Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Quy định của pháp luật tố tụng hinh sự về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.91 KB, 58 trang )

1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trên con đường đổi mới để xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều
đó, một yêu cầu đặt ra đối với luật pháp là phải đảm bảo quyền con người, bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Điều 50 Hiến pháp 1992 quy
định: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.”
Trong những năm gần đây, khi sự nghiệp đổi mới được Đảng ta khởi
xướng, thì vấn đề mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
(XHCN), bảo vệ có hiệu quả các quyền công dân và quyền con người ngày càng
là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Do vậy, việc xây dựng Nhà nước vững
mạnh với hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và những điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội thuận lợi là mục tiêu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) ra đời ngày 26/11/2003 “đã đáp ứng
được yêu cầu bảo vệ XHCN, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, xử lý kiên quyết mọi hành vi phạm tội”. Các hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm dân chủ, công
bằng xã hội. Trong số những người tham gia tố tụng thì người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là người có vai trò trung tâm. Vì các hoạt động và các hành vi tố tụng của
các cơ quan và người tham gia tố tụng hình sự (TTHS) đều xoay quanh nhiệm
vụ là chứng minh họ có tội hay không có tội. Vì vậy, việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân trong TTHS trước hết phải nói đến việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chế định quan trọng


2


của luật TTHS, không những được thừa nhận ở Việt Nam mà còn được thừa
nhận rộng rãi tại các quốc gia trên thế giới. Đây là một nội dung quan trọng
trong việc bảo đảm quyền con người.
Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy, các cơ quan tiến hành tố
tụng chưa thực sự tôn trọng và bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, nhiều cơ quan còn coi nhẹ nguyên tắc này, thực hiện chưa thực sự
nghiêm túc, có nhiều vi phạm, làm cho người dân vô tội bị kết tội oan, bị áp
dụng hình phạt quá nặng. Trong khoa học pháp luật TTHS, vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo vẫn chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống;
các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền bào chữa thì chưa được xác định cụ thể,
chi tiết dẫn đến việc khó thực hiện nguyên tắc trong thực tế.
2. Mục đích nghiên cứu của khóa luận
Mục đích của em khi lựa chọn đề tài này là nghiên cứu nhằm làm rõ một
số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo; làm rõ nội dung và sự thể hiện của nguyên tắc trong
pháp luật TTHS hiện hành; nghiên cứu thực trạng thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; tìm hiểu những hạn chế,
vướng mắc và nguyên nhân của chúng, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp
khắc phục hạn chế, góp phần nâng cao hiệu quả, tính khả thi của nguyên tắc
trong các giai đoạn tố tụng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đề ra, em sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp thống kê hình sự… nhằm phân tích rõ nội dung của nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và thực tiễn thi
hành nguyên tắc. Từ đó góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo.



3
4. Cơ cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khoá
luận được chia thành ba chương, bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Chương 3: Thực tiễn thi hành nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các giải pháp nâng cao hiệu quả nguyên tắc
này trong tố tụng hình sự.


4

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN,
BỊ CÁO
1.1 Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
1.1.1 Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo
* Khái niệm quyền bào chữa
Trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử, Nhà nước luôn có những quy
định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của công dân. Những quyền đó được Nhà
nước bảo đảm thực hiện, đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ phải tôn trọng và
bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền
công dân chính là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật, trong đó có

quyền bào chữa. Quyền bào chữa được ghi nhận trong BLTTHS là cần thiết,
giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được khách quan và tránh được
việc làm oan người vô tội.
Để hiểu khái niệm “quyền bào chữa”, trước hết phải hiểu khái niệm “bào
chữa” là gì? Bào chữa theo nghĩa chung nhất là hành vi của một người đưa ra
các bằng chứng chứng minh cho sự không có lỗi của chính mình (tự bào chữa)
hoặc của người khác (bào chữa cho người khác) [12]. Quyền bào chữa là một
chế định quan trọng trong luật TTHS và cho tới nay nó vẫn còn cần được làm
sáng tỏ từ góc độ lý luận, làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa trong TTHS, một trong những điều kiện để TTHS đạt hiệu quả
cao.
Về khái niệm quyền bào chữa trong TTHS, hiện nay có nhiều quan điểm
khác nhau :


5
Quan điểm thứ nhất cho rằng : “Quyền bào chữa thuộc về bị can, bị cáo” [2].
Quan điểm thứ hai được đề cập trong các sách báo pháp lý là quan điểm
của Luật sư, PGS.TS Phạm Hồng Hải. Theo ông: “Trong TTHS, sự buộc tội đôi
khi xuất hiện cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có
người bị tạm giữ và kết thúc khi TTHS kết thúc. Tất nhiên, bào chữa cũng xuất
hiện khi xuất hiện sự buộc tội và kết thúc khi sự buộc tội kết thúc. Điều đó có
nghĩa rằng trong TTHS, quyền bào chữa thuộc về các đối tượng sau: người bị
tạm giữ (người bị nghi phạm tội), bị can, bị cáo, người bị kết án”. Từ nhận xét
đó, ông đưa ra khái niệm tổng quát về quyền bào chữa trong TTHS như sau:
“Quyền bào chữa trong TTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định
của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ
quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của
mình trong vụ án hình sự” [3, tr.29].

Quan điểm thứ ba là quan điểm trong BLTTHS năm 2003: Quyền bào
chữa thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Ngoài những quan điểm trên, trong luật TTHS của các nước trên thế giới
cũng có những quan điểm rất khác nhau về chủ thể của quyền bào chữa.
Trong luật TTHS một số nước thuộc hệ thống pháp luật Commomlaw:
TTHS được coi là bắt đầu từ thời điểm vụ án hình sự được chuyển sang Toà án
và quyền bào chữa chỉ thuộc về bị cáo.
Trong BLTTHS Liên Bang Nga, tại khoản 1 Điều 16 quy định: “Người bị tình
nghi và bị can được bảo đảm quyền bào chữa. Họ có thể tự mình bào chữa hoặc
nhờ sự giúp đỡ của người bào chữa và (hoặc) người đại diện hợp pháp”.[8, tr11]
Theo BLTTHS Nhật Bản thì quyền bào chữa chỉ thuộc về người bị tình
nghi, bị cáo. Điều 30 Bộ luật này quy định: “Bị cáo hoặc người bị tình nghi có
thể lựa chọn luật sư bất cứ lúc nào” [14].
Như vậy, khái niệm về quyền bào chữa trong TTHS đã được hiểu rất khác
nhau và thực tế đã được quy định khác nhau trong luật TTHS của các nước. Để


6
tìm hiểu rõ hơn về các quan điểm trên, trước hết chúng ta hãy đi tìm hiểu khái
niệm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người bị tạm giữ: “Là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và
đối với họ đã có quyết định tạm giữ”. (khoản 1 Điều 48 BLTTHS năm 2003)
Bị can: “Là người bị khởi tố về hình sự”.(khoản 1 Điều 49 BLTTHS năm 2003)
Bị cáo: “Là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử”. (khoản 1 Điều
50 BLTTHS năm 2003)
Bị can bị buộc tội bằng quyết định khởi tố bị can, đề nghị truy tố của cơ
quan điều tra (CQĐT), bản cáo trạng của Viện kiểm sát (VKS) và phải chịu
những hậu quả pháp lý nhất định như: bị áp dụng các biện pháp điều tra theo
luật định, bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp cưỡng chế khác…

Bị cáo bị buộc tội bằng bản án của Tòa án và có thể phải chịu hình phạt…
Người bị tạm giữ tuy chưa bị buộc tội bằng một văn bản có tính chất pháp lý
nhưng đối với họ đã có quyết định tạm giữ và họ đã bị áp dụng biện pháp cưỡng
chế tố tụng là tạm giữ.
Từ sự phân tích ở trên, chúng tôi thấy rằng: quan điểm quy định tại Điều
11 của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về chủ thể quyền bào chữa là hoàn toàn
chính xác và chúng tôi đồng ý với quan điểm này. Quyền bào chữa chỉ thuộc về
những chủ thể: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo - những người có thể bị buộc tội,
với nội dung: đưa ra những chứng cứ chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm
nhẹ tội cho mình. Ngoài những chủ thể trên, những người khác không chịu sự
buộc tội thì không có quyền bào chữa; để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, họ có thể sử dụng những quyền năng khác được pháp luật quy định và
đảm bảo thực hiện.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi đưa ra khái niệm về quyền bào
chữa trong TTHS như sau: “Quyền bào chữa trong TTHS là tổng hoà các hành
vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện trên cơ sở phù hợp với
các quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội


7
của các cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình
sự của mình trong vụ án hình sự”.
* Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một trong các
quyền tố tụng cơ bản của công dân, chế định này là cơ sở để quy định nguyên
tắc: bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Điều 11
BLTTHS Việt Nam năm 2003 quy định: “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện

quyền bào chữa của họ”.
Việc pháp luật quy định bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là một nguyên tắc trong TTHS xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền
con người, bảo đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án.
Từ nhận xét nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa như sau:
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là tư tưởng chủ đạo, có tính bắt buộc chung, được quy định trong luật TTHS,
trong đó xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa, đồng thời quy định các cơ quan tiến hành tố tụng có
nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào
chữa của họ theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo
* Ý nghĩa chính trị
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có ý nghĩa chính trị sâu sắc.
Nó là một trong những nguyên tắc hiến định quan trọng được ghi nhận ở
Điều 132 Hiến pháp 1992 và được quy định cụ thể hơn tại Điều 11 BLTTHS.


8
Việc quy định bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong BLTTHS chứng tỏ ở nước ta, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, các quyền
công dân ngày càng được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.
Thứ hai, thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo chính là việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
Với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, chúng ta đã đạt được
những thành quả to lớn, đặc biệt là phát huy toàn diện quyền tự do dân chủ của

công dân, bảo đảm các quyền của con người. Việc Hiến pháp và các văn bản
pháp luật ghi nhận quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thành
một nguyên tắc và quy định cơ chế bảo đảm việc thực hiện đã chứng tỏ bản chất
dân chủ của Nhà nước ta luôn lấy con người là mục tiêu, trung tâm và là động
lực cho sự phát triển của đất nước.
Thứ ba, thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là sự thể hiện rõ nét quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta.
* Ý nghĩa xã hội
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật. Một trong những quyền của công dân khi tham gia
TTHS với tư cách là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền bào chữa. Quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một biểu hiện của nền dân chủ
XHCN, góp phần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham
gia tố tụng; làm cho công tác điều tra, xử lý vụ án được chính xác, khách quan,
toàn diện và đầy đủ. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo là nguyên tắc mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể hiện tính nhân đạo
trong TTHS Việt Nam. Pháp luật TTHS không chỉ quy định việc bảo đảm quyền
tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa mà trong một số trường hợp nhất định cơ


9
quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm có sự tham gia của người bào chữa, như: bị
can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy
định trong Bộ luật hình sự; bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
là một biểu hiện của tính dân chủ trong hoạt động TTHS. Do là người có nguy

cơ bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội nên người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thường tham gia tố tụng một cách thụ động. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa đã tạo điều kiện thuận lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có cơ hội
đưa ra những chứng cứ cần thiết, lưu ý cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tình
tiết minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho mình theo quy định của pháp luật, có cơ hội
được tranh tụng bình đẳng trước Toà án.
Việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo góp phần tích cực vào việc bảo vệ pháp chế XHCN, củng cố lòng
tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của hệ thống tư pháp hình sự.
* Ý nghĩa pháp lý
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
được thực hiện trên thực tế chính là việc thực hiện chức năng cơ bản của luật
TTHS. Đó cũng là biểu hiện cụ thể của yếu tố tranh tụng trong TTHS, điều mà
Nghị Quyết 08 của Bộ chính trị ngày 02/01/2002 về công tác tư pháp đòi hỏi cần
được thực hiện trong hoạt động tư pháp hình sự, đặc biệt là trong hoạt động xét
xử hiện nay.
Việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm
trong quá trình tố tụng không để lọt kẻ phạm tội, không làm oan người vô tội,
đảm bảo điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thực
hiện nguyên tắc này một cách có hiệu quả sẽ hạn chế tối đa tình trạng oan sai
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.


10
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng, việc quy định nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa là cơ sở pháp lý đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của các
quyết định tố tụng mà các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra. Trong bất cứ giai
đoạn nào của TTHS, các cơ quan tiến hành tố tụng đều phải làm việc dựa trên
nguyên tắc tôn trọng sự thật khách quan. Muốn vậy thì các cơ quan này phải

đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử. Chứng cứ rút ra từ những lời khai của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo kết hợp với những chứng cứ khác giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng xác định họ có tội hay không có tội.
1.2. Sơ lược lịch sử nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can. bị cáo
1.2.1 Giai đoạn từ khi cách mạng tháng Tám thành công (năm 1945)
cho đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, nhiệm vụ của Nhà nước non trẻ lúc này là củng cố chính quyền, kịp
thời ban hành pháp luật cách mạng làm vũ khí chống lại thù trong giặc ngoài,
xây dựng xã hội mới. Mặc dù trong những ngày đầu cách mạng mới thành công
có biết bao nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó có nhiệm vụ đấu tranh chống các
loại tội phạm, nhưng chính quyền dân chủ nhân dân vẫn rất quan tâm tới nhiệm
vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền bào
chữa trước Toà án.
Ngày 13/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33C về việc
thành lập các Toà án quân sự. Đoạn 4 Điều 5 sắc lệnh này quy định: “Bị cáo có
thể tự bào chữa hay nhờ người khác bênh vực cho họ”.
Ngày 10/10/1945, Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 46-SL quy định tổ chức
các đoàn thể luật sư. Theo quy định tại Điều 2 Sắc lệnh này thì: “Các luật sư có
quyền bào chữa ở tất cả các Toà án hàng tỉnh trở lên và trước tất cả các Toà án
quân sự”.


;;
PZ %6
d (
2


C/ ;SRPO !*

*+ pQ !
[

+

3 2 CU

H,

Y A 3 2 !3

? @H2 %+0 C

> 2
#

(

M

)

* 01
3

> 2

2


>
3

Z

U CD

#

>

3

5+ *

3' N4

3

%+0 C

4

5+ *

3

AA:P'
3


2 A 3 2 5+
!

3

!* 5+ *

I 3

Y

C '

PZ %6

*+ 8

%

C/ =;

PZ %6

%+0 C

3

,


.

T'

: $ 1 21 "

;
3 9*+

+

, 5+ *

!

D
+

>

C/ 1

(

3 ;pR9=R;( ! $ ? @N> 2

5+ ! 6 5+


%3

E

A2

4 1 21 %+0

#

)

B Z 1 K

B 2

5+
4 2

, , 5+ *
2 !"

)

#

j

1T'


A 3 2 ' A+
#

1 2

6

4 !6 2 5+ *

2
3

w

, 5+ *

, 1 21 %+0 AA:P C + 2

1 21 %_

(

+

_

Z 5+

& %3 %+0

V

)

U 4

, ,

5+

: $ 1 21 ;
+

Z !* 5+ *

* 01 $
3

#

>

2 '
( =
5+ *

3
I


#

*+ Qy : $ 1 21 "

# %

.

!0 %-

-+

> 2

B 2

+

+!6

%>
%3

4

1 21 %+0

:g H 7 b

0


>

? @I

> 2

+

4

5+ *

2

(
>

Ce X 6 I
Z

3
C !

!

* 4

$ 1 21' H~
#


!

> 2

6

!* 5+ *

C %3 *
5+ *

3

,
#

3

4

5+ *

3

C/

+

Z


d s

2 B + 1 21 %+0

4

'H

>

?@
T m;

+

)

) %+0 C T'

)

Z

;
#
5+2 E
%+0 AA:P


> 2
1 2

) 5+

>

!3

3

X6 I

';vyn I #

: $ 1 21 ;6
6

+
'

Z

4

4


12

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
sai thống trị. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII khoá II
(8/1955) đã xác định: “Đường lối củng cố miền Bắc của ta là: củng cố và phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội”.
Pháp luật TTHS trong thời kỳ này ở miền Bắc đã một lần nữa ghi nhận
quyền bào chữa của bị cáo. Điều 101 Hiến pháp 1959 quy định: “Quyền bào
chữa của người bị cáo được bảo đảm”. Như vậy, so với Hiến pháp 1946, Hiến
pháp năm 1959 có tiến bộ hơn là, không chỉ quy định bị cáo có quyền bào chữa
mà còn khẳng định cả cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Cùng với sự
ra đời của Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 15/07/1960 quy định
cụ thể hơn nữa quyền bào chữa của bị cáo là: “Quyền bào chữa của bị cáo được
bảo đảm, ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ luật sư bào chữa cho
mình. Bị cáo cũng có thể nhờ một công dân được đoàn thể nhân dân giới thiệu
hoặc được Toà án nhân dân (TAND) chấp nhận bào chữa cho mình. Khi cần
thiết, TAND chỉ định người bào chữa cho bị cáo.”
Mặc dù tới trước khi ban hành BLTTHS năm 1988, quyền bào chữa của bị
can chưa được thừa nhận và thể chế hoá trong các văn bản pháp luật, nhưng so
với thời kỳ trước thì quyền bào chữa của bị cáo cũng có những điểm khác biệt,
tiến bộ và thể hiện tính chất dân chủ hơn.
Trong bản hướng dẫn trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự (kèm theo Thông
tư số 16 – TAND ngày 27/08/1974 của Toà án nhân dân tối cao) khẳng định,
quyền bào chữa là quyền quan trọng nhất của bị cáo nên TAND phải bảo đảm
cho họ thực hiện đầy đủ quyền đó và nghiên cứu lời bào chữa một cách khách
quan. Bản hướng dẫn đã quy định ba trường hợp bắt buộc phải có sự tham gia
của người bào chữa trong giai đoạn xét xử, đó là các trường hợp sau:
+ Bị cáo có thể bị phạt tù chung thân hoặc tử hình;



13
+ Bị cáo là vị thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất, tâm thần
(ví dụ: có bệnh động kinh hoặc trước khi phạm pháp, kẻ phạm pháp đã bị điên
nhưng đã chữa khỏi…) mà phạm pháp nghiêm trọng;
+ Vụ án có tính chất quan trọng, phức tạp và có ảnh hưởng lớn trong dư
luận của nhân dân.
Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức TAND năm 1981 quy định quyền bào
chữa trong TTHS về căn bản giống quy định trong Hiến pháp 1959 và Luật tổ
chức TAND năm 1961. Trong điều kiện chưa có BLTTHS, nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo đã được cụ thể hoá trong một số Thông tư hướng dẫn
và bản tổng kết công tác năm của Toà án nhân dân tối cao [3, tr.95].
Tóm lại, giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi BLTTHS năm 1988 có hiệu
lực pháp luật là giai đoạn dân tộc ta tiến hành cuộc cách mạng thống nhất đất
nước. Trong giai đoạn này, sự phát triển của chế định quyền bào chữa trong
TTHS luôn luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội của đất nước.
Mặc dù còn rất nhiều khó khăn nhưng chế định bào chữa vẫn tiếp tục phát triển
theo hướng dân chủ và ngày càng hoàn thiện hơn, thể hiện tính nhân đạo và dân
chủ trong pháp luật TTHS của nước ta. Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo đã
trở thành nguyên tắc hiến định, được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác. Tuy nhiên, những quy định về quyền bào chữa trong thời kỳ này
vẫn còn những hạn chế, như chỉ coi quyền bào chữa là của bị cáo. Do vậy việc
bào chữa thường chỉ được thực hiện ở giai đoạn xét xử.
1.2.2 Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời cho đến
trước năm 2003
Bộ luật TTHS đầu tiên của nước ta được Quốc hội khoá VIII kỳ họp thứ 3
thông qua ngày 28/06/1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989. Đây là
một bước tiến lớn trong lịch sử lập pháp TTHS ở nước ta. Sự ra đời của
BLTTHS đã đánh dấu một bước phát triển mới, quan trọng trong việc từng bước
hoàn thiện chế định bào chữa, nó đánh dấu sự thay đổi về chất của nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa. Tại Điều 12 BLTTHS năm 1988, có quy định về



14
nguyên tắc này như sau: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án có nhiệm vụ bảo
đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.”
Như vậy, chủ thể của quyền bào chữa trong BLTTHS bây giờ không chỉ
thuộc về bị cáo mà còn thuộc về bị can. Bộ luật TTHS cũng phân biệt rõ khái
niệm bị can, bị cáo tại Điều 34. Theo đó, “bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự, bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử.” Đồng thời Điều 34
cũng khẳng định một lần nữa bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa cho mình.
Cùng với BLTTHS, Hiến pháp năm 1992 cũng xác định: “Quyền bào
chữa của bị cáo được bảo đảm.” Có thể nói lần đầu tiên, quyền bào chữa của bị
can, bị cáo được ghi nhận trong một điều luật của TTHS. Việc ghi nhận đó
chứng tỏ Nhà nước ta luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, bảo vệ mọi
quyền lợi của nhân dân.
1.2.3 Giai đoạn từ năm 2003 đến nay
Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cải cách hành
chính, cải cách tư pháp theo đường lối của Đảng, BLTTHS năm 1988 đã bộc lộ
một số mặt hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm trong tình hình mới. Bộ luật TTHS năm 2003 được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 26/11/2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2004 nhằm giải quyết
các yêu cầu trên, đồng thời cũng nhằm góp phần bảo đảm thực hiện đúng Bộ
luật hình sự năm 1999, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp 1992 đã được sửa
đổi bổ sung năm 2001.
Bộ luật TTHS năm 2003 gồm tám phần, trong đó nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa được ghi nhận tại phần thứ nhất: “Những quy định chung”.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, chủ thể của quyền bào chữa đã được mở

rộng thêm, không chỉ có bị can, bị cáo mà người bị tạm giữ cũng có quyền bào
chữa. Nhà nước cũng quy định trực tiếp các cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên


15
tắc đó. Ngoài ra, để các quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo được thống nhất, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã
ban hành Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP trong đó có hướng dẫn thi hành một
số quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Qua nghiên cứu một số khái niệm về quyền bào chữa, lịch sử hình thành
và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong luật TTHS, có thể
rút ra một số nhận xét :
+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo đã được ghi nhận trong các Điều ước quốc tế và trở thành một giá trị pháp lý
được quốc tế hoá. Quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa chính là một sự
tất yếu thể hiện xu thế của thời đại.
+ Quyền bào chữa là một trong các chế định quan trọng không thể thiếu
được của pháp luật TTHS Việt Nam. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa được
quy định xuất phát từ việc bảo đảm thực hiện quyền con người và những quyền
cơ bản kháccủa công dân. Đồng thời, việc thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng xác định được sự thật khách quan của vụ án, giúp TTHS được tiến
hành đúng mục đích, xét xử công minh, kịp thời, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội.
+ Quyền bào chữa ở Việt Nam mang tính ổn định và tính hoàn cảnh lịch
sử. Tính ổn định thể hiện: nguyên tắc bảo đảm quuyền bào chữa được ghi nhận
trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta. Tính hoàn cảnh lịch sử thể hiện ở
những bảo đảm pháp lý và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tính
toán, cân nhắc phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng giai

đoạn.


16
1.3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo với các nguyên tắc khác của Tố tụng hình sự
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với một loạt các nguyên tắc khác của TTHS.
Trong TTHS, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa gắn liền với nguyên
tắc pháp chế XHCN, được quy định ở Điều 3 BLTTHS: “Mọi hoạt động tố tụng
hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này”.
Nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi các CQĐT, VKS, TAND và những
người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng phải nghiêm chỉnh chấp
hành các quy định của BLTTHS. Nhờ đó, một mặt đảm bảo cho việc phát hiện
nhanh chóng tội phạm, mặt khác đảm bảo cho sự công bằng, đúng pháp luật, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia TTHS.
Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án được ghi nhận tại
Điều 10 và nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự được ghi nhận
tại Điều 13 BLTTHS. Nội dung cơ bản của các nguyên tắc này thể hiện ở chỗ:
các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện chức năng của mình đều phải đứng
trên quan điểm bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước khỏi bị xâm
phạm, nhanh chóng phát hiện tội phạm, áp dụng hình phạt công bằng đối với
người phạm tội. Đây là một quá trình đòi hỏi hết sức thận trọng và chính xác. Từ
đó: nếu không bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì
sự buộc tội dễ dàng chỉ là sự áp đặt thiếu dân chủ. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa và hai nguyên tắc trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa còn có mối liên hệ chặt chẽ với
nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật quy định tại Điều 9 BLTTHS: “Không ai bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật.” Nguyên tắc này không cho phép kết tội bị cáo dựa trên các giả thiết, mà


17
chỉ có thể được quyết định trong điều kiện hành vi phạm tội của bị cáo đã được
chứng minh đầy đủ. Do đó có thể thấy, nguyên tắc quy định tại Điều 9 BLTTHS
đã trở thành phương tiện rất hữu hiệu mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể
sử dụng khi cần thiết, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ nguyên tắc này.
Bảo đảm quyền bào chữa phải được thực hiện trên cơ sở bình đẳng cả về
mặt pháp lý và thực tiễn giữa các bên buộc tội và bên bào chữa trong quá trình
tiến hành các hoạt động TTHS dưới hình thức tranh tụng. Điều 19 BLTTHS thể
hiện rõ nét nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án: “Kiểm
sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của
họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa
ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án.”
Có quan điểm cho rằng: tranh tụng và bình đẳng giữa các bên tranh tụng
chỉ áp dụng cho giai đoạn xét xử mà không thể áp dụng cho giai đoạn điều tra,
truy tố. Điều này dẫn tới sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa.
Thực tế cho thấy, nếu ở giai đoạn điều tra, truy tố sự bình đẳng giữa hai bên
không được bảo đảm thì sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng ở giai đoạn xét xử và tất
yếu sẽ không có sự bình đẳng trong toàn bộ quá trình TTHS.
Yếu tố tranh tụng còn được phản ánh tương đối rõ trong các quy định
khác của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể bên buộc tội, bên bào
chữa và Toà án trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản
của công dân. Điều 4 BLTTHS quy định: “Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng,

Phó thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS, Kiểm
sát viên, Chánh án, Phó chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi
trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những


18
biện pháp đã áp dụng, kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu
xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.”
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói trên liên quan trực tiếp tới các
quyền cơ bản của công dân, nó gắn liền với quá trình tiến hành các hoạt động tố
tụng của các cơ quan có thẩm quyền như: CQĐT, VKS. Do đó, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo khi thực hiện quyền bào chữa của mình chính là làm rõ những
căn cứ cho rằng không cần thiết phải áp dụng hoặc áp dụng những biện pháp
ngăn chặn theo hướng nhẹ hơn mà vẫn bảo đảm mục đích của TTHS. Như vậy
thông qua hoạt động bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh khỏi sự thiệt hại không cần thiết trong
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc từ các hành vi vi phạm pháp luật của
những người tiến hành tố tụng.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa được thực hiện trên thực tế có mối
quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật. Nguyên tắc này được ghi nhận trong điều 52 Hiến pháp 1992 và
được cụ thể hoá trong Điều 5 và Điều 19 của BLTTHS. Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật và trước Tòa án thể hiện ở chỗ: mọi người đều được pháp
luật bảo vệ và đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi vi phạm của
mình. Sự bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng trước Toà án được đánh giá
trong mối tương quan giữa việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi
tham gia các hoạt động TTHS, không có sự ưu đãi ai hơn ai. Đối với bất kỳ
người nào, dù là Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán…có hành vi vi
phạm pháp luật đều bị xử lý. Đối với người phạm tội thì họ phải chịu trách

nhiệm hình sự dù họ là ai, ở cương vị nào, làm nghề gì. Ngược lại, với những
người không có hành vi trái pháp luật thì không ai có quyền xâm hại đến quyền
và lợi ích của họ.
Mặt khác, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật và bình đẳng trước Toà án cũng đòi hỏi ở các chủ thể tham gia TTHS
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.


19
Tóm lại có thể nói, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là nguyên tắc cơ bản và có tầm quan trọng lớn. Các nguyên
tắc khác của TTHS đều có quan hệ gắn bó mật thiết với quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; và quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo chỉ có ý nghĩa khi việc bảo đảm cho quyền đó được thực hiện đồng bộ với
việc thực hiện các nguyên tắc nêu trên.


20

Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI
BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO
2.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền tự bào
chữa và nhờ người bào chữa
2.1.1 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền tự bào
chữa
Tự bào chữa là một trong những hình thức thực hiện quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và là nội dung quan trọng của nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa trong TTHS. Tự bào chữa có nghĩa là người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo được tự mình thực hiện các hành vi tố tụng như: đưa ra các chứng
cứ, đưa ra những yêu cầu có lợi cho mình khi tham gia tố tụng.
Xuất phát từ việc bào chữa là quyền chứ không phải là nghĩa vụ, cho nên
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể bảo vệ mình một cách tích cực bằng các
hành vi như: đưa ra chứng cứ, yêu cầu, đề xuất đối chứng, nhận xét chứng cứ,
tranh luận trước Toà án. Đối với các trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng
không nên coi đây là biểu hiện của hành vi ngoan cố, chối tội của họ. Muốn xác
định được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có tội hay không có tội phải dựa trên
cơ sở đánh giá những chứng phản ánh những tình tiết khách quan của vụ án.
Quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện ở
các giai đoạn trong tố tụng hình sự, từ điều tra, truy tố đến xét xử.
Để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tự mình thực hiện quyền bào
chữa, pháp luật TTHS quy định họ có các quyền sau:
* Người bị tạm giữ có quyền được biết lý do mình bị tạm giữ
Ngay từ lúc bị bắt, họ được nghe đọc biên bản bắt người và có quyền ghi
ý kiến không đồng ý của mình vào biên bản và ký xác nhận. Khi bị tạm giữ, họ


21
được cơ quan ra lệnh tạm giữ giao bản sao quyết định tạm giữ và được giải thích
lý do.
* Bị can có quyền biết mình bị khởi tố về tội gì
Bị can cần được biết tội danh họ bị khởi tố, vì chỉ khi họ biết tội danh mà
mình đang bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội thì họ mới có thể đưa ra những
chứng cứ, lý lẽ phủ nhận việc buộc tội đó. Bị can phải được giao nhận quyết
định khởi tố bị can. Trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ thời gian, địa
điểm ra quyết định; họ tên, ngày tháng năm sinh, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia
đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình
sự; thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm. Nếu bị
can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì trong quyết định khởi tố bị can phải ghi

rõ từng tội danh và điều khoản Bộ luật hình sự được áp dụng. Trong trường hợp
có sự thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can cũng phải thông báo cho bị can
biết.
* Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được giải thích về quyền và
nghĩa vụ
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có các quyền và nghĩa vụ theo luật định
và họ phải được biết các quyền và nghĩa vụ này để có thể thực hiện. Các cơ quan
có thẩm quyền khi tạm giữ người và khi giao quyết định khởi tố cho bị can phải
giải thích các quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can cho họ biết. Chủ
toạ phiên toà phải giải thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong thủ tục bắt đầu
phiên toà.
* Người bị tạm giữ, bị can có quyền trình bày lời khai: họ có quyền trình
bày những vấn đề có liên quan đến việc họ bị bắt giữ, bị truy nã, tự thú, đầu thú
Đối với bị can, trình bày lời khai là quyền chứ không phải nghĩa vụ của
họ. Trong trường hợp họ từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối thì họ cũng
không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Ngược lại, thái độ khai báo
thành khẩn của họ lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (điểm p
khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999). CQĐT cần phải tôn trọng quyền


22
trình bày lời khai của bị can để có thể xác định sự thật một cách khách quan,
không phiến diện, không được dùng những biện pháp trái pháp luật để buộc bị
can phải khai báo. Điều này là vi phạm quyền của bị can và có thể dẫn tới sai
lầm trong kết quả điều tra.
* Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Đây là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của họ. Người bị tạm giữ có thể
đưa ra những tài liệu, đồ vật nhằm chứng minh mình không liên quan đến vụ
việc mà vì đó họ bị bắt giữ. Họ cũng có quyền yêu cầu xác minh lại sự việc, yêu
cầu CQĐT đưa ra những bằng chứng được coi là căn cứ bắt giữ họ…Bị can

cũng có quyền đưa ra những yêu cầu như: yêu cầu trưng cầu giám định, giám
định bổ sung hoặc giám định lại, yêu cầu điều tra bổ sung…Bị cáo có quyền đưa
ra tài liệu, đồ vật tại phiên toà. Bị cáo cũng có quyền đưa ra những yêu cầu như:
triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu hoãn phiên toà…
* Người bị tạm giữ có quyền khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành
vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Để tránh những sai sót trong quá trình điều tra, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, pháp luật TTHS quy định người bị tạm giữ có quyền
khiếu nại nếu thấy việc mình bị tạm giữ là sai trái và không có căn cứ; khiếu nại
các quyết định khác có liên quan như khám nhà, khám người, tạm giữ đồ vật, tài
liệu khi khám xét… Khiếu nại này được gửi cho các cơ quan có thẩm quyền
xem xét, giải quyết.
* Bị can, bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch
Việc giải quyết vụ án hình sự chỉ có thể được tiến hành một cách khách
quan khi Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký
Tòa án cũng như người giám định, người phiên dịch…công minh và vô tư. Do
vậy, để bảo đảm tính khách quan trong quá trình điều tra, truy tố, BLTTHS quy
định bị can, bị cáo có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch khi có căn cứ theo quy định của pháp luật.


23
Điều 42 BLTTHS quy định: Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
1- Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp,
người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo;
2- Họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch trong vụ án đó;

3- Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi
làm nhiệm vụ.
Ngoài việc quy định chung những trường hợp phải thay đổi người tiến
hành tố tụng, BLTTHS còn quy định việc thay đổi đối với từng chức danh tiến
hành tố tụng cụ thể tại các điều khác như: Điều 44 (Thay đổi Điều tra viên),
Điều 45 (Thay đổi Kiểm sát viên), Điều 46 (Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm),
Điều 47 (Thay đổi Thư ký Toà án), khoản 4 Điều 60 (Thay đổi người giám
định), khoản 3 Điều 61 (Thay đổi người phiên dịch).
Bị can, bị cáo phải đưa ra căn cứ rõ ràng chứng tỏ việc tiến hành hoặc
tham gia tố tụng của những người trên có thể ảnh hưởng đến việc xác định sự
thật khách quan của vụ án.
* Bị can được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi
hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ,
tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng,
quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của luật TTHS
Quyết định khởi tố bị can là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền tiến
hành những hành vi tố tụng tác động trực tiếp tới bị can. Bị can có quyền được
nhận các quyết định tố tụng có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Quyết định này nhằm tạo điều kiện cho bị can có thể thực hiện tốt quyền bào
chữa cũng như các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác của mình. Đồng thời quyết
định này cũng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết vụ án theo
đúng thủ tục pháp luật.


24
Mặc dù BLTTHS đã quy định cụ thể về quyền của bị can trong giai đoạn
điều tra nhưng trong thực tế vẫn còn xảy ra trường hợp bị can không được giao
nhận quyết định khởi tố hoặc có được giao nhận nhưng lại không được giải thích
về quyền và nghĩa vụ. Thậm chí bị can bị khởi tố, bị truy nã mà bị can vẫn
không hay biết vẫn sinh hoạt, làm việc bình thường. Đó là vụ án xảy ra tại Xí

nghiệp chế biến lâm sản Thanh Niên (Thành phố Hồ Chí Minh). Điều gây kinh
ngạc cho những người tham dự phiên toà đó là vụ án xảy ra sau thời gian mười
lăm năm, có hai bị can bị CQĐT ra quyết định khởi tố, sau đó ra lệnh truy nã,
trong khi hai đối tượng này vẫn không hay biết và “vô tư” sống ở địa phương.
Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, lợi
dụng chức danh là Phó giám đốc Xí nghiệp chế biến lâm sản Thanh Niên,
Lê Thị Minh Nguyệt đã ký nhiều khế ước vay tiền của các hợp tác xã tín
dụng. Từ tháng 4 đến tháng 8/1989, Nguyệt đã mượn được 65 triệu đồng
nhưng không đem về nhập quỹ, chi sai và chiếm đoạt 25 triệu đồng. Hành
vi của Nguyệt bị cơ quan công tố cáo buộc tội “Tham ô tài sản”. Trong vụ
án này còn có trách nhiệm liên quan của Kế toán trưởng là Võ Minh
Phụng. Phụng đã không thực hiện hết nhiệm vụ được giao, để cho Nguyệt
thực hiện hành vi phạm tội. Còn Giám đốc Nguyễn Quý Cáp cũng bị cáo
buộc là thiếu trách nhiệm nhưng vì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
của đối tượng này đã hết nên VKS nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã
ra quyết định đình chỉ đối với bị can này. Tuy nhiên, tại tòa hai bị cáo Lê
Thị Minh Nguyệt và Võ Minh Phụng cho rằng, trong thời điểm vụ án
được khởi tố, họ không hề nhận được quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can cũng như việc CQĐT ra lệnh truy nã họ. Họ cho biết, tháng 1/2006,
mới được CQĐT tống đạt quyết định khởi tố nhưng thời điểm ký là năm...
1992. Khi họ thắc mắc điều này thì một điều tra viên tên Đệ đã giải thích
là... để bổ túc hồ sơ!


25
Trong khi đó, những căn cứ mà hai bị cáo đưa ra cho thấy suốt thời gian
vụ án được điều tra, hai người này vẫn ở tại Thành phố Hồ Chí Minh. “Thời
điểm xảy ra vụ án, tôi vẫn có hộ khẩu trong Thành phố Hồ Chí Minh. Năm
1996, tôi chỉ làm thủ tục chuyển hộ khẩu từ chung cư Lý Thường Kiệt (Quận
10) đến nhà mẹ ở quận Phú Nhuận và năm 2000, tôi được cấp hộ chiếu đi du

lịch” - Bà Nguyệt cho biết.
Còn ông Phụng xác nhận: “Từ trước đến giờ tôi vẫn có hộ khẩu tại
phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1 nhưng chưa bao giờ nhận được quyết định gì
của cơ quan công an, ngoài giấy triệu tập lên làm việc. Đầu năm 1993, tôi còn
xin làm lại chứng minh nhân dân, có ai nói tôi bị truy nã đâu”.
Khôi hài hơn khi một người làm chứng vốn là đồng nghiệp của hai bị cáo
còn cho biết thêm, ông chưa hề biết đến quyết định khởi tố nào. Trong thời gian
nghỉ việc tại xí nghiệp, bà Nguyệt và ông Phụng vẫn liên hệ và tham gia một số
công tác của cơ quan chủ quản. “Tôi đã từng hỏi có bị xử lý gì không, họ đều
nói là không thấy gì”. Trước những chứng cứ chứng minh sự tắc trách của
CQĐT, Hội đồng xét xử đã ra quyết định trả hồ sơ vụ án cho VKS với yêu cầu
điều tra, làm rõ thêm những vấn đề có liên quan đến thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, xác minh việc cơ quan cảnh sát điều tra không tống đạt quyết
định khởi tố bị can, không áp dụng biện pháp ngăn chặn nhưng lại truy nã các bị
cáo [19].
* Bị can, bị cáo có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan; người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Điều này bắt buộc các chủ thể có thẩm quyền phải tuân thủ pháp luật
trong khi tiến hành tố tụng, phải tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can. Bị can, bị cáo có thể khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng của các cơ
quan, người có thẩm quyền tố tụng đến các chủ thể có thẩm quyền giải quyết.


×