


N«ng nghiÖp

40% 53.02
30%
51.54
20%

DÞch vô

50.31
48

51.45

10%

41.0
37.4
38.5

41.4

19
95
19
96
19
97
19

98
19
99
20
00
20
01
20
02
20
03

0%

Trị giá xuất nhập khẩu dịch vụ năm 2005 ước tính đạt 9,3 tỷ USD, tăng 6%,
trong đó xuất khẩu dịch vụ 4,26 tỷ USD, tăng 7,2%; nhập khẩu dịch vụ 5,04 tỷ USD,
tăng 5%.
Cán cân xuất nhập khẩu dịch vụ (BOP)
4000

C¸n c©n dÞch vô

3000
NhËp khÈu dÞch vô

2000
1000

XuÊt khÈu dÞch vô
2002


2001

2000

1999

1998

1997

1996

1995

1994

1993

-1000

1992

0

-2000

Linear (C¸n c©n
dÞch vô )


Nguồn: Thống kê IMF (tháng 12/2003)

Hiện nay ngành dịch vụ thu hút được khá nhiều đầu tư của toàn bộ nền
kinh tế(72%), trong khi đó đầu tư vào ngành công nghiệp chế tạo chỉ chiếm
20% cơ cấu đầu tư của toàn xã hội. Dù vậy tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào ngành
dịch vụ còn thấp. Cơ cấu đầu tư vào dịch vụ nước ta hiện nay cũng thay đổi, tỷ
trọng đầu tư vào những ngành như du lịch, tài chính, ngân hàng, ngày càng


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

tăng. Năm 2003 những ngành dịch vụ có tỷ trọng nhiều nhất trong cơ cấu kinh
tế của Việt Nam bao gồm dịch vụ thương nghiệp (phân phối, sửa chữa...)
chiếm 14,5% GDP, dịch vụ xây dựng (6%), các dịch vụ khác như tài chính,
viễn thông có tỷ trọng thấp hơn khoảng 2-3%...
Dịch vụ cũng là một ngành tạo ra nhiều công ăn việc làm cho lao động
nước ta. Đối với một đất nước mà 80% dân số còn phụ thuộc vào sản xuất
nông nghiệp như nước ta, mà nông nghiệp lại là một ngành phụ thuộc nhiều
vào thời tiết và giá cả lại không ổn định thì ngành dịch vụ có vai trò quan
trọng. Nước ta hiện nay có khoảng 38 triệu lao động, trong đó 24,1% lao động
trong ngành dịch vụ, 65,3% lao động trong ngành nông nghiệp, 10% trong
công nghiệp. Do đó việc phát triển dịch vụ là tất yếu.
Tuy vậy dịch vụ nước ta vẫn còn một số hạn chế:
Dịch vụ nước ta là một lĩnh vực mới, nhỏ lẻ, thương mại dịch vụ còn rất hạn
chế. Trước thời kỳ đổi mới dịch vụ bị coi nhẹ và đến nay vẫn để lại hậu quả
nặng nề trong nhận thức của người dân và ngay cả trong cơ chế chính sách, hệ
thống pháp luật liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tốc độ tăng trưởng không đồng đều.
So với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới thì tỷ trọng dịch vụ của
Việt Nam còn thấp.

Năng lực cạnh tranh của một số ngành dịch vụ còn thấp.
Do trình độ phát triển còn thấp song song với nhận thức chưa đầy đủ về
dịch vụ nói chung và thương mại dịch vụ nói riêng. Bởi đây vẫn được coi là
một ngành “phi vật chất” không tạo ra của cải cho xã hội.
Do sự yếu kếm của dịch vụ thương mại đã cho phép một số nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài sớm có cơ hội đặt chân và bành trướng thị phần tại Việt Nam.
Đặc biệt là một số ngành như viễn thông, phân phối (hệ thống siêu thị nước ta


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

hoạt động còn kém hiệu quả, chưa cạnh tranh được với siêu thị của nước
ngoài).
Các cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ hoạt động còn kém hiểu quả, công
tác thống kê, so sánh chưa được quan tâm, chưa có nhận thức đúng đắn về
thương mại dịch vụ theo GATS.
III- Tiềm năng phát triển một số ngành dịch vụ ở nước ta trong khuôn
khổ ACFTA:
1) Dịch vụ du lịch:
Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển ngành du lịch, do có nhiều cảnh
quan tự nhiên, nhiều di tích lịch sử....Du lịch cũng là ngành giúp tăng cường
giao lưu văn hóa, giải trí...Do vậy xu hướng của người dân thế giới hiện nay
dùng một khoản không nhỏ để dành cho hoạt động du lịch, nhất những nước
như Nhật Bản. Du lịch đóng góp không nhỏ vào tổng sản phẩm quốc dân của
mỗi nước. Du lịch càng phát triển càng tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, góp
phần vào việc xóa đói giảm nghèo. Năm 2003, thu nhập từ dịch vụ du lịch của
Việt Nam đạt khoảng 1,3 tỷ USD, năm 2005 đạt 2,1 tỷ USD, chiếm khoảng
4,9%GDP của Việt Nam. Việt Nam, năm 2000 đã tăng lên 150.000 lao động và
lao động gián tiếp ước khoảng 330.000 lao động. Số lượng khách quốc tế đến
Việt Nam ngày càng tăng, năm 2005 ước tính đạt 3,47 triệu lượt người, tăng

18,4% so với năm trước, trong đó khách đến du lịch 2,04 triệu, tăng 28,9%;
thăm thân nhân 505,3 nghìn lượt người, tăng 8,1%; vì mục đích khác 427,6
nghìn lượt người, tăng 20,5%; riêng khách vào vì công việc 493,3 nghìn lượt
người, giảm 5,4%. Khách đến Việt Nam từ Mỹ tăng 22,4%; từ Hàn Quốc tăng
36,1%; từ Nhật Bản tăng 20%, từ Đài Loan tăng 11,5%; từ Cam-pu-chia tăng
105,4%; từ Ô-xtrây-li-a tăng 13%, từ Pháp tăng 21,5%. Đáng chú ý là trong
năm nay, khách vào tăng mạnh (trên 50%) ở một số nước có tỷ trọng không
lớn như từ Xin-ga-po, Thái Lan, Nga, Tây Ban Nha. Riêng khách đến từ
CHND Trung Hoa chiếm tỷ lệ cao nhất trong số khách đến, nhưng lại giảm


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

3,3% so với 2004(từ 30% năm 2004 xuống còn 26,7% năm 2005).Hiện nay
lượng khách du lịch vẫn tiếp tục tăng nhanh.
Tuy nhiên du lịch Việt Nam phát triển chưa ổn định, thiếu bền vững,
hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng du lịch phong phú của đất nước, khả
năng cạnh tranh còn rất hạn chế. Dịch vụ du lịch đang ở giai đoạn đầu của sự
phát triển, điểm xuất phát quá thấp so với du lịch Trung Quốc và nhiều nước
trong khu vực. Hoạt động du lịch còn chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên, chưa
được đầu tư tôn tạo. Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch còn yếu kém,
thiếu đồng bộ. Hệ thống pháp luật về du lịch còn thiếu và chưa đồng bộ. Hiện
nay nhà nước đang có những chính sách cải cách về pháp luật để cải thiện vấn
đề trên.
Việt nam và các nước trong ACFTA có vị trí địa lý gần gũi, đặc biệt với Trung
Quốc chúng ta còn có sự gần gũi về phong tục tập quán, văn hóa, truyền
thống... Do đó việc giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc tồn tại hết sức tự nhiên.
Du lịch trong nội bộ khu vực chi phí lại không cao. Mạng lưới giao thông giữa
các nước hiện nay rất thuận lợi cũng là một yếu tố quan trọng.
Tài nguyên du lịch tự nhiên và văn hóa của Việt Nam phong phú và đa

dạng, có nhiều điểm du lịch tự nhiên hấp dẫn như Vịnh Hạ Long, động Phong
Nha và có các di sản văn hóa được công nhận là di sản văn hóa thế giới như
Hội An, Cố Đô Huế. Việt Nam có hệ sinh thái động - thực vật rừng đa dạng.
Đặc biệt, Việt Nam có chế độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào,
người dân mến khách và bản sắc văn hoá đậm đà. Mặt khác chúng ta lại có
đường bờ biển dài rộng. Chính những điểm mạnh đó đã giúp du lịch Việt Nam
tăng trưởng nhanh chóng.
Nhu cầu về dịch vụ du lịch tăng mạnh: Thu nhập người dân tăng đã thúc
đẩy du lịch trong nước và nước ngoài phát triển. Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay, khách du lịch Trung Quốc và các nước ASEAN khác sang Việt Nam ngày
càng tăng mạnh.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

Tuy chúng ta còn yếu kém về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, và trình độ quản lý,
nhưng trong khuôn khổ ACFTA sẽ giúp ta có cơ hội cải thiện những vấn đề
trên.
2) Dịch vụ vận tải :
Vận tải đóng một vai trò trọng yếu trong việc phát triển kinh tế - xã hội
và là ngành thu hút nhiều lao động nhất của hai nước. Việt Nam tập trung ưu
tiến phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và xây dựng luật pháp về giao
thông vận tải, đã tạo thuận lợi cho dịch vụ vận tải phát triển. Hệ thống tiêu
chuẩn bước đầu đáp ứng chuẩn mực quốc tế.
Hiện nay ngành vận tải có những thành tựu đáng chú ý :Vận chuyển
hành khách: năm 2005 ước tính đạt 1267,4 triệu lượt hành khách và 53,3 tỷ
lượt hành khách.km, so với năm trước tăng 7,5% về lượt khách và tăng 11,8%
về lượt khách.km, trong đó vận chuyển bằng đường bộ và đường không tăng
khá hơn, riêng vận chuyển hành khách bằng đường sắt giảm 1,3% về số lượt
khách và chỉ tăng 4,7% về số lượt khách.km so với năm 2004. Vận chuyển

hàng hoá: năm 2005 ước tính đạt 324,2 triệu tấn và 81,1 tỷ tấn.km, so với năm
2004, tăng 7,3% về tấn và tăng 6,7% về tấn.km. Vận chuyển hàng hoá bằng
đường biển tăng 5,7% về tấn và tăng 6,3% về tấn.km; vận chuyển bằng đường
bộ tăng 8,3% và tăng 9,2%...; riêng vận chuyển hàng hoá bằng đường sắt giảm
0,4% về tấn.
Mặc dù trong năm 2005 giá xăng dầu tăng cao, gây áp lực tăng cước phí
vận tải, nhưng các ngành vận tải đã có nhiều cố gắng đáp ứng nhu cầu sản xuất
và đi lại của dân cư, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trật tự an toàn
giao thông trong năm vẫn là vấn đề đáng quan tâm và cần được tiếp tục khắc
phục.
Riêng với Trung Quốc Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, có thể tham
gia tốt vào hệ thống giao thông giữa khu vực vận tải Vân Nam, Tứ Xuyên,
Quảng Tây. Hiện nay ASEAN là đối tác lớn thứ năm của khu vực. Tính riêng


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

tỉnh Vân Nam, quan hệ với ASEAN chiếm 85% tổng kim ngạch của toàn tỉnh.
Ngoài ra nước ta còn có biên giới trên bộ với Lào, Campuchia, cũng rất thuận
lợi cho giao thông vận tải. Đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận
tải chiếm vị trí hàng đầu trong đầu tư phát triển kinh tế. Việt Nam cũng như
các nước ACFTA có vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ vận tải,
nhất là Việt Nam, nằm trên tuyến vận tải biển quốc tế Đông Tây, tuyến này
chiếm 85% lượng vận chuyển hàng hóa thế giới.
Thế mạnh của Việt Nam là lao động trong ngành dịch vụ vận tải dồi dào,
giá nhân công rẻ. Bước đầu tích lũy được kinh nghiệm trong việc cung cấp
dịch vụ quốc tế; các quy định về đầu tư phát triển dịch vụ vận tải đã thông
thoáng hơn. Tuy vậy, lợi thế về lao động vẫn bị hạn chế do trình độ cán bộ về
tiếng Anh và hiểu biết pháp lý về hội nhập và kinh nghiệm hợp tác đa phương
chưa cao. Tính chủ động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận tải còn

hạn chế, còn có tư tưởng ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước, năng lực cạnh
tranh còn thấp.
3) Dịch vụ phân phối
Tiềm năng về phát triển thị trường dịch vụ phân phối : ACFTA là một
thị trường lớn, đầy tiềm năng với hơn hai tỷ người, rất thuận lợi cho dịch vụ
phân phối. Hiện cả nước có khoảng 170 siêu thị, trung tâm thương mại và hơn
600 cửa hàng tự chọn. Tuy nhiên, quy mô kinh doanh còn nhỏ lẻ, manh mún,
vốn ít và công nghệ quản lý và điều hành hạn chế, lại ít kinh nghiệm về thị
trường, doanh số của siêu thị lớn nhất VN hiện nay cũng chỉ đạt khoảng 200 tỷ
đồng/năm. Nhưng trong khuôn khổ ACFTA cũng là một cơ hội để ta cạnh
tranh và cải thiện những khiếm khuyết trên.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

Tiềm năng về ứng dụng công nghệ thông tin: Hình thức trong lĩnh vực
này với rất nhiều tiện ích, tiết kiệm thời gian và chi phí ngày càng thu
hút được sự quan tâm của khách hàng. Việt Nam và Trung Quốc đều là
những quốc gia có nền công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng và
đã bắt đầu phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
trao đổi, phân phối.
4) Dịch vụ viễn thông:
Mật độ điện thoại ở nước ta còn thấp (mới đạt 12% vào cuối 2004),
trong khi năng suất và hiệu quả kinh doanh viễn thông chưa cao....Tuy nhiên
có thể tăng nhanh vào những năm tiếp theo: dự báo đến 2010, thị trường viễn
thông sẽ phát triển như sau: mật độ điện thoại đạt 24-26 máy/100 dân, trong đó
cố định là 14 máy/100 dân, di động là 18 máy/100 dân, mật độ Internet sẽ đạt
13 thuê bao/100 dân, trong giai đoạn từ nay đến 2010, tốc độ tăng trưởng viễn
thông và Internet sẽ cao gấp 1,5-2 lần so với tốc độ tăng trưởng chung của nền
kinh tế.

Tiềm năng và triển vọng phát triển dịch vụ viễn thông của Việt Nam còn
rất lớn. Chính sách của Việt Nam cho phép doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế đã được tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông. Để tăng cường
năng lực cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trong nước, Việt
Nam đã ban hành các chính sách tạo cho doanh nghiệp quyền tự chủ về giá
cước, các quy định về kết nối, xây dựng Quỹ dịch vụ phổ cập để tách bạch
hoạt động kinh doanh và công ích... từng bước đáp ứng yêu cầu theo thông lệ
và qui tắc của quốc tế.
Tiềm năng về đầu tư trực tiếp cung cấp dịch vụ: Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng cao trong gần 20 năm qua nhưng quy mô mạng lưới viễn thông
Việt Nam còn nhỏ so với các nước khác, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn
thấp, bảng so sánh cho thấy năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp khi
so với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đầu tư nước ngoài có vai


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

trò quan trọng trong sự phát triển của viễn thông ở Việt Nam, tuy vậy vẫn chưa
có sự đầu tư từ Trung Quốc. Trung Quốc đến nay mới tham gia cung cấp thiết
bị (tổng đài, truyển mạch, các thiết bị đầu cuối...). Tuy nhiên, cùng với quá
trình hội nhập, Việt Nam cam kết mở rộng các hình thức đầu tư khác thì rất có
thể sẽ mở ra những cơ hội đầu tư mới cho các doanh nghiệp Trung Quốc
Tiềm năng hợp tác xây dựng và khai thác cơ sở hạ tầng thông tin khu
vực: Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về dung lượng viễn thông quốc tế,
Việt Nam và các nước ACFTA đã và đang tham gia nhiều chương trình phát
triển cở sở hạ tầng thông tin khu vực, như các dự án xa lộ thông tin tiểu vùng
Mekong, mạng thông tin Châu Á, chương trình băng rộng Châu Á, mạng cáp
quang đất liền nối Trung Quốc và các nước ASEAN, mạng cáp quang nối Việt
Nam với Hồng Kông, Thái Lan...
Tiềm năng về phát triển và ứng dụng công nghệ: Trung Quốc,

Singapore, Thái Lan… là những nước đang có trình độ phát triển khoa học
công nghệ cao hơn Việt Nam, vì vậy đây là một cơ hội lớn để ta học hỏi tiếp
thu kinh nghiệm của các nước.
Phát triển nguồn nhân lực: Do đặc thù là ngành kinh tế kỹ thuật có công
nghệ cao và thay đổi nhanh, trong thời gian qua ngành viễn thông của các
nước ACFTA đã đầu tư rất lớn để phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn cao và tăng cường năng lực của các cơ sở nghiên cứu.
5) Dịch vụ y tế:
Dịch vụ y tế ở nước ta hiện nay là một ngành còn nhiều triển vọng, đây
cũng là một thị trường tiềm năng để các nước đầu tư. Trung Quốc lại là một
nước có nền y học tiên tiến, vì vậy mở ra nhiều cơ hội cho ngành y Việt Nam.
Tiềm năng hợp tác phát triển dịch vụ y tế của Việt Nam :
Do trình độ phát triển của y học Trung Quốc, việc có những phòng khám
và điều trị bằng phương pháp đông tây y kết hợp đã có sự tham gia của bác sỹ,
thầy thuốc từ Trung Quốc đã thu hút được nhiều bệnh nhân Việt Nam mong


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

muốn được chữa trị bằng phương pháp y học cổ truyền. Điều này đã thu hút
được nhiều đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam.
Tiềm năng khai thác y dược học cổ truyền: Hiện nay có khoảng 30% số
bệnh nhân trong cả nước được khám và điều trị bằng y học cổ truyền, đặc biệt
ở các vùng sâu vùng xa. Y học cổ truyền có hệ thống tổ chức từ trung ương
đến địa phương, với 5 viện nghiên cứu, 46 bệnh viện y học cổ truyền cấp tỉnh.
Y học cổ truyền Việt Nam một phần ảnh hưởng lớn của y học cổ truyền của
Trung Quốc. Tâm lý chung của đa số người Việt Nam vẫn coi trọng hiệu quả
và khả năng chữa bệnh của Đông y, nhất là với các loại bệnh nan y mà Tây y
chưa có khả năng chữa trị. Bản thân Việt Nam cũng phát triển nhiều loại thuốc
Nam rất có giá trị nhưng ít được biết đến tại thị trường Trung Quốc. Đây là

một tiềm năng rất cần được khai thác của cả hai bên.
Công nghệ trong lĩnh vực dịch vụ y tế Trung Quốc và các nước kinh tế
phát triển của ASEAN đã đầu tư lớn và bước đầu đạt được nhiều thành tựu y tế
quan trọng. Nhiều bệnh nhân Việt Nam đã sang Trung Quốc sử dụng dịch vụ
này tại Trung Quốc. Nhiều công nghệ khám chữa bệnh tiên tiến của Trung
Quốc và Singapore đang được đưa vào Việt Nam với nhiều cách thức khác
nhau, kể cả thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp. Trong giai đoạn hiện nay đời
sống của người dân đã được cải thiện, chi phí cho y tế ngày càng cao, lại càng
là điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Tiềm năng về nguồn nhân lực: Trung Quốc có nhiều chuyên gia lớn và
các trung tâm đào tạo uy tín. Hàng năm, Trung Quốc đã tiến hành đào tạo cho
nhiều sinh viên nước ngoài, trong đó có các sinh viên Việt Nam theo học. Vì
thế ngành y của ta cũng có những bước tiến mới.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

6) Dịch vụ bảo hiểm:
Tiềm năng hợp tác phát triển dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam
Nhu cầu thị trường bảo hiểm: Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay có
tốc độ tăng trưởng nhanh (trung bình 29%/ năm trong 10 năm 1992-2002 ) và
được coi là thị trường đầu tư đầy tiềm năng đối với các nhà bảo hiểm nước
ngoài. Theo thống kê, doanh thu phí bảo hiểm năm 2003 chỉ chiếm 1,8% tổng
GDP của Việt Nam dự kiến 4,2% trong năm 2010. Tuy vậy, tỷ trọng này còn
rất thấp so với nhiều quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia,
doanh thu phí bảo hiểm đã đạt tới 5-6% tổng GDP của các quốc gia này.
Chúng ta đang có gắng xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng để phát
triển ngành bảo hiểm ở Việt Nam.
Năng lực cạnh tranh cộng với những cải cách vượt bậc về hành lang
pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm giúp các nhà bảo hiểm

Trung Quốc có thêm những cơ hội hơn khi tiếp cận thị trường Việt Nam và
cung cấp dịch vụ.
7) Dịch vụ tài chính:
Tài chính là một ngành có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế của một nước. Vì nó điều tiết toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Đầu tư
trong lĩnh vực tai chính là một cơ hội cho nhiều nhà đầu tư. Do chính sách hội
nhập kinh tế quốc tế mà ngành tài chính nước ta đang có rất nhiều tiềm năng.
Sắp tới việc các ngân hàng 100% vốn nước ngoài dễ dàng thâm nhập thi
trường Việt Nam là một cơ hội lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài, những cũng
là một thách thức lớn với ngân hàng của ta. Tuy vậy môi trường cạnh tranh này
cũng là rất tốt cho các ngân hàng Việt Nam, khiến các doanh nghiệp của mình
có thể chủ động thay đổi cung cách quản lý, đồng thời giúp ngành ngân hàng
được trang bị hiện đại hơn, là một cơ hội để tiếp thu thành quả khoa học kỹ
thuật từ nước ngoài.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

CHƯƠNG II
ẢNH HƯỞNG CỦA ACFTA ĐẾN
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VIỆT NAM
I- Nội dung cam kết của Việt Nam về thương mại dịch vụ trong khuôn khổ
ACFTA:
Mục tiêu của ACFTA là thiết lập một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEANTrung Quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm. Riêng các nước thành viên mới của
ASEAN gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam có những đối xử đặc
biệt, khác biệt và linh hoạt. Cụ thể: cắt giảm và xoá bỏ thuế quan trong khu
vực ASEAN-Trung Quốc sẽ cơ bản được hoàn thành vào năm 2010 đối với
ASEAN-6 và Trung Quốc và vào năm 2015, với một số linh hoạt đến 2018,
đối với các nước thành viên mới của ASEAN.
Với quan điểm tăng cường mở rộng thương mại dịch vụ, các Bên đồng ý

sẽ tiến hành đàm phán để tự do hoá tích cực thương mại dịch vụ về cơ bản hầu
hết các lĩnh vực. Các vòng đàm phán sẽ được bàn trực tiếp tới các vấn đề:
-

Cơ bản loại bỏ tích cực các đối xử phân biệt giữa các bên, và nghiêm

cấm tạo ra các biện pháp phân biệt đối xử mới liên quan đến thương mại dịch
vụ giữa các bên, ngoại trừ các biện pháp được phép theo Điều khoản V(1)(b)
của hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của WTO;
-

Phát triển theo chiều sâu và mở rộng phạm vi tự do hóa thương mại dịch

vụ theo hướng các nước ASEAN và Trung Quốc cam kết trong khuôn khổ
GATS.
-

Hợp tác dịch vụ được mở rộng giữa các Bên nhằm cải thiện tính hiệu

quả và sự cạnh tranh, cũng như làm phong phú nguồn cung cấp và phân phối
dịch vụ của các Bên.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

Các mục tiêu của hiệp định này là:
-

Tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa


ASEAN và Trung Quốc.
-

Tích cực tự do và xúc tiến thương mại hàng hóa và dịch vụ, cũng như cơ

chế đầu tư thông thoáng và rõ ràng.
-

Khai thác các lĩnh vực mới và thiết lập các biện pháp thích hợp cho hợp

tác kinh tế giữa các bên.
-

Tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế có hiệu quả hơn của các nước thành

viên mới của ASEAN và tạo nhịp cầu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các
bên.
Các biện pháp hợp tác kinh tế:
Các Bên đồng ý sẽ đàm phán tích cực nhằm thiết lập Khu Vực Mậu Dịch Tự
Do ASEAN - Trung Quốc trong phạm vi 10 năm, và để tăng cường và mở rộng
hợp tác thông qua:
-

Tích cực loại bỏ thuế quan và hàng rào phi tuế quan đối với hầu hết

thương mại hàng hóa.
-

Tiến tới tự do hóa thương mại dịch vụ về cơ bản tất cả các lĩnh vực.


-

Thiệt lập một cơ chế đầu tư cạnh tranh và cởi mở để tạo thuận lợi và

thúc đẩy đầu tư trong khuôn khổ FTA
-

Áp dụng các ứng xử đặc biệt, khác biệt và linh hoạt cho các nước thành

viên ASEAN.
-

Áp dụng linh hoạt cho các Bên trong đàm phán FTA đối với các khu vực

nhạy cảm của lĩnh hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Sự linh hoạt này sẽ được đàm
phán và cùng thống nhất thỏa thuận dựa trên nguyên tắc có đi có lại và cùng có
lợi.
-

Thiết lập các biện pháp tạo thuận lợi đầu tư và thương mại có hiệu quả,

gồm không hạn chế việc đơn giản hóa thủ tục hải quan và các thỏa thuận công
nhận lẫn nhau.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

-

Mở rộng hợp tác kinh tế ra các lĩnh vực khác có thể đồng thuận được


của cả hai bên ASEAN va Trung Quốc, mà sẽ bổ sung vào việc làm sâu sắc
hơn liên kết đầu tư và thương mại giữa ASEAN va Trung Quốc, hình thành lên
các chương trình hành động để thực hiện các lĩnh vực hợp tác.
-

Thiết lập các cơ chế thích hợp nhằm mục đích thực hiện có hiệu quả các

cam kết trên.
II- Ảnh hưởng của ACFTA đến thương mại dịch vụ Việt Nam :
1)

Thời cơ:
Khu vực mậu dịch tự do ACFTA tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa

Việt Nam khi thâm nhập thị trường Trung Quốc. Đây là một thị trường rất đa
dạng và dễ tính, do có nhiều tầng lớp dân cư khác nhau, có mức thu nhập khác
nhau bởi vì Trung Quốc là một nước có diện tích rộng lớn, số dân đông cho
nên chưa thể phát triển một cách đồng đều tất cả các khu vực. Thị trường
Trung Quốc có đặc trưng là chấp nhận sự tồn tại của hàng hóa dịch vụ nhiều
quy cách và chất lượng không như nhau, và mức giá có thể cách nhau hàng
chục, thậm chí hàng trăm lần. Miền duyên hải rất phát triển như Thẩm Quyến
với thu nhập bình quân đầu người trên 20 nghìn USD/năm, trong khi vùng
miền Tây chỉ khoảng 300 USD/người/năm. Người Trung Quốc rất nhạy cảm
với giá cả và thường chọn sản phẩm dịch vụ rẻ, tuy nhiên khi bị tác động bởi
các dịch vụ hậu mãi tốt hơn hay chất lượng cao hơn, họ sẵn sàng mua giá đắt
hơn. Do trình độ phát triển và nhu cầu, người Trung Quốc cũng rất ưa chuộng
sản phẩm công nghệ cao nhập ngoại.
Nhờ tham gia vào ACFTA ta có thể tiếp cận với một thị trường lớn với số dân
đông nhất thế giới này. Vì vậy quy mô xuất khẩu được mở rộng, thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế.
-

Việt Nam Mở cửa thị trường trong nước thì đồng thời các nước khác

trong khuôn khổ ACFTA cũng phải mở cửa thị trường cho hàng hóa nước ta
theo nguyên tắc có đi có lại đã được nêu trong cam kết.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

-

Nhờ tham gia vào liên kết kinh tế này mà chúng ta có thị trường ổn định

hơn, không bị áp đặt các biện pháp hạn chế việc cung cấp dịch vụ.

Tạo ra

môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào
Việt Nam, đồng thời đây cũng là một cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư sang thi trường Trung Quốc.
Khi chúng ta tham gia vào ACFTA, thị trường xuất khẩu của chúng ta
sẽ có cơ hội mở rộng. Do đó đây sẽ là một thị trường đầy tiềm năng cho các
nhà đầu tư, vì đầu ra cho sản phẩm bao giờ cũng là mối quan tâm lớn của các
nhà đầu tư.
Trước kia các nhà đầu tư nước ngoài rất ngại đầu tư vào Việt Nam vì cơ
chế chính sách không phù hợp, nhất là vào những năm 80 của thế kỷ XX.
Ngày nay do mở cửa hội nhập các chính sách cũng thông thoáng hơn, thủ tục
cho các nhà đầu tư cũng đơn giản hơn, những trở ngại được dỡ bỏ là cơ hội để

các nhà đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam. Hiện nay rất nhiều công ty Trung
Quốc bắt đầu đầu tư vào Việt Nam.
Lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài với chúng ta ngày càng tăng,
chúng ta đã thoát khỏi thời kỳ mặc dù nhà nước cho phép đầu tư nước ngoài
nhưng các nhà đầu tư vẫn ngần ngại không dám đầu tư. Hiện nay, chúng ta đã
tuân thủ các qui định của khu vực và quốc tế, thay đổi hệ thống chính sách cho
phù hợp, nên các nhà đầu tư mới yên tâm đầu tư lâu dài vào Việt Nam.
Nhờ sự có mặt của các doanh nghiệp nước ngoài mà chúng ta có cơ hội
học tập kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm kinh doanh tiến tiến của các nước,
đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Bởi người Việt Nam vốn mang tính cách
cần cù theo kiểu tiểu nông, mà ít chiến lược, do đó, đây là cơ hội để thay đổi
tác phong làm việc cũng như nếp nghĩ vốn đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt
từ lâu đời.
Khi hội nhập vào các liên kết kinh tế như vậy, một điều tất yếu là nhà
nước phải hoàn thiện chính sách pháp luật, đây không chỉ là cơ hội cho nhà


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

đầu tư nước ngoài mà còn là cơ hội cho chính những nhà đầu tư Việt Nam. Các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ có môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định, đồng
thời tạo đầu ra thuận lợi. Vì có lợi thế về vị trí địa lý, do đó Việt Nam và Trung
Quốc rất thuận lợi cho các ngành vận tải. Vì thế xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ
tiết kiệm được nhiều chi phí hơn so với các nước châu Âu. Và cũng khắc phục
được hạn chế của ASEAN (do cơ chế kinh tế của các nước ASEAN giống nhau
nên không tận dụng được lợi thế của nhau, quan hệ thương mại chủ yếu là
cạnh tranh, ít có sự bổ sung hỗ trợ cho nhau). Trung Quốc sẽ mở ra một thị
trường rộng lớn và mới mẻ.
Hiện nay Trung Quốc đang là một nước phát triển rất nhanh và có nhiều
thành tựu khoa học kỹ thuật. Trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ là một

thế lực kinh tế mới trên thế giới. Vì khoa học kỹ thuật chính là nền tảng của
nền kinh tế tri thức. Trung Quốc đang là một nước đạt được nhiều thành tựu về
cả công nghệ sinh học với nhiều giống cây trồng vật nuôi mới có năng suất
cao, bên cạnh đó là các ngành công nghệ thông tin cũng phát triển mạnh, hàng
điện tử Trung Quốc hiện nay cạnh tranh được với nhiều cường quốc về lĩnh
vực này như Nhật Bản, Hàn quốc, ngành dịch vụ Trung Quốc phát triển mạnh,
đa dạng phong phú về loại hình và chất lượng tốt, chiếm lĩnh được nhiều thị
trường trên thế giới… Bên cạnh đó ngành khoa học vũ trụ vốn đòi hỏi trình độ
kỹ thuật cao cũng đang rất phát triển ở Trung Quốc. Tham gia ACFTA ta sẽ có
cơ hội được tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật của đất nước giàu tiềm
năng này.
Tham gia vào liên kết kinh tế này chúng ta sẽ phải chịu những áp lực
lớn, nhưng đây lại chính là cơ hội để ta cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao tính
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo tiền đề cho chúng ta khi gia
nhập WTO, giúp ta có cơ hội để xây dựng được cơ sở hạ tầng hiện đại, đáp
ứng yêu cầu sản xuất.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

Việc tham gia ACFTA giúp các nước Đông Nam Á thêm vững mạnh và
nâng cao vị thế trên thế giới, liên kết khu vực chặt chẽ hơn, các chương trình
hợp tác được đẩy mạnh và hiệu quả hơn.
2)

Thách thức:
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp: một vấn đề lớn đối với

chúng ta vẫn là vấn đề hệ thống chính sách pháp luật, đây cũng chính là trở
ngại khi nước ta gia nhập WTO, trong khi đó cơ sở hạ tầng lạc hậu cũ kỹ, hiện

nay có nơi vẫn giữ những dây truyền sản xuất từ sau chiến tranh. Thời gian
gần đây nhà nước đã rất cố gắng tạo hành lang pháp lý thông thoáng để thu hút
đầu tư, song vấn đề thủ tục rườm rà vẫn chưa dược triệt để xóa bỏ. Do đó có
rất nhiều doanh nghiệp còn ngần ngại khi đầu tư vào Việt Nam. Chỉ số cạnh
tranh của nước ta hiện nay chỉ đứng thứ 86/125 quốc gia.
Khi ta mở cửa thị trường cũng có nghĩa là ta tham gia vào một môi
trường cạnh tranh vô cùng gay gắt kể cả đối với môi trường trong và ngoài
nước. Bởi nhiều nước có lợi thế lớn hơn ta về nhiều lĩnh vực. Trung Quốc có
rất nhiều thương hiệu lớn, làm ăn rất hiệu quả, đồng thời họ có uy tín nên thị
phần rất lớn. Chưa kể đến chính các nước trong khu vực đang rất phát triển
như Singapore, Thái Lan…Chúng ta mở cửa cho các doanh nghiệp này, họ có
lợi thế hơn cả về vốn kỹ thuật và kinh nghiệm trong các lĩnh vực thương mại
dịch vụ. Đây là sức ép đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhất là doanh
nghiệp nhà nước làm ăn trì trệ kém hiệu quả, nếu không thay đổi có thể dẫn tới
phá sản. Mặc dù hiện nay đã có sự cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tuy
nhiên nhiều doanh nghiệp vẫn làm ăn không có hiệu quả. Bên cạnh đó, thị
trường có sự biến động nhanh, các doanh nghiệp cần phải chủ động trong
chiến lược phát triển để thích nghi được với những sự thay đổi này.
Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Một phần
cũng vì trình độ khoa học công nghệ nhìn chung còn lạc hậu. Do đó năng suất
lao động chưa cao, chất lượng thấp, giá thành cao, thị trường đầu ra còn chưa


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

ổn định nên không cạnh tranh được với doanh nghiệp nước ngoài, vì vậy làm
ăn thua lỗ. Thời gian gần đây số lượng các doanh nghiệp Việt Nam tăng nhanh,
nhất là trong khu vực tư nhân và các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Tuy
nhiên sức cạnh tranh của các doanh nghiệp này chưa cao. Số doanh nghiệp
ngày một tăng, nếu tính đến cuối năm 2000 cả nước có 42288 doanh nghiệp

đã và đang hoạt động sản xuất kinh doanh , thì cũng vào thời điểm này năm
2005 là 113352 doanh nghiệp , bình quân mỗi năm trong 5 năm tăng trên 14
nghìn thực tế có hoạt động. Số doanh nghiệp ngày một tăng có sự góp mặt của
nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước và
doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Năm 2000 có 5759 doanh nghiệp Nhà nước,
thì năm 2005 chỉ có 4086 doanh nghiệp, cũng lần lượt vào hai thời điểm trên,
số doanh nghiệp ngoài Nhà nước đã tăng từ 35004 doanh nghiệp lên 105569
doanh nghiệp, còn doanh nghiệp có vốn nước ngoài cũng tăng từ 1525 doanh
nghiệp lên 3697 doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc các doanh nghiệp Việt Nam
tăng nhanh về số lượng đã khiến xuất hiện nhiều doanh nghiệp nhỏ lẻ nhất là
các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Cho nên bình quân một doanh nghiệp năm
2005 chỉ có 55 lao động và 23,7 tỷ đồng vốn (năm 2000: lần lượt hai chỉ tiêu
trên là 74 lao động, và 23,6 Tỷ đồng - nếu tính theo giá so sánh thì nhiều hơn
2005), do vậy, theo tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ là dưới 300 lao động và
vốn dưới 10 tỷ đồng, thì có tới 96,81% số doanh nghiệp nước ta thuộc nhóm
doanh nghiệp vừa và nhỏ (có tới 51,3% doanh nghiệp có dưới 10 lao động, và
41,8% doanh nghiệp chỉ có số vốn dưới 11 tỷ đồng) .


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

Quy mô doanh nghiệp phân theo thành phần kinh tế:
DNNN

DN ngoài DN có Vốn Nước

NN
ngoài
Lao động, lao động- 2000
363

30
267
2005
499
32
330
Nguồn vốn, tỷ đồng- 2000
130
3
192
2005
355
7
143
Các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Tỉ suất lợi nhuận/ bình quân
vốn năm đạt 4,4%, 27% các doanh nghiệp bị lỗ. Ngay trong khu vực các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động
cũng kém hiệu quả, nhiều chỉ tiêu đạt thấp hơn các doanh nghiệp nhà nước và
càng thấp hơn các doanh nghiệp nhà nước TW như: Tính trên 1 LĐ chỉ có
234,8 triệu đồng doanh thu thuần (doanh nghiệp nhà nước 420,8 triệu đồng),
10,4 triệu đồng thuế và các khoản nộp ngân sách ( doanh nghiệp nhà nước:
31,6 triệu đồng), và 6 triệu đồng lợi nhuận ( doanh nghiệp nhà nước: 23,9 triệu
đồng); nếu tính trên 1 đồng tài sản cố định cũng có hiện tượng như vậy, chẳng
hạn chỉ có 1,71 đồng doanh thu thuần ( doanh nghiệp nhà nước : 1,76 đồng),
0,04 đồng lợi nhuận (doanh nghiệp nhà nước: 0,13 đồng), và 0,08 đồng đóng
góp vào ngân sách Nhà nước (doanh nghiệp nhà nước: 0,13 đồng).
Sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ chưa cao. Điều này cũng xuất phát
từ việc trình độ khoa học kỹ thuật yếu kém, do đó hàm lượng tri thức trong sản
phẩm chưa cao, chất lượng dịch vụ còn nhiều hạn chế. Các mặt hàng của
chúng ta nếu không phải vì giá thành cao hơn hàng hóa dịch vụ nước ngoài thì

cũng là chất lượng chưa đảm bảo, chưa nắm bắt được tâm lý khách hàng. Ngay
cả những mặt hàng như nông sản, vốn là mặt hàng chủ đạo của chúng ta cũng
khó cạnh tranh được với Trung Quốc và Thái Lan vì họ có công nghệ cao, các
mặt hàng nông sản thường đã qua quá trình tinh chế rồi mới xuất khẩu, vì vậy
giá thành cao hơn. Ngay cả ở nước ta người tiêu dùng vẫn rất yêu thích gạo
Thái Lan vì chất lượng cao hơn hẳn. Một thực tế đáng buồn là ngay cả những


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, được coi là vựa lúa của nước ta người dân vẫn
ưa thích dùng gạo nhập khẩu, giá thành cao hơn hai, ba lần gạo sản xuất trong
nước. Chưa kể đến các mặt hàng công nghiệp khác, hàng Trung Quốc giá đặc
biệt rẻ. Trong các ngành dịch vụ, đông y vốn vẫn là lợi thế từ lâu đời của
Trung Quốc nên chúng ta cũng rất khó cạnh tranh. Ở cả Trung Quốc và Việt
Nam thuốc bắc đều được sử dụng phổ biến hơn thuốc nam. Về du lịch Trung
Quốc lại gìn giữ và cải tạo các di sản rất tốt, họ cũng rất quan tâm đến giao
thông vận tải và môi trường nên đi lại rất thuận tiện, môi trường trong lành rất
thích hợp cho đi du lịch. Ngay cả những nước trong khu vực như Thái Lan,
Indonesia, Singapore… cũng đầu tư rất nhiều và hiệu quả cho dịch vụ du lịch.
Ngành du lịch của họ rất phát triển, nổi tiếng trên thế giới, thu hút nhiều khách
tham quan nước ngoài, một luồng ngoại tệ lớn được chu chuyển vào các nước
đó thông qua lĩnh vực dịch vụ này. Nhiều nước có hệ thống giao thông vận tải,
bến cảng,… hiện đại, hệ thống siêu thị lớn, cơ cấu giáo dục, y tế tiên tiến, khoa
học,… tạo cho họ sức cạnh tranh lớn trên thị trường, vì thế mà gây khó khăn
lớn cho nhiều ngành dịch vụ nước ta. Một số ngành dịch vụ khác họ lại giàu
kinh nghiệm hơn ta, cơ sở vật chất tốt hơn ta cho nên cần phải rất thận trọng
thì mới đủ khả năng cạnh tranh với họ.
Một vấn đề luôn được nhắc đến nhiều trong mọi đề tài đó là vấn đề
nguồn nhân lực. Trước đây ta luôn tự hào vì có nguồn lao động dồi dào nhưng

khi hội nhập và trong thời kỳ kinh tế tri thức như hiện nay thì đó không còn là
một thế mạnh như trước nữa. Chúng ta thiếu hẳn nguồn nhân lực cao cho hội
nhập. Nói đến vấn đề nguồn nhân lực ta thấy rất nhiều tồn tại:
Thứ nhất, đó là sự mất cân bằng trong đào tạo, hiện nay nước ta rơi vào
tình trạng thừa thầy thiếu thợ do quan điểm không đúng về vấn đề bằng cấp.
Hiện nay rất nhiều sinh viên ra trường không có việc làm, mà trong nhiều nhà
máy lại thiếu nguồn công nhân kỹ thuật cao, lành nghề.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

Thứ hai, đó là trình độ quản lý chưa cao. Có một thời kỳ chúng ta
thường đưa những người lão thành lên làm lãnh đạo, nhất là trong các doanh
nghiệp nhà nước, tất nhiên họ có nhiều kinh nghiệm hơn, nhưng không hẳn đó
là kinh nghiệm quản lý. Nhiều người có quan điểm lỗi thời không phù hợp với
quá trình hội nhập cạnh tranh rất khắc nghiệt như hiện nay. Trong khi những
người trẻ mới lên lại chưa đủ kinh nghiệm để cạnh tranh với những nhà quản
lý lão làng của nước ngoài. Vấn đề này sẽ dần được khắc phục trong thời gian
tới.
Thứ ba, đó là hiểu biết về luật pháp, đây là một vấn đề rất nan giải,
trong khi luật pháp nước ta hiện nay lại còn tồn tại nhiều kẽ hở. Chính những
nhà đầu tư nước ngoài còn am hiểu luật pháp Việt Nam hơn cả người Việt.
Trong khi nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn không rõ, không hiểu cả luật
nước mình nên rất dễ bị lợi dụng, chúng ta đã từng phải chịu nhiều thiệt thòi
do thiếu hiểu biết về pháp luật. Hơn nữa, trong quá trình tham gia các liên kết
kinh tế có rất nhiều các cam kết cần thực hiện. Do đó, các doanh nghiệp không
nắm bắt về luật sẽ gặp nhiều bất lợi. Tuy nhiên, một thực tế cho thấy là hiện
nay ở nhiều trường kỹ thuật, luật chưa phải là bộ môn được đưa vào giảng dạy.
Mặt khác công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn gặp khá nhiều khó
khăn. Bên cạnh đó, người Trung Quốc hiểu rất rõ về phong tục tập quán cũng

như thói quen kinh doanh, pháp luật nước ta. Do đó các doanh nghiệp Việt
Nam cần hết sức cẩn trọng mới cạnh tranh được với họ. Một phần cũng do
thiếu hiểu biết về pháp luật cho nên các sản phẩm của chúng ta khi xuất khẩu
đã chưa tính đến chi phí môi trường, dẫn đến bị kiện bán phá giá, áp thuế
chống bán phá giá, càng gây khó khăn cho người sản xuất.
Hiện nay tính tích cực của người lao động chưa cao, vẫn còn tác phong
trì trệ, ỷ lại, nhất là trong các doanh nghiệp nhà nước, vẫn còn hiện tượng đùn
đẩy công việc cho nhau, tinh thần hợp tác tập thể để làm việc hiệu quả vẫn
chưa tốt.


Tiểu luận môn Quan hệ kinh tế quốc tế

Một khó khăn nữa là do thực hiện các cam kết ta phải cắt giảm thuế
quan, do đó một số ngành không còn được bảo hộ như trước, vì vậy rất khó
khăn khi cạnh tranh.Trong khi đó hàng hóa dịch vụ Trung Quốc lại rất rẻ, phù
hợp với số rất đông người tiêu dùng thu nhập thấp ở nước ta.


×