Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ MAI ANH

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHÃN HÀNG HÓA TRONG
XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Chuyên nan: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ giáo
viên hướng dẫn là PGS. TS. Trần Ngọc Dũng. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
trong đề tài này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét,
đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần
tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong phần tài
liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình.



Hà Nội, ngày 1 tháng 8 năm 2015

Tác giả

Lê Mai Anh


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực
của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của
các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt khóa học cũng như thời
gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
PGS. TS. Trần Ngọc Dũng – người thầy giáo kính mến đã hết lòng giúp đỡ, tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực
hiện nghiên cứu luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến Ban Giám hiệu,
toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Pháp
luật Kinh tế và cán bộ thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn
thạc sĩ.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến bà Nguyễn Thị Hồng Vân –
chuyên viên Vụ tài chính Bộ Khoa học và Công nghệ, các anh chị em đồng
nghiệp cùng công tác tại Chi cục Quản lý thị trường Hà Nội đã cung cấp cho tôi
những số liệu quan trọng để hoàn thành luận văn, cảm ơn gia đình, bạn bè, đã
luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận

văn đã cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày 1 tháng 8 năm 2015
Tác giả

Lê Mai Anh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:.................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................................................. 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 4
6. Những đóng góp mới của luận văn ............................................................................................ 5
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................................................. 5
Chương 1.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÃN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ GHI
NHÃN HÀNG HÓA.......................................................................................................................... 6
1.1. Tổng quan về nhãn hàng hóa .................................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm nhãn hàng hóa ................................................................................................ 6
1.1.2. Vai trò của nhãn hàng hóa............................................................................................... 9
1.1.3. Phân loại nhãn hàng hóa ............................................................................................... 12
1.1.4. Phân biệt nhãn hàng hóa và nhãn hiệu hàng hóa.......................................................... 12
1.2. Pháp luật về nhãn hàng hóa Việt Nam.................................................................................. 14
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam............ 14
1.2.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhãn hàng hóa. ............................................ 17
1.2.3. Khái quát nội dung các quy định pháp luật của Việt Nam về nhãn hàng hóa. .............. 19
1.3. Pháp luật về nhãn hàng hóa của một số quốc gia trên thế giới ............................................. 21
1.3.1. Pháp luật về nhãn hàng hóa của Hoa Kỳ....................................................................... 21
1.3.2. Quy định pháp luật của Liên minh châu Âu (EU) về ghi nhãn hàng hóa. ..................... 23

1.3.3. Quy định pháp luật của Nhật Bản về ghi nhãn hàng hóa .............................................. 25
1.4. Những nguyên tắc chung của quốc tế đối với xây dựng và hoàn thiện pháp luật về nhãn
hàng hóa....................................................................................................................................... 27
1.5. Trách nhiệm của Việt Nam trong việc xây dựng pháp luật về nhãn hàng hóa phù hợp với xu
thế chung của hội nhập quốc tế.................................................................................................... 29
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NHÃN HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
.......................................................................................................................................................... 31


2.1. Quy định về phân loại hàng hóa phải ghi nhãn và không bắt buộc phải ghi nhãn................ 31
2.2. Quy định về vị trí, màu sắc, kích thước, ngôn ngữ, ký hiệu, hình ảnh, trên nhãn hàng hóa . 37
2.2.1. Quy định về vị trí ghi nhãn hàng hóa............................................................................. 37
2.2.2. Kích thước của nhãn hàng hóa ...................................................................................... 40
2.2.3. Ngôn ngữ trên nhãn hàng hóa........................................................................................ 42
2.2.4. Quy định về màu sắc của chữ, ký hiệu và hình ảnh trên nhãn hàng hóa ....................... 44
2.3. Quy định về trách nhiệm ghi nhãn hàng hóa......................................................................... 45
2.4. Quy định về nội dung và cách ghi nhãn hàng hóa ................................................................ 48
2.4.1. Quy định về nội dung cơ bản phải thể hiện trên nhãn hàng hóa ................................... 48
2.4.2. Các nội dung bắt buộc phải thể hiện trên nhãn theo tính chất của hàng hóa................ 56
2.5. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam............................ 61
2.5.1. Những thành tựu đã đạt được trong việc thi hành pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt
Nam .......................................................................................................................................... 61
2.5.2. Những sai sót, vướng mắc trong quá trình thi hành các quy định về nhãn hàng hóa.... 62
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀNHÃN HÀNG HÓA Ở VIỆT
NAM......................................................................................................................................66
3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam....................................... 66
3.2. Các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.............. 79
KẾT LUẬN...................................................................................................................................... 82
PHỤ LỤC. MỘT SỐ VĂN BẢN ĐƯỢC LIỆT KÊ TẠI MỤC 1.2.3 CỦA LUẬN VĂN
.......................................................................................................................................................... 85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 87


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới WTO, đã ký kết và chuẩn bị phê chuẩn Hiệp định tự do thương mại xuyên Thái
Bình Dương TPP. Đây là những hoạt động quan trọng giúp Việt Nam hội nhập kinh
tế thế giới, thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển. Tham gia WTO và TPP, các quốc
gia thành viên cam kết giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình, mở ra cơ hội cho Việt
Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ra thế giới cũng như hàng hóa nước ngoài được
nhập khẩu mạnh mẽ vào Việt Nam.
Hàng hóa càng phong phú về mẫu mã và chủng loại thì người tiêu dùng càng
khó lựa chọn được sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của mình. Chính vì
vậy người tiêu dùng phải làm ra nhãn hàng hóa để cung cấp một số thông tin về sản
phẩm giúp người tiêu dùng chọn lựa đúng hàng hóa phù hợp với mình. Tuy nhiên,
khi xây dựng những thông tin trên nhãn hàng hóa, không phải thương nhân nào
cũng cung cấp thông tin một cách đầy đủ và trung thực về sản phẩm của mình.
Thậm chí, một số thương nhân còn cố ý cung cấp những thông tin sai lệch hoặc
không đầy đủ nhằm gây nhầm lẫn sản phẩm của mình với sản phẩm của thương
nhân khác để tăng doanh thu bán hàng. Chính vì vậy, pháp luật phải cản thiệp vào
việc ghi nhãn hàng hóa của thương nhân để bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi
trường cạnh tranh.
Nhãn hàng hóa được quốc tế đánh giá là một trong những rào cản kỹ thuật
thị trường. Những rào cản kỹ thuật này có thể gây khó khăn cho việc xuất khẩu
hàng hóa ở những nước đang phát triển vào những nước đã phát triển và có thể bị
nước sở tại lợi dụng để cản trở việc nhập khẩu hàng hóa vào quốc gia đó. Phục vụ
cho quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu của Việt Nam, việc hoàn thiện các quy định

của pháp luật về hàng hóa, nhất là các quy định pháp luật điều chỉnh việc ghi nhãn


2

hàng hóa (việc các doanh nghiệp phải làm trước khi đưa hàng hóa ra lưu thông) có ý
nghĩa rất quan trọng.
Mặc dù ở Việt Nam, việc ghi nhãn hàng hóa đã được quy định cụ thể, chi tiết
tại Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ. Tuy nhiên, sau
mười năm thực hiện, các quy định này đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế. Một số quy
định về nhãn hàng hóa hiện hành không chỉ gây khó khăn cho các cá nhân, tổ chức
sản xuất và nhập khẩu hàng hóa tại Việt Nam trong việc tuân thủ, mà còn gây khó
khăn cho người tiêu dùng trong việc tiếp cận các thông tin trên nhãn hàng hóa.
Nhằm góp phần vào việc hoàn thiện các quy định pháp luật về nhãn hàng
hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, thương mại của Việt Nam
trong giai đoạn mới, tác giả đã chọn vấn đề “Hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng
hóa trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao
học luật của mình. Tác giả kỳ vọng công trình nghiên cứu của mình sẽ có những
đóng góp nhất định trong việc hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhãn hàng hóa là một trong những vấn đề khoa học pháp lý mà một số quốc
gia đã nghiên cứu từ lâu. Ở Việt Nam, pháp luật về nhãn hàng hóa đã được một số
tác giả quan tâm nghiên cứu và công bố thông qua các công trình khoa học:
Trong luận án tiến sỹ kinh tế “Tác động của việc thực thi Hiệp định quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam” 1, tác giả Trần Thị Hồng Minh đã đưa ra thực trạng về nhãn mác của một số
mặt hàng nông sản Việt Nam.
Trong luận án tiến sĩ kinh tế “Đổi mới hoạt động hải quan đáp ứng yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế”2, tác giả Nguyễn Phạm Hải đã đưa ra một số nghiên cứu
về pháp luật ghi nhãn hàng hóa của Nhật Bản như quy định về nhãn mác, đóng gói,


1

Trần Thị Hồng Minh (2012), Tác động của Việc thực thi Hiệp định quyền sở hữu trí tuệ liên quan
đến thương mại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện khoa học
xã hội Việt Nam, tr.83-84.

2

Nguyễn Phạm Hải (2012), Đổi mới hoạt động hải quan đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án
tiến sĩ kinh tế, Viện khoa học xã hội Việt Nam (học viện khoa học xã hội), tr.58.


3

ký mã hiệu và dán nhãn hàng hóa đúng quy định và khẳng định ý nghĩa quan trọng
của việc dán nhãn đúng quy định tới việc thông quan nhanh chóng tại Nhật Bản.
Hoặc trong phần Các quy định về kiểm soát kỹ thuật của luận án tiến sỹ
“Hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào đến năm 2020”3, tác giả Phongtisouk SiphomThaviboun đưa ra một số thực
trạng về pháp luật ghi nhãn hàng hóa của Lào.
Bên cạnh đó còn một số bài nghiên cứu khác như: “Tình trạng vi phạm quy
chế Tem, nhãn hàng hóa ở Bắc Giang” 4 của tác giả Trần Hùng đăng tải trên Tạp chí
thương mại số 36, 2005. Đa số các công trình nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến
thực tế thi hành pháp luật về nhãn hàng hóa của Việt Nam và một số quốc gia mà
chưa xây dựng được một hệ thống lý luận, cũng như đưa ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.
Mặc dù được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật từ những năm
1997-2000, nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách chuyên sâu về pháp luật ghi nhãn hàng hóa.

Trên cơ sở kế thừa những nội dung tương đồng trong các công trình nghiên
cứu trên. Tác giả xây dựng bài viết về nhãn hàng hóa là công trình đầu tiên nghiên
cứu chuyên sâu về nhãn hàng hóa. Tác giả kỳ vọng bài viết sẽ mang lại nhiều đóng
góp tích cực cho việc xây dựng pháp luật về nhãn hàng hóa trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của luận văn là đề xuất phương hướng và những giải pháp thích
hợp cho việc hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa và thực thi có hiệu quả các quy
định pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả luận văn thực hiện những nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:

3

Phongtisouk Siphom Thaviboun (2011), Hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào đến năm 2020, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường Đại học kinh tế quốc dân, tr.53.

4

Trần Hùng (2005), Tình trạng vi phạm quy chế tem, nhãn hàng hóa ở Bắc Giang, Tạp chí Thương mại, (36),
tr. 21.


4

- Trình bày những vấn đề lý luận về nhãn hàng hóa và pháp luật về nhãn
hàng hóa;
- Đánh giá thực trạng pháp luật của Việt Nam về nhãn hàng hóa và thực tiễn
thi hành các quy định pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.
- So sánh đánh giá những hạn chế các quy định của pháp luật Việt Nam với
các quy định quốc tế và xu hướng hoàn thiện pháp luật chung về nhãn hàng hóa

trong tiến trình hội nhập quốc tế, từ đó rút ra phương hướng, giải pháp cụ thể để
hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài có nội dung nghiên cứu rộng và phải giải quyết nhiều vấn
đề phức tạp. Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp cao học Luật, tác giả
luận văn nghiên cứu những đối tượng cụ thể sau: Các vấn đề lý luận về nhãn hàng
hóa; Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về ghi nhãn hàng hóa; Các
đánh giá, tổng kết về tình hình thực thi pháp luật về ghi nhãn hàng hóa ở Việt Nam;
Quy định pháp luật về ghi nhãn hàng hóa của một số nước trên thế giới, của WTO
và từ đó rút ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa ở
Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả luận văn nhận định đây là đề tài có phạm vi
nghiên cứu rộng. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ của mình, tác giả chỉ tập trung
đánh giá các quy định về ghi nhãn hàng hóa tại Nghị định 89/2006/NĐ-CP ngày
30 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ về nhãn hàng hóa. Đây là văn bản có hiệu
lực pháp lý cao nhất điều chỉnh tổng thể về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã chọn, tác giả luận văn sử dụng phương
pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và các phương pháp
nghiên cứu cụ thể, phù hợp như: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu... Cụ thể là:
Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử được sử dụng trong Chương 1
khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nhãn hàng hóa và pháp luật về ghi nhãn
hàng hóa ở Việt Nam.


5

Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh… được
sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về ghi nhãn hàng hóa
ở Việt Nam.

Phương pháp so sánh luật học, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy
nạp…được sử dụng trong Chương 3 khi trình bày phương hướng và các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn có thể được coi là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu pháp
luật về ghi nhãn hàng hóa. Đặc biệt, cùng với việc viện dẫn quy định của pháp luật
nước ngoài, luận văn sẽ đưa ra những phân tích, đề xuất có tính thực tiễn và ứng
dụng cao nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của chương I đưa ra các vấn đề lý luận về nhãn hàng hóa;
giải thích ý nghĩa, các yêu cầu cần thiết đối với ghi nhãn hàng hóa.
- Kết quả nghiên cứu của chương II góp phần chỉ ra những ưu điểm, bất cập,
vướng mắc sai sót của quy định pháp luật hiện hành về nhãn hàng hóa.
- Nội dung chủ yếu của Chương III là đưa ra những giải pháp cụ thể hoàn thiện
pháp luật về nhãn hàng hóa hiện hành, các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về nhãn hàng hóa và phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp
luật về nhãn hàng hóa trong tương lai.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng
dạy ở bậc đại học và là tư liệu tốt để các nhà làm luật nghiên cứu tham khảo trong
quá trình xây dựng pháp luật về nhãn hàng hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được thể hiện ở ba chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nhãn hàng hóa và pháp luật về nhãn hàng
hóa ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam.
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt
Nam.


6


Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÃN HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT
VỀ GHI NHÃN HÀNG HÓA

1.1. Tổng quan về nhãn hàng hóa
1.1.1. Khái niệm nhãn hàng hóa
Hàng hóa trên thị trường hiện nay rất đa dạng về mẫu mã, chủng loại, kiểu
dáng, màu sắc, nguồn gốc, xuất xứ... Sự phong phú và đa dạng của hàng hóa xuất
phát từ nhu cầu ngày càng tăng cao của người tiêu dùng. Cũng chính vì sự đa
dạng đó mà không ít người tiêu dùng lúng túng trong việc chọn mua hàng hóa. Để
tránh nhầm lẫn khi mua phải những loại hàng hóa, vật dụng không mong muốn,
người tiêu dùng phải tìm hiểu thông tin về hàng hóa mình cần mua từ nhiều
nguồn thông tin khác nhau như: qua tivi, tờ rơi, bạn bè, người thân, báo chí,
internet... Tuy nhiên, các thông tin về hàng hóa trên các nguồn đó thường không
chính xác và khi trực tiếp đi mua hàng không phải người tiêu dùng nào cũng có
khả năng để tiếp cận với các nguồn thông tin trên. Vì vậy, trên hàng hóa cần có
một nguồn thông tin trực tiếp, đáng tin cậy, để người tiêu dùng có thể nhìn thấy
ngay bằng mắt thường. Đó là lý do nhãn hàng hóa xuất hiện.
1.1.1.1. Định nghĩa nhãn hàng hóa
Trong tiếng Việt, thuật ngữ “nhãn” là những điểm mà người ta nhìn thấy rõ
bằng mắt thường. “Nhãn hàng hóa” là những điểm nhìn thấy bằng mắt thường trên
hàng hóa. Trong tiếng Anh, thuật ngữ “nhãn nói chung” (label) đã được định nghĩa:
“là một mẩu giấy, vải, nhựa được gắn vào vật để cho biết vật đó là gì và cung cấp
thông tin về vật đó” 5.

Joanna Turnbull (2013), Oxford Advanced Learner’s Dictionary 8th Edition, Oxford University Press, tr.
830.

5



7

Trong khoa học pháp lý thì quan niệm về “nhãn” có sự khác biệt. Ủy ban Tiêu
chuẩn Thực phẩm Codex quốc tế (CAC) trong tiêu chuẩn ghi nhãn đối với thực
phẩm bao gói sẵn (Codex Stan 1-1985) đã đưa ra định nghĩa về “nhãn” đối với
thực phẩm như sau:
“Nhãn là thẻ, nhãn hiệu, mác, hình ảnh, hoặc các hình thức mô tả khác được
viết, in, ghi, khắc nổi, khắc chìm một cách trực tiếp hoặc gắn vào bao bì thương
phẩm” 6.
“Ghi nhãn là việc sử dụng các hình thức thể hiện như in, viết, vẽ kỹ thuật đồ
họa để trình bày trên nhãn đi kèm hoặc đính gần thực phẩm để cung cấp thông tin
về thực phẩm đó, kể cả với mục đích tăng cường tiêu thụ hoặc bán hàng” 7.
Định nghĩa của Codex Stan 1-1985 đưa ra là định nghĩa của “nhãn hàng
hóa” là thực phẩm bao gói sẵn chứ không phải là định nghĩa về “nhãn” chung cho
các loại hàng hóa. Do đó, so với định nghĩa về nhãn hàng hóa nói chung, nội hàm
của định nghĩa về “nhãn hàng hóa” tại Codex Stan 1-1985 không tránh khỏi bị giới
hạn bởi các đặc tính riêng của thực phẩm bao gói sẵn. Nhãn hàng hóa của thực
phẩm bao gói sẵn chỉ có thể gắn lên bao bì mà không thể gắn trực tiếp lên hàng hóa.
Định nghĩa về nhãn hàng hóa của Codex Stan 1-1985 ghi nhận yếu tố nhãn
hiệu trên bao bì cũng là một trong những nội dung của nhãn hàng hóa.
Luật Thương mại (2005) của Việt Nam đưa ra khái niệm về nhãn hàng hóa
như sau: “Nhãn hàng hóa là bản in, bản vẽ, bản chụp của chữ, hình vẽ, hình ảnh,
được dán, in, đúc, chạm, khắc trực tiếp trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của
hàng hóa hoặc trên các chất liệu khác được gắn trên hàng hóa, bao bì thương phẩm
của hàng hóa” 8.
Như vậy, định nghĩa về nhãn hàng hóa của Codex Stan 1-1985 và nhãn hàng
hóa tại Luật Thương mại (2005) của Việt Nam đã có sự khác nhau về nội hàm. Pháp
luật của Việt Nam không ghi nhận nhãn hiệu là một trong những nội dung của nhãn

6

Definition of terms “label”, Codex Alimentarius Commission (2010), “General standard for the labelling
of prepackaged foods (Codex Stan 1-1985, Amended 2010)”.
7 Definition of terms “labeling”, Codex Alimentarius Commission (2010), “General standard for the
labelling of prepackaged foods (Codex Stan 1-1985, Amended 2010)”.
8 Khoản 1, Điều 32 Luật thương mại Việt Nam 2005


8

hàng hóa. Luật Sở hữu Trí tuệ (2005) của Việt Nam quy định: “Nhãn hiệu là dấu
hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau” 9.
Các nhà làm luật của Việt Nam quan niệm rằng chỉ hoạt động thể hiện các nội dung
cơ bản, cần thiết về hàng hóa lên nhãn hàng hóa mới được coi là ghi nhãn hàng
hóa10. Nhãn hiệu không phải là nội dung cơ bản, cần thiết về hàng hóa, bởi vậy
không được coi là một trong những nội dung của nhãn hàng hóa.
So với pháp luật của Việt Nam, tiêu chuẩn Codex Stan 1-1985 chấp nhận việc
đính kèm các thông tin “gần” thực phẩm cũng là hoạt động ghi nhãn hàng hóa. Việt
Nam không quy định việc sử dụng các tài liệu khác đính gần hàng hóa là một trong
những hoạt động gắn nhãn hàng hóa.
Ở một khía cạnh khác, mục đích của nhãn hàng hóa theo định nghĩa của
Codex Stan 1-1985 và pháp luật về nhãn hàng hóa của Việt Nam cũng có sự khác
biệt. Bên cạnh mục đích cung cấp thông tin hay quảng cáo, thông tin trên nhãn hàng
hóa của Việt Nam còn có mục đích đó là để các cơ quan chức năng thực hiện việc
kiểm tra, kiểm soát. Điều này dẫn đến sự khác biệt trong quy định pháp luật Việt
Nam với quy định về nhãn hàng hóa của Codex Stan 1-1985 cũng như pháp luật
của các quốc gia xây dựng định nghĩa về nhãn hàng hóa theo Codex Stan 1-1985.
1.1.1.2. Đặc điểm của nhãn hàng hóa
Trên cơ sở định nghĩa về nhãn hàng hóa của Việt Nam, tác giả xác định

những đặc điểm cơ bản của nhãn hàng hóa như sau:
- Đặc điểm thứ nhất của nhãn hàng hóa là khả năng cung cấp thông tin liên
quan đến hàng hóa. Khi đưa hàng hóa ra thị trường, trên bao bì hàng hóa của mỗi
thương nhân có thể in nhiều hình ảnh, chữ viết bằng một ngôn ngữ hoặc thậm chí
nhiều ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, trong pháp luật của Việt Nam, chỉ có các nội
dung cung cấp các thông tin liên quan đến đặc tính của hàng hóa mới được coi là
nhãn hàng hóa.
- Đặc điểm thứ hai của nhãn hàng hóa đó là việc ghi nhãn hàng hóa chỉ được
thực hiện bởi thương nhân sản xuất hàng hóa hoặc thương nhân nhập khẩu hàng
9

Khoản 16, Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sửa đổi năm 2009.
Khoản 2, Điều 3 Nghị định số 89/2006/NĐ-CP.

10


9

hóa. Nhãn hàng hóa cung cấp thông tin của hàng hóa đến người tiêu dùng. Điều
này được pháp luật quy định là trách nhiệm của thương nhân sản xuất ra hàng hóa.
Bởi lẽ, chỉ có doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa mới hiểu rõ các đặc tính, tính
năng đối với hàng hóa của mình để từ đó đưa ra các thông tin, khuyến nghị cho
người tiêu dùng một cách trung thực, chuẩn xác và đầy đủ nhất. Tuy nhiên, điều
này sẽ khác trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu. Đối với hàng hóa nhập khẩu,
do chi phí để thiết kế nhãn bằng ngôn ngữ riêng của nước nhập khẩu cho sản
phẩm xuất khẩu sẽ làm tăng giá thành sản phẩm. Chính vì vậy, các doanh nghiệp
xuất khẩu (đặc biệt là các doanh nghiệp lớn xuất khẩu tới nhiều quốc gia) thường
thiết kế một nhãn chung cho tất cả các sản phẩm. Bởi vậy, trên các sản phẩm nhập
khẩu vẫn sẽ có nhãn hàng hóa, nhưng ngôn ngữ trên nhãn hàng hóa đó sẽ là ngôn

ngữ của quốc gia sản xuất ra hàng hóa hoặc ngôn ngữ quốc tế (tiếng Anh). Sự
khác biệt giữa ngôn ngữ và các quy định pháp luật về ghi nhãn giữa quốc gia
xuất khẩu và nhập khẩu sẽ gây khó khăn cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý
trong việc tiếp cận thông tin. Do đó, một số quốc gia yêu cầu thương nhân nhập
khẩu là đối tượng trực tiếp chịu trách nhiệm về chất lượng của hàng hóa, phải ghi
bổ sung một nhãn phụ bằng ngôn ngữ của nước sở tại.
- Đặc điểm thứ ba của nhãn hàng hóa là nhãn hàng hóa được thể hiện bằng cả
hai phương thức trực tiếp và gián tiếp trên bao bì sản phẩm hàng hóa.Thông thường,
các nội dung về nhãn hàng hóa được ghi trực tiếp hàng hóa hoặc trên bao bì hàng
hóa. Đó là phương thức biểu hiện trực tiếp của nhãn hàng hóa. Tuy nhiên, một số
hàng hóa vì dung lượng thông tin phải cung cấp rất lớn nhưng kích thước bao bì để
đăng tải các thông tin về hàng hóa là có giới hạn. Bởi vậy, nhiều nội dung của nhãn
hàng hóa không được doanh nghiệp thể hiện trực tiếp trên bao bì mà được thể hiện
trên các tài liệu khác liên quan đến hàng hóa (tài liệu kèm theo, catalogue hàng
hóa...). Trên bao bì của nhãn hàng hóa sẽ có nội dung dẫn chiếu đến các tài liệu đó.
Các nội dung dẫn chiếu trên các tài liệu liên quan đến hàng hóa chính là phương
thức biểu hiện gián tiếp của nhãn hàng hóa.
1.1.2. Vai trò của nhãn hàng hóa


10

Ban đầu, nhãn hàng hóa chỉ có một vai trò duy nhất là công cụ giúp nhà sản
xuất gây ấn tượng với người tiêu dùng 11. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế,
trình độ hiểu biết của người tiêu dùng, nhãn hàng hóa ngày nay có nhiều vai trò
khác nhau.
Vai trò quan trọng nhất của nhãn hàng hóa đó là cung cấp các thông tin cơ
bản về hàng hóa đến người tiêu dùng. Theo quan điểm của Triết học, mâu thuẫn
giữa sản xuất và tiêu dùng là mâu thuẫn biện chứng. Nhà sản xuất có xu hướng
muốn giảm chi phí sản xuất và tăng giá sản phẩm để tăng lợi nhuận. Trong khi đó,

người tiêu dùng mong muốn sản phẩm họ mua phải có giá thấp và có chất lượng
cao. Bởi vậy, hai chủ thể này thường có mâu thuẫn với nhau về lợi ích. Trong thực
tế, người sản xuất luôn nắm những lợi thế nhất định về hàng hóa vì họ là chủ thể
tạo ra hàng hóa, họ thường hiểu về hàng hóa do mình tạo ra nhất. Một trong những
lợi thế về hàng hóa giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng chính là những thông tin
liên quan đến hàng hóa. Vì vậy, các nhà sản xuất thường có xu hướng che giấu các
nhược điểm của sản phẩm của mình để tiêu thụ sản phẩm được nhiều hơn. Nhãn
hàng hóa là một công cụ chia sẻ thông tin về nhà hàng hóa từ nhà sản xuất tới
người tiêu dùng, giúp cung cấp các thông tin cơ bản, các chỉ dẫn đảm bảo người
tiêu dùng khai thác hiệu năng và bảo quản hàng hóa hiệu quả nhất.
Bên cạnh công dụng cung cấp thông tin cho người tiêu dùng, nhãn hàng hóa
còn là một trong những dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của thương nhân này với
thương nhân khác, là công cụ để thương nhân quảng cáo thương hiệu của mình, hạn
chế hàng giả mạo, kém chất lượng. Khi bàn về việc phân biệt hàng hóa của các
thương nhân khác nhau, chúng ta phải kể đến một công cụ quan trọng đó là nhãn
hiệu, thương hiệu. Tuy nhiên, việc sử dụng nhãn hiệu, thương hiệu để phân biệt
hàng hóa chỉ đạt hiệu quả trong trường hợp nhãn hiệu, thương hiệu được xem xét đã
được đăng ký bảo hộ độc quyền và nhãn hiệu, thương hiệu đó phải được nhiều
người biết đến.... Khi không thể phân biệt hàng hóa dựa vào nhãn hiệu, thương hiệu,
một công cụ khác để xem xét, phân biệt hàng hóa của các nhà sản xuất khác nhau
11 Paula Brewer (2013), “The history of labels”, Navitor tại địa chỉ: truy cập 16/5/2016.


11

chính là nhãn hàng hóa. Nhãn hàng hóa cung cấp những thông tin về hàng hóa
đến người tiêu dùng, trong đó bao gồm cả nội dung về tên và địa chỉ của thương
nhân sản xuất ra hàng hóa đó. Tên và địa chỉ của thương nhân sản xuất (chịu trách
nhiệm) về hàng hóa là căn cứ quan trọng để phân biệt hàng hóa của thương nhân
này với thương nhân khác.

Ngoài việc phân biệt hàng hóa giữa các thương nhân, nhãn hàng hóa còn
được các thương nhân sản xuất hàng hóa sử dụng để quảng cáo cho thương hiệu,
sản phẩm của mình. Tác giả Tony Holkham đã chỉ ra rằng: “Nhãn hàng hóa là cơ
hội để các công ty nói chuyện với khách hàng” 12. Trong bối cảnh thị trường hàng
hóa đa dạng và phong phú, nhãn hàng hóa sẽ thu hút sự chú ý của người tiêu dùng
bằng những hình ảnh, màu sắc bắt mắt. Đây cũng là mục đích ban đầu của các nhà
chiến lược kinh doanh khi tạo nên nhãn hàng hóa. Không chỉ vậy, thương nhân còn
có thể sử dụng ngôn ngữ trên nhãn hàng hóa để quảng cáo cho sản phẩm của mình
bằng phương pháp nhấn mạnh các đặc tính, đặc thù riêng của hàng hóa.
Song song với việc cung cấp các thông tin, để kiểm soát chất lượng hàng hóa,
các cơ quan quản lý nhà nước phải căn cứ vào nhiều thông tin mà một trong những
thông tin cơ bản và quan trọng là thông tin do chính nhà sản xuất cung cấp. Theo
quy định của pháp luật, mỗi sản phẩm được sản xuất hay nhập khẩu tại Việt Nam,
trước khi được đưa ra lưu thông đều phải thực hiện hoạt động ghi nhãn hàng hóa.
Trên nhãn hàng hóa có những nội dung quan trọng đáp ứng yêu cầu của cơ quan
nhà nước quản lý chất lượng hàng hóa13. Các thông tin đó là thành phần hoặc thành
phần định lượng của các chất tạo nên sản phẩm và hướng dẫn bảo quản, hạn sử
dụng của sản phẩm. Theo quy trình kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước về
chất lượng hiện nay14, các cơ quan này sẽ tiến hành thu thập mẫu sản phẩm của
doanh nghiệp, sau đó sẽ gửi mẫu đến các trung tâm kiểm nghiệm do nhà nước chỉ
định. Các trung tâm này sẽ được yêu cầu kiểm định các thành phần cấu tạo nên sản
12

Tony Holkham (1995), Label Writing and Planning – A guide to good customer communication, Nxb:
Blackie Academic & Professional, tr. VIII.
13 Điểm b, Khoản 1, Điều 32 Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007.
14 Điều 5 và Khoản 2, Điều 12 Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007.



12

phẩm và định lượng của chúng, đặc biệt là các chất chính (chất tạo nên công dụng
chủ yếu cho sản phẩm). Kết quả kiểm định này sẽ được so sánh với định lượng mà
doanh nghiệp đã ghi trên nhãn sản phẩm. Nếu kết quả kiểm định và nội dung thành
phần tương ứng được doanh nghiệp trên nhãn hàng hóa lệch nhau vượt quá mức độ
cho phép, cơ quan nhà nước về quản lý chất lượng sẽ có căn cứ để xử lý nhà
sản xuất về chất lượng hàng hóa.
1.1.3. Phân loại nhãn hàng hóa
Xuất phát từ yêu cầu ghi nhãn đối với mỗi loại hàng hóa có những điểm khác
biệt, pháp luật đặt ra một số phân loại về nhãn hàng hóa. Hiện nay, dựa trên một số
tiêu chí, chúng ta có thể phân loại nhãn hàng hóa như sau:
- Căn cứ mặt hàng được gắn nhãn hàng hóa, có thể phân loại nhãn hàng hóa
thành: nhãn hàng hóa đối với sản phẩm thuốc; nhãn hàng hóa đối với giày; nhãn
hàng hóa với bút bi; nhãn hàng hóa đối với máy tính; nhãn hàng hóa đối với
đồng hồ....
- Căn cứ vào phương thức biểu hiện nhãn hàng hóa trên bao bì hàng hóa, có
thể phân chia nhãn hàng hóa thành hai loại: nhãn hàng hóa trực tiếp và nhãn hàng
hóa gián tiếp. Nhãn hàng hóa trực tiếp là nhãn hàng hóa mà nội dung được thể hiện
ngay trên bao bì hàng hóa. Nhãn hàng hóa gián tiếp là nhãn hàng hóa được biểu
hiện trên các tài liệu kèm theo hàng hóa hoặc các phương tiện khác, sao cho các nội
dung đó được công bố công khai và rộng rãi đến người tiêu dùng.
- Căn cứ vào thứ tự ghi nhãn trên sản phẩm hàng hóa, có thể phân loại nhãn
hàng hóa thành: nhãn gốc của hàng hóa là nhãn thể hiện lần đầu trên hàng hóa; nhãn
phụ là nhãn dịch từ nội dung của nhãn gốc bằng tiếng nước ngoài ra ngôn ngữ của
nước sở tại.
- Căn cứ vào ngôn ngữ thể hiện trên nhãn hàng hóa, có thể phân biệt: nhãn
hàng hóa bằng tiếng nước ngoài, nhãn hàng hóa bằng tiếng nước sở tại, nhãn hàng
hóa song ngữ (bao gồm cả tiếng nước ngoài và tiếng nước sở tại).
1.1.4. Phân biệt nhãn hàng hóa và nhãn hiệu hàng hóa



13

Trên các phương tiện thông tin đại chúng, thuật ngữ “nhãn hàng hóa” và
“nhãn hiệu hàng hóa” được các kênh truyền thông, các chuyên gia thường xuyên
sử dụng. Tuy nhiên, người tiêu dùng phổ thông không phải ai cũng hiểu và biết về
hai thuật ngữ này. Đôi khi người ta còn nhầm lẫn cho rằng chúng là một. Vì vậy, tác
giả luận văn xây dựng một số tiêu chí để phân biệt hai khái niệm này:
-Về bản chất, “nhãn hiệu hàng hóa” được định nghĩa là dấu hiệu để phân biệt
hàng hóa của các cá nhân, tổ chức kinh doanh khác nhau. Trong khi đó, “nhãn hàng
hóa” là những thông tin về đặc tính, nguồn gốc, chất lượng hàng hóa được gắn trên
hàng hóa, bao bì thương phẩm của hàng hóa giúp người tiêu dùng khai thác có hiệu
quả giá trị sử dụng của hàng hóa.
- Về tiêu chuẩn xây dựng: việc xây dựng nhãn hiệu là quyền của thương nhân.
Thương nhân được quyền tự do sáng tạo “nhãn hiệu” cho riêng mình, miễn là không
trùng hoặc gây nhầm lẫn với “nhãn hiệu” đã được đăng ký bảo hộ của thương nhân
khác. “Nhãn hàng hóa” phải được xây dựng đúng và đầy đủ các nội dung theo
quy định của pháp luật.
- Về dấu hiệu nhận biết: Đối với “nhãn hiệu”, những dấu hiệu có thể là từ
ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều
màu sắc dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ. Khi thiết kế, “nhãn hiệu” phải không
được trùng hoặc không tương tự tới mức gây nhầm lẫn với “nhãn hiệu” của người
khác đang được bảo hộ tại Việt Nam (kể cả các nhãn hiệu đang được bảo hộ theo
các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia).
“Nhãn hàng hóa” là những thông tin được thể hiện dưới dạng văn bản (một số
nội dung được thể hiện dưới dạng biểu tượng, hình ảnh) về các nội dung: Tên hàng
hóa, xuất xứ, tên và địa chỉ thương nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa, ngày sản
xuất, hạn sử dụng, thông tin cảnh báo an toàn, hướng dẫn sử dụng, bảo quản...
“Nhãn hiệu” có nội dung ngắn, thường mang tính biểu tượng, trong khi “nhãn hàng

hóa” có nội dung dài, chủ yếu được biểu hiện bằng văn bản.
- Về phạm vi thể hiện: “Nhãn hàng hoá” rất đa dạng, với mỗi loại hàng hoá,
lô, loạt hàng hoá khác nhau sẽ lại có một “nhãn hàng hóa” khác nhau. Tức là, mỗi


14

một sản phẩm đều có “nhãn hàng hoá” riêng của mình. Về thực chất, nhãn hàng hoá
cũng chính là nhãn sản phẩm vẫn được dùng trong đăng ký chất lượng sản phẩm.
“Nhãn hiệu” có thể được dùng chung cho toàn bộ hoặc từng loại hàng hoá,
dịch vụ của một chủ sở hữu khi đã đăng ký, thậm chí các loại hàng hóa, dịch vụ này
không có liên quan tới nhau.
- Về tính chất pháp lý: “Nhãn hàng hóa” là yếu tố bắt buộc phải thể hiện trên
sản phẩm, khi chủ thể kinh doanh thực hiện kinh doanh các loại hàng hoá lưu thông
trong nước, hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Việc ghi “nhãn hàng hóa” là trách
nhiệm của chủ thể kinh doanh, được thực hiện thông qua việc đăng ký chất lượng
sản phẩm, hàng hóa. Nếu chủ thể kinh doanh không thực hiện trách nhiệm này sẽ bị
xử phạt theo quy định của pháp luật.
“Nhãn hiệu” là yếu tố không bắt buộc phải thể hiện trên sản phẩm. Việc thể
hiện “nhãn hiệu” trên sản phẩm chỉ nhằm mục đích giúp người tiêu dùng phân biệt
được sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của chủ thể này với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể
khác. Nếu được đăng ký bảo hộ, “nhãn hiệu” sẽ trở thành tài sản riêng của chủ sở
hữu và không phụ thuộc vào nhãn hàng hoá được ghi trên sản phẩm.
1.2. Pháp luật về nhãn hàng hóa Việt Nam
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về nhãn hàng hóa ở
Việt Nam
Pháp luật của Việt Nam có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài.
Dựa trên thời điểm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về nhãn hàng hóa, có
thể phân chia quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về nhãn hàng hóa ở
Việt Nam thành ba giai đoạn chính:

Giai đoạn trước năm 1997: Trước khi Quyết định số 178/1999/QĐ-Ttg của
Chính phủ được ban hành, pháp luật Việt Nam đã có một số văn bản quy định về
ghi nhãn hàng hóa 15. Các văn bản ghi nhãn hàng hóa do các bộ, ngành tự xây dựng
15

Một số văn bản có thể kể đến: Quyết định 636/TM-QLCL ngày 26/7/1996 của Bộ trưởng Bộ Thương
mại về quy chế nhãn sản phẩm đối với hàng hóa lưu thông trên thị trường; Công văn số: 1029/TCHQ-GSQL
ngày 13/5/1995 của Tổng cục Hải quan về việc nhãn, mác, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Quyết
định số: 23/TĐC-QĐ ngày 20/02/1995 về việc ban hành quy định tạm thời về ghi nhãn thực phẩm bao
gói sẵn của Tổng cục tiêu chuẩn đo lường, chất lượng.


15

nhằm thực hiện tốt hơn việc quản lý ngành hàng được phân công. Mỗi bộ, ngành
đều có quan điểm riêng trong việc xây dựng tiêu chuẩn về nhãn hàng hóa

16

.

Trong giai đoạn này, các quy định về ghi nhãn hàng hóa của các bộ ban hành có
nhiều điều khoản không thống nhất, gây nên sự lúng túng cho thương nhân
trong việc chấp hành pháp luật.
Giai đoạn từ 1997 đến 2006: Quá trình hình thành của pháp luật về nhãn
hàng hóa gắn với lịch sử phát triển của Luật Thương mại. Trước sự phát triển mạnh
mẽ của kinh tế tư nhân, năm 1997, Luật Thương mại đầu tiên của Việt Nam ra đời
đã ghi nhận quy định đầu tiên về nhãn sản phẩm: “Điều kiện đối với hàng hóa được
trưng bày, giới thiệu: phải có nhãn sản phẩm ghi rõ tên sản phẩm, tên cơ sở sản
xuất, nơi sản xuất, số đăng ký chất lượng, các đặc tính và cách sử dụng hàng hóa,

thời gian sản xuất, thời hạn sử dụng, thời hạn bảo hành (nếu có)”

17

. Tuy nhiên,

quy định này mới chỉ dừng lại ở mức độ áp dụng cho các loại hàng hóa được trưng
bày, giới thiệu.
Để thống nhất các quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa, ngày 30/8/1999,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 178/1999/QĐ-Ttg Ban hành Quy chế
Ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (Quyết
định này sau đó được sửa đổi bổ sung bởi Quyết định số 95/2000/QĐ-Ttg ngày
15/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ). Bộ Thương mại cũng ban hành Thông tư số
34/1999/TT-BTM ngày 15/12/1999 hướng dẫn quy chế ghi nhãn hàng hóa của Thủ
tướng Chính phủ. Ngay sau khi Quyết định 178/1999/QĐ-Ttg được ban hành, Thủ
tướng Chính phủ đã có văn bản đôn đốc các bộ, ngành có liên quan tổ chức rà soát,
bổ sung, hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn chi tiết việc ghi nhãn hàng hóa riêng
biệt; đôn đốc các cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện
ghi nhãn hàng hóa lưu thông trên thị trường xử lý các trường hợp vi phạm theo quy
định của pháp luật. Các văn bản pháp luật trong giai đoạn này đã chấn chỉnh các cá
nhân, tổ chức trong việc ghi nhãn hàng hóa một cách đầy đủ và chính xác. Điểm
16

Công văn số 1941/BTM-QLCL ngày 22/5/2001 của Bộ Thương mại giải đáp vướng mắc ghi nhãn hàng
hóa
17 Khoản 3, Điều 200 Luật Thương mại 1997


16


khác biệt lớn nhất trong quan niệm về nhãn hàng hóa tại quy chế ghi nhãn hàng hóa
kèm theo Quyết định số 178/1999/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ so với các
quy định hiện hành đó là pháp luật giai đoạn này thừa nhận nhãn hàng hóa là một
trong những đối tượng của sở hữu trí tuệ. Quyết định quy định một trong các
hành vi vi phạm pháp luật về nhãn hàng hóa là sử dụng nhãn hàng hóa đã được
pháp luật bảo hộ

18

(Khoản 8, Khoản 9, Điều 17). Một số cuốn sách về pháp luật

trong giai đoạn này cũng có quan điểm tương tự, chẳng hạn: “Quy định của pháp
luật về nhãn hiệu, nhãn hàng hóa lưu thông trong nước về hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu”

19

của nhóm tác giả Vũ Hồng Linh, Phạm Thanh Phong, Trương Sĩ

Thăng, Trương Tiến Dũng...
Giai đoạn 2006 đến nay: Như chúng ta đã biết, tháng 11 năm 2006, Việt
Nam đã ký kết Nghị định thư chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO. Một trong những yêu cầu của WTO là Việt Nam phải hoàn thiện chính sách
pháp lý về thương mại. Trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện các quy định của Luật
Thương mại (1997), ngày 14/6/2005, Quốc hội đã ban hành Luật Thương mại
(2005) – đó là đạo luật về thương mại thứ hai của Việt Nam. Luật Thương mại
(2005) đã đưa ra định nghĩa về nhãn hàng hóa, quy định các trường hợp phải ghi
nhãn hàng hóa, đồng thời cũng giao trách nhiệm hướng dẫn việc ghi nhãn hàng hóa
cho Chính phủ 20. Mặt khác, cũng trong giai đoạn này, Luật Sở hữu Trí tuệ (2005) –
đạo luật đầu tiên về sở hữu trí tuệ của Việt Nam được ban hành. Luật Sở hữu Trí tuệ

năm 2005 chỉ ghi nhận nhãn hiệu và các yếu tố mang tính biểu tượng, hình ảnh trên
hàng hóa là đối tượng của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chứ không ghi nhận nhãn
hàng hóa là một trong những đối tượng được bảo hộ 21. Nhằm khắc phục các mâu
thuẫn trong các văn bản pháp luật, các tồn tại, vướng mắc của việc thi hành Quy chế
số 178/1999/QĐ-Ttg trên thực tiễn, ngày 30/8/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị
18

Khoản 8, Khoản 9 Điều 17 Quyết định số 178/1999/QĐ-Ttg ngày 30 tháng 8 năm 1999 của Thủ tướng
Chính phủ Ban hành Quy chế Ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
19 Vũ Hồng Linh, Phạm Thanh Phong, Trương Sĩ Thăng, Trương Tiến Dũng (2001), Quy định của pháp
luật về nhãn hiệu, nhãn hàng hóa lưu thông trong nước về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nhà xuất bản
Chính trị quốc gia (phần lời nhà xuất bản).
20 Điều 32 Luật Thương mại 2005.
21 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005.


17

định số 89/2006/NĐ-CP về nhãn hàng hóa. Nghị định này đã xây dựng quan niệm
mới về nhãn hàng hóa dưới góc độ là các yêu cầu kỹ thuật, không còn là một trong
các đối tượng của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan
chủ trì trong công tác xây dựng khung pháp lý chung về nhãn hàng hóa. Các bộ,
ngành khác được giao nhiệm vụ phối hợp và được giao nhiệm vụ xây dựng tiêu
chuẩn ghi nhãn với hàng hóa có khả năng gây mất an toàn thuộc phạm vi quản lý
của mình. Từ đó đến nay, một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn ghi
nhãn hàng hóa đã được ban hành, thí dụ như: Thông tư số 09/2007/TT-BKHCN của
Bộ khoa học và Công nghệ; Thông tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNTBCT của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Công Thương
ngày 27/10/2014 hướng dẫn ghi nhãn hàng hóa đối với thực phẩm, phụ gia thực
phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm bao gói sẵn…. Cùng với việc ban hành
nhiều quy định hướng dẫn và tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát, pháp luật về

nhãn hàng hóa giai đoạn 2006 đến nay đã có những đóng góp nhất định trong
việc làm lành mạnh thị trường kinh doanh hàng hóa ở Việt Nam.
1.2.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhãn hàng hóa.
Một trong những nội dung quan trọng khi nghiên cứu pháp luật về nhãn hàng
hóa là nghiên cứu hệ thống pháp luật về nhãn hàng hóa. Hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về nhãn hàng hóa là tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật về
nhãn hàng hóa. Nhãn hàng hóa và cách ghi nhãn hàng hóa có mối liên hệ chặt chẽ
về nội dung và hiệu lực pháp lý. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam
hiện hành về nhãn hàng hóa bao gồm 22:
- Các văn bản luật chủ yếu đưa ra khái niệm, nguyên tắc về nhãn hàng hóa và
ghi nhãn hàng hóa;
- Các văn bản dưới Luật: các Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn
của các Bộ; các tiêu chuẩn, quy chuẩn do các Bộ, ngành soạn thảo quy định cụ thể,
chi tiết về nhãn hàng hóa, ghi nhãn hàng hóa đối với hàng hóa lưu thông trên thị
trường
22

Danh mục văn bản pháp luật xem tại Phụ lục của Luận văn


18

Nhìn chung, số lượng các văn bản quy phạm pháp luật quy định về nhãn
hàng hóa ở Việt Nam tương đối lớn. Quy định về nhãn hàng hóa của Việt Nam
được quy định trong các văn bản pháp lý có hiệu lực khác nhau. Văn bản pháp luật
có hiệu lực pháp lý điều chỉnh một cách bao quát, chi tiết, cụ thể nhất hiện nay về
nhãn hàng hóa là Nghị định số 89/2006/NĐ-CP của Chính phủ điều chỉnh khá toàn
diện, bao quát hầu hết nội dung, cách thức ghi nhãn đối với hầu hết các loại hàng
hóa. Các Nghị định, Thông tư hướng dẫn khác được ban hành chủ yếu để điều chỉnh
việc ghi nhãn đối với một số sản phẩm đặc thù cần phải ghi nhãn cụ thể, chi tiết,

như: thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, thuốc bảo vệ thực vật… Việt Nam cũng đã
xây dựng một số tiêu chuẩn tương đương với tiêu chuẩn quốc tế như Tiêu chuẩn
7087:2013 về thực phẩm bao gói sẵn tương đương với tiêu chuẩn Codex Stan 11985.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam chưa
đồng bộ. Một số quy định trong các Thông tư hướng dẫn trái với quy định tại Nghị
định số 89/2006/NĐ-CP và trái với quy định của Luật Thương mại, thí dụ như quy
định tại Điều 1, Thông tư số 14/2007/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ
trái với quy định tại Điều 14 Nghị định số 89/2006/NĐ-CP và mâu thuẫn với Luật
Bảo vệ người tiêu dùng

23

… Tình trạng văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực

thấp (Thông tư) cùng hướng dẫn nội dung và cách ghi nhãn đối với một loại hàng
hóa nhưng lại hướng dẫn nhiều hơn văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn (Nghị
định); Thí dụ Điều 12, Nghị định số 89/2006/NĐ-CP không bắt buộc phải ghi nội
dung số xác nhận công bố an toàn thực phẩm trên nhãn hàng hóa 24, nhưng Thông
tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương ngày 27/10/2014 hướng dẫn ghi nhãn
hàng hóa đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm, và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm

23

Minh Nguyệt (2007), “Ghi nhãn hàng hóa theo quy định mới: Nhiều rối rắm!”, Báo Phú Yên online tại địa
chỉ: />truy cập 18/6/2016.
24 Khoản 2, Điều 12, Nghị định số 89/2006/NĐ-CP.


19


bao gói sẵn lại buộc thương nhân phải ghi số xác nhận công bố an toàn thực phẩm
trên nhãn 25.
Các văn bản quy phạm pháp luật về nhãn hàng hóa ở Việt Nam còn chưa ổn
định. Các quy định cụ thể, chi tiết về nhãn hàng hóa ở Việt Nam chủ yếu nằm trong
các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp (Nghị định, Thông tư).
Các văn bản quy phạm pháp luật do có hiệu lực pháp lý thấp nên thường xuyên thay
đổi, điển hình như Thông tư 04/2008/TT-BYT ngày 12/5/2008 của Bộ Y tế về ghi
nhãn thuốc bị thay thế bởi Thông tư 06/2016/TT-BYT ngày 08/3/2016 của Bộ Y tế.
Cá biệt, Thông tư số 03/2013/TT-BNNPTNT ngày 11/01/2013 của Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn quy định về Quản lý thuốc bảo vệ thực vật, trong đó, hướng
dẫn ghi nhãn đối với thuốc bảo vệ thực vật chỉ sau 2 năm đã bị thay thế bằng Thông
tư số 21/2015/TT-BNNPTNT ngày 08/6/2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
Một số quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về nhãn hàng hóa chưa
phù hợp với yêu cầu quản lý, với sự phát triển của kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Hiện nay, đối với một số mặt hàng do thực tiễn quản lý cần có hướng dẫn ghi nhãn
chi tiết, cụ thể hơn, nhưng hiện nay vẫn thực hiện theo quy định tại các Thông tư cũ
căn cứ vào Quy chế Ghi nhãn tại Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg đã hết hiệu lực
như sản phẩm ngành luyện kim 26.
Pháp luật chưa có quy định cụ thể về một số loại hàng hóa cần ghi nhãn riêng
như: máy tập thể thao, kính mắt 27….
Chính vì vậy, có thể nhận thấy là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
nhãn hàng hóa ở Việt Nam chưa đồng bộ, thống nhất, đầy đủ và phù hợp với nhu
cầu quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2.3. Khái quát nội dung các quy định pháp luật của Việt Nam về nhãn
hàng hóa.
25

Điều 14 Thông tư liên tịch số 34/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT

Xem Phụ lục 2 Thông tư số 04/2000/TT-BCN ngày 30 tháng 6 năm 2000 hướng dẫn cách ghi nhãn hàng
hóa là sản phẩm các ngành sản xuất công nghiệp
27 Cục Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa – Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (2016), Báo
cáo đánh giá việc thực hiện Nghị định 89/2006/NĐ-CP về nhãn hàng hóa và đề xuất khung Nghị định sửa
đổi bổ sung.
26


20

Những nội dung cơ bản của pháp luật về nhãn hàng hóa của Việt Nam được
quy định tại Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 của Chính phủ. Nội
dung này bao gồm:
- Quy định phân loại hàng hóa phải ghi nhãn, hàng hóa không phải ghi nhãn:
Các hàng hóa lưu thông trên thị trường Việt Nam, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
đều phải ghi nhãn, trừ một số loại hàng hóa là: Bất động sản; hàng hoá tạm nhập tái
xuất; hàng hoá tạm nhập để tham gia hội chợ, triển lãm sau đó tái xuất; hàng hoá
quá cảnh, hàng hoá chuyển khẩu; quà biếu, tặng; hành lý của người xuất cảnh, nhập
cảnh; tài sản di chuyển; hàng hoá là thực phẩm tươi, sống, thực phẩm chế biến
không có bao bì và bán trực tiếp cho người tiêu dùng; hàng hoá là nhiên liệu,
nguyên liệu (nông sản, thuỷ sản, khoáng sản), vật liệu xây dựng (gạch, ngói, vôi,
cát, đá, sỏi, xi măng, đất màu, vữa, hỗn hợp bê tông thương phẩm), phế liệu (trong
sản xuất, kinh doanh) không có bao bì và bán trực tiếp theo thoả thuận với người
tiêu dùng.
- Quy định về vị trí, kích thước nhãn hàng hóa trên sản phẩm: vị trí của nhãn
hàng hóa trên sản phẩm phải ở vị trí quan sát có thể nhận biết được dễ dàng, đầy đủ
các nội dung quy định của nhãn mà không phải tháo dời từng phần, bộ phận của
hàng hóa. Kích thước nhãn hàng hóa do tổ chức, cá nhân kinh doanh tự xác định
miễn là ghi đầy đủ các nội dung bắt buộc phải thể hiện trên nhãn hàng hóa.
- Quy định về ngôn ngữ trình bày, màu sắc của chữ, ký hiệu, hình ảnh trên

nhãn hàng hóa: các nội dung bắt buộc phải được ghi bằng tiếng Việt (trừ một số tên
quốc tế, tên khoa học không có tiếng Việt hoặc dịch ra tiếng Việt không có nghĩa),
nếu trên nhãn không có tiếng Việt thì phải có nhãn phụ bằng tiếng Việt. Màu sắc
của chữ, ký hiệu, hình ảnh trên hàng hóa phải rõ ràng. Những nội dung bắt buộc
phải thể hiện trên nhãn phải được ghi bằng chữ có màu tương phản với màu nền của
nhãn.
- Quy định về trách nhiệm thực hiện ghi nhãn hàng hóa: trách nhiệm ghi
nhãn hàng hóa được giao cho thương nhân sản xuất (đối với hàng hóa sản xuất tại
Việt Nam) và thương nhân nhập khẩu (đối với hàng hóa nhập khẩu).


×