Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.11 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TUẤN TÚ

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT
THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TUẤN TÚ

TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT
THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Lý luận nhà nước và pháp luật
Mã số: 60380101



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Động

HÀ NỘI – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ
nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Nguyễn Tuấn Tú


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc của mình, em xin cảm ơn thầy giáo Nguyễn
Văn Động đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành khóa luận.
Em xin cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn Lý luận lịch sử nhà nước và
pháp luật, các thầy cô giảng dạy tại trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ
em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tôi luôn nhận được sự
động viên của bạn bè, đồng nghiệp và người thân trong gia đình. Tôi xin chân
thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2016
Tác giả khóa luận



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐND

Hội đồng nhân nhân

UBND

Ủy ban nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 ................................................................................................... 7
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................. 7
1.1 Thi hành án hình sự và kiểm sát thi hành án hình sự ............................. 7
1.1.1 Thi hành án hình sự ....................................................................... 7
1.1.2. Khái quát về kiểm sát thi hành án hình sự ..................................... 9
1.2. Nội dung pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự ........................... 22
1.2.1. Kiểm sát thi hành án tử hình ....................................................... 22
1.2.2. Kiểm sát việc thi hành hình phạt tù ............................................. 23
1.2.3. Kiểm sát việc thi hành phạt cảnh cáo, án treo, cải tạo không giam
giữ ........................................................................................................ 31
1.2.4. Kiểm sát thi hành án áp dụng hình phạt bổ sung ......................... 33
1.2.5. Kiểm sát việc thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh ................. 35
1.2.6. Kiểm sát việc xóa án tích ............................................................ 35
1.2.7. Kiểm sát việc Tòa án cho người bị kết án hưởng thời hiệu thi hành án
............................................................................................................. 36
1.2.8. Kiểm sát việc thi hành án hình sự theo các hiệp định tương trợ tư
pháp ...................................................................................................... 36
1.3. Tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự ..... 37
1.3.1. Khái quát về tổ chức thực hiện pháp luật .................................... 37
1.3.2. Khái niệm, mục đích của việc tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm
sát thi hành án hình sự .......................................................................... 40

1.3.3. Hình thức tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình
sự.......................................................................................................... 41
1.4. Những bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi
hành án hình sự ở Việt Nam ..................................................................... 51
1.4.1. Những bảo đảm chung ................................................................ 51


1.4.2. Các bảo đảm riêng ...................................................................... 52
KẾT LUẬN CỦA CHƯƠNG 1 .................................................................... 56
CHƯƠNG 2 ................................................................................................. 57
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỜI GIAN TỚI ........................ 57
2.1. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian qua ....................................... 57
2.1.1. Những thành tựu trong tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi
hành án hình sự .................................................................................... 57
2.1.2. Những hạn chế trong tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi
hành án hình sự .................................................................................... 72
2.1.3. Nguyên nhân……………………………………………………………75
2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự trong thời
gian tới ................................................................................................... 788
2.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự
........................................................................................................... 788
2.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của cán bộ trong ngành
Kiểm sát nhân dân thực hiện hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự . 799
2.2.3 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
kiểm sát thi hành án hình sự ............................................................... 800
2.2.4. Kiện toàn bộ máy tổ chức và thực hiện pháp luật về kiểm sát thi

hành án hình sự .................................................................................. 811
2.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất đảm bảo hoạt động thực hiện pháp luật
về kiểm sát thi hành án hình sự ........................................................... 822
KẾT LUẬN CỦA CHƯƠNG 2 .................................................................. 855
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................. 877
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận văn
Kiểm sát thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân
được thi hành trên thực tế một cách nghiêm chỉnh và đúng pháp luật. Đây giai đoạn
cuối cùng trong hoạt động tố tụng của các cơ quan thực thi pháp luật, nhằm buộc
người phạm tội phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã quyết định. Hoạt động thi
hành án hình sự có một ý nghĩa vô cùng quan trong trong việc giữ vững kỷ cương
phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho
quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Công tác thi hành án hình sự liên quan
trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; góp phần bảo
vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có
hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [21].
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thi hành án hình sự như vậy cho nên
Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm và Nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động này. Tuy nhiên để bảo đảm cho
việc thi hành án hình sự đạt được hiệu quả cao thì một trong những biện pháp quan
trọng là phải tăng cường công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND).

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Nhà nước đã ban hành Luật tổ chức VKSND năm
2014 và các văn bản có liên quan, tạo cơ sở pháp lý để VKSND tiến hành kiểm sát
hoạt động tư pháp nói chung, kiểm sát hoạt động thi hành án hình sự nói riêng. Vì
vậy, việc tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, kiểm
sát việc thi hành án hình sự nói riêng đang trở nên vô cùng cấp thiết.
Trong những năm qua, công tác kiểm sát thi hành án hình sự đã góp phần
quan trọng vào việc giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội. Bên cạnh những đóng góp tích
cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, thực tiễn tổ chức thực hiện pháp


2

luật về kiểm sát việc thi hành án hình sự cũng đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi khoa học
pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận như cũng như
thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả kiểm sát việc thi hành án hình sự ở nước ta
trong bối cảnh hiện nay.
Trước tình hình trên, chúng tôi chọn chủ đề "Tổ chức thực hiện pháp luật về
kiểm sát thi hành án hình sự ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ luật
học nhằm giải quyết các vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn trong công
tác tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự, góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự, hướng dẫn thống nhất
áp dụng các quy định pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự và nâng cao hiệu
quả kiểm sát việc thi hành án hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn
Trong những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của việc tổ chức
thực hiện pháp luật, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này ở
những góc độ khác nhau. Vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật được đề cập trong một
số sách, công trình nghiên cứu, tài liệu tham khảo, chuyên khảo, có thể kể đến như:
“Bàn về tổ chức thực hiện pháp luật”, Tạ Minh Lý, Nghiên cứu lập pháp. Văn
phòng Quốc hội, số 2+3/2011; “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức

thực hiện pháp luật – nhiệm vụ trọng tâm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN của dân và vì dân”, Trần Ngọc Đường, Nhà nước và pháp luật số 7/2004;
“Tổ chức thi hành pháp luật từ yêu cầu của thực tiễn đến việc hoàn thiện quy định
về tổ chức thi hành pháp luật trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật”,
TS. Nguyễn Ngọc Vũ, Bộ tư pháp, 2015.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của đời sống chính trị - xã hội, vấn đề hoạt
động kiểm sát thi hành án hình sự đã và đang được nghiên cứu, khai thác dưới nhiều
góc độ khác nhau trên các công trình, sách, báo, các tài liệu tham khảo cùng không
ít các cuộc hội thảo trong và ngoài nước. Có thể kể tới một số công trình như:
“Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, GS.


3

Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (chủ biên), Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006;
“Bình luận khoa học luật thi hành án hình sự và các quy định mới nhất về thi hành
án hình sự”, Trần Minh Hưởng, Nxb. Thời đại, Hà Nội, 2010; “Một số vần đề thi
hành án hình sự”, Trần Quang Tiệp, Nxb Công an nhân dân, 2002; “Kiểm sát tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn Thủ
đô Hà Nội)”, Trần Thế Linh, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, năm 2014; “Hoạt động của VKSND trong kiểm sát việc thi hành án
hình sự”, Phạm Thị Hồng Hương, Luận văn thạc sỹ luật học, 2013; “Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong thi hành án hình sự”, Đàm Thuận Công, Luận văn thạc sỹ
luật học, 2000; “Kết quả và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
sát thi hành án hình sự”, Huy Vũ, Tạp chí kiểm sát số 18/2014; “Kỹ năng hoạt
động kiểm sát thi hành án hình sự”, Đào Hợi, Tạp chí kiểm sát số 10/2005.
Các công trình nghiên cứu hoặc các bài viết trên chủ yếu phân tích và bình
luận về công tác tổ chức thực hiện pháp luật nói chung, hoặc chỉ nghiên cứu hoạt
động kiểm sát thi hành án hình sự dưới một số góc độ nhất định như về kỹ năng, về
kết quả, hiệu quả công tác hoặc việc tuân theo pháp luật,... mà chưa nghiên cứu cụ

thể và đầy đủ, toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn của hoạt động tổ chức thực
hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự, lý giải các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự, các biện pháp, giải pháp
đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các bài
viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và vốn hiểu biết của mình, học viên trình
bày trong luận văn cơ sở lý luận, thực trạng việc tổ chức thực hiện pháp luật về
kiểm sát thi hành án hình sự của VKSND ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đưa
ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật kiểm sát thi hành
án hình sự trong thời gian tới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của Luận văn
Mục tiêu của luận văn là: Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích làm rõ những


4

vấn đề lý luận chung về công tác tổ chức thực hiện pháp luật của VKSND trong
kiểm sát việc thi hành án hình sự, đánh giá thực trạng của công tác này, tác giả luận
văn đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp
luật về kiểm sát thi hành án hình sự ở Việt Nam trong thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu đó, Luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
a. Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về tổ chức thực hiện
pháp luật và kiểm sát việc thi hành án hình sự, như khái niệm, đặc điểm của kiểm
sát việc thi hành án hình sự; khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật về kiểm
sát việc thi hành án hình sự; khái niệm, nội dung thực hiện và tổ chức thực hiện
pháp luật về thi hành án hình sự; những điều kiện bảo đảo của việc tổ chức thực
hiện pháp luật thi hành án hình sự
b. Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án
hình sự và đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả tổ chức
thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của tổ chức thực hiện
pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự ở Việt Nam hiện
nay là một đề tài có tính khái quát cao, nội dung rất rộng, phong phú và phức tạp.
Vì vậy, trong khuôn khổ Luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số nội
dung cơ bản về lý luận và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành
án hình sự, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực
hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự ở nước ta trong thời gian tới.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt
Nam về nhà nước và pháp luật.


5

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể cũng được sử dụng để hoàn thành Luận
văn này, như phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, lịch sử, v.v…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong Luận văn góp phần phân tích, làm rõ
một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát
thi hành án hình sự. Về lý luận, tác giả Luận văn đã luận giải để đưa ra các khái
niệm như thi hành án hình sự, kiểm sát việc thi hành án hình sự, pháp luật về kiểm
sát việc thi hành án hình sự, thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự và
tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự. Các kết quả trên đã góp
phần làm phong phú thêm hệ thống tri thức khoa học về tổ chức thực hiện pháp luật
về kiểm sát thi hành án hình sự. Về mặt thực tiễn, tác giả luận văn đã đánh giả thực
trạng tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình sự và để xuất các giải
pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả về tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi

hành án hình sự trong thời gian tới. Các kết quả này có giá trị tham khảo đối với các
cơ quan thực tiễn trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án
hình sự ở Việt Nam hiện nay.
7. Các câu hỏi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn được xây dựng để trả lời cho ba câu hỏi chính:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về tổ chức thực hiện
pháp luật kiểm sát thi hành án hình sự?
Thứ hai, thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi hành án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam ?
Thứ ba, giải pháp nào có thể đưa ra để nâng cao việc tổ chức thực hiện pháp
luật về kiểm sát thi hành án hình sự trong thời gian tới?
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận chung và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn được kết cấu thành 2 chương:


6

Chương 1: Cơ sở lý luận của việc tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm sát thi
hành án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp
luật về kiểm sát thi hành án hình sự ở nước ta trong thời gian tới.


7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1 Thi hành án hình sự và kiểm sát thi hành án hình sự
1.1.1 Thi hành án hình sự
Đấu tranh phòng và chống tội phạm là nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ quốc
gia nào trên thế giới. Về vấn đề này V.I Lê nin đã chỉ rõ: “Tác dụng ngăn ngừa của
hình phạt … hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng mà ở chỗ đã phạm
tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt”[15]. Để bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền
con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, BLTTHS năm 2003 đã quy
định về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy
nhiên mỗi giai đoạn tố tụng đều có sự độc lập trong mối quan hệ nhân quả của cả
quá trình tố tụng. Việc phân định các giai đoạn tố tụng có ý nghĩa quan trọng đảm
bảo việc tổ chức và thực hiện được mục đích và nhiệm vụ của Luật tố tụng hình sự,
là cơ sở để xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc
phân định càng rõ, càng khoa học, sát với thực tế thì việc giải quyết vụ án càng
được nhanh chóng và chính xác, kịp thời, tránh được sự đùn đẩy trách nhiệm giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng.
Theo Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh, thi hành là: “Đem cái việc đã trù
định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả”[33]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là
thực hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế; còn thi hành án hình sự là thực
hiện các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế.
Điều này có nghĩa là chỉ các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
và đang có hiệu lực pháp luật mới được đem thi hành. Đó là các bản án, quyết định
hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 255 BLTTHS năm 2003, Điều 2 Luật thi


8

hành án hình sự năm 2010 nhưng chưa quá thời hiệu thi hành bản án theo quy định
tại Điều 55 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2009, bao gồm: những bản án và quyết

định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc
thẩm; những bản án và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; những quyết định của
Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Thi hành án hình sự là một giai đoạn trong tố tụng hình sự và có thể coi đó là
giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Công tác điều tra, truy tố và xét xử là rất
quan trọng và quyết định hình phạt của Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của
Nhà nước đối với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Nếu chỉ dừng ở mức
đánh giá, lên án mà không thực hiện bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế đặc
trưng của quyền lực nhà nước thì tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa và tính chịu
hình phạt hạn chế, thậm chí là không có tác dụng. Chính vì vậy, pháp luật hình sự
đã có những quy định cụ thể về thi hành án hình sự; các ngành tư pháp trung ương
nói chung và Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) nói riêng cũng đã ban hành một
số thông tư liên tịch, nghị quyết để hướng dẫn một số quy định của BLHS năm
2009, BLTTHS năm 2003 về thi hành án hình sự nhằm đảm bảo việc thi hành
nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có
hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
Nội dung thi hành án hình sự rất rộng, bao gồm: thủ tục, chế độ, tổ chức thi
hành án, áp dụng các biện pháp hành chính, giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội và thực
hiện chế độ, chính sách đối với người bị kết án. Các quan hệ xã hội cụ thể phát sinh
trong quá trình thi hành và chấp hành hình phạt như: việc đưa bản án ra thi hành,
chỉ định cơ quan tổ chức thi hành án, tổ chức lực lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho
thi hành án; quản lý nhà nước về công tác thi hành án; quy định về quyền và nghĩa
vụ của người chấp hành án; nghĩa vụ của cơ quan nhà nước hữu quan... do pháp luật
thi hành án hình sự quy định.


9

Từ sự phân tích ở trên, có thể đi đến kết luận rằng: Công tác thi hành án hình
sự là việc đưa các bản án, quyết định hình sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật ra

thi hành trên thực tế.
Về bản chất hoạt động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu sau:
- Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình thi hành án;
- Tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án;
- Đặc thù trong các quan hệ thủ tục về thi hành án (đây là một vấn đề có thể
dẫn đến sự nhầm lẫn với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao
gồm cả quan hệ tố tụng và các quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp. Nhưng
cần khẳng định rằng, các quan hệ mang tính hành chính - tư pháp chủ yếu hơn.
Pháp luật thi hành án hình sự có đối tượng điều chỉnh là lĩnh vực các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình thi hành tất cả các loại án hình sự, trong quá trình
giáo dục và cải tạo người bị trách nhiệm hình sự hoặc bị án. Đây là lĩnh vực các
quan hệ xã hội đặc thù chỉ xuất hiện sau khi bản án, quyết định hình sự của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật. Các quan hệ xã hội này không chịu sự tác động của một
trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, đó là nguyên tắc suy đoán
vô tội, bởi lẽ ở thời điểm thi hành án hình sự đã có bản án, quyết định hình sự của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Tuy có nhiều các ý kiến khác nhau về bản chất pháp lý của pháp luật thi hành
án hình sự, nhưng nhìn chung đều thống nhất thừa nhận: pháp luật thi hành án hình
sự là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh những
quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thi hành các bản án, quyết định hình sự của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
1.1.2. Khái quát về kiểm sát thi hành án hình sự
1.1.2.1. Khái niệm kiểm sát việc thi hành án hình sự
Kiểm sát thi hành án hình sự là một trong những công tác để thực hiện chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. Hoạt động kiểm sát thi hành án


10

có tác dụng thúc đẩy công tác thi hành án, hạn chế những vi phạm và góp phần bảo

đảm hiệu quả, hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án. Việc hiểu, nhận thức
đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật về công tác thi hành án và công tác kiểm
sát thi hành án là yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ kiểm sát làm công tác kiểm sát thi
hành án.
Hiện nay, đang có những quan điểm cho rằng bản chất của hoạt động thi
hành án nói chung và thi hành án hình sự nói riêng không phải là hoạt động tư pháp
mà chỉ là hoạt động hành chính- tư pháp, điều này có nghĩa là hoạt động thi hành án
không phải là đối tượng kiểm sát của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát. Chúng tôi cho rằng vấn đề xác định về phương diện lý luận của khái
niệm như thế nào là hoạt động tư pháp là một vấn đề phức tạp, cần được xem xét
không chỉ trên phương diện lý luận đơn thuần mà cả trên phương diện lịch sử.
Khoản 1 Điều 25 Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ: “Viện kiểm sát
nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án,cơ quan thi hành án hình sự,
cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, người có thẩm
quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án hình sự”.
Theo quy định này, khi thực hiện công tác kiểm sát thi hành án hình sự, VKSND
kiểm sát việc tuân theo pháp luật không chỉ đối với hoạt động của các cơ quan nhà
nước, tổ chức mà cả đối với cá nhân, bao gồm những người phải thi hành bản án và
quyết định của Tòa án cũng như người được thi hành bản án và quyết định đó.
Trong số các chủ thể là đối tượng kiểm sát của Viện kiểm sát khi thực hiện công tác
kiểm sát thi hành án thì cơ bản và trọng tâm là hoạt động tuân theo pháp luật của
các cơ quan nhà nước, tổ chức và đơn vị trong hoạt động thi hành án bởi lẽ nếu xảy
ra vi phạm pháp luật trong cơ quan nhà nước thì hậu quả của nó lớn hơn gấp nhiều
lần so với một vi phạm của công dân.
Tóm lại, kiểm sát thi hành án hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của TAND, cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ
quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án


11


hình sự trong việc thi hành bản án, quyết định về hình sự nhằm đảm bảo các bản án,
quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
1.1.2.2. Phạm vi kiểm sát thi hành án hình sự
Phạm vi công tác kiểm sát thi hành án trong lĩnh vực hình sự bắt đầu từ khi
bàn án, quyết định về hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu
lực pháp luật nhưng được thi hành ngay theo quy định của pháp luật và kết thúc khi
người bị kết án được xóa án tích. Riêng đối với hình phạt tử hình, phạm vi kiểm sát
thi hành án tử hình bắt đầu từ khi bản án tử hình có hiệu lực thi hành, tức là sau khi
Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC trả lời không kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bản án tử hình hoặc có kháng nghị nhưng Hội
đồng giám đốc thẩm TANDTC quyết định không chấp nhận kháng nghị, tuyên giữ
nguyên bản án tử hình và sau đó người bị kết án làm đơn xin ân giảm án tử hình
nhưng Chủ tịch nước đã bác đơn xin ân giảm.
Theo quy định tại Điều 255 BLTTHS năm 2003, những bản án và quyết định
được thi hành là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm: những
bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm; những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; những
quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Bên cạnh đó, còn có những
bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng
cáo, kháng nghị, đó là trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ
thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt cho bị cáo, áp dụng hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng
cho hưởng án treo; trường hợp quyết định hình phạt tù nhưng thời hạn phạt tù bằng
hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam.
1.1.2.3. Đối tượng của kiểm sát thi hành án hình sự
Đối tượng công tác kiểm sát thi hành án hình sự là việc tuân theo pháp luật
của Tòa án, cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự, cơ



12

quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự và người có trách
nhiệm trong việc thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 10 Luật thi hành án hình sự năm 2010, hệ thống tổ
chức thi hành án hình sự bao gồm: cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi
hành án hình sự, cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự. Cơ quan
quản lý thi hành án hình sự được tổ chức ở Bộ công an và Bộ quốc phòng, trại giam
thuộc quân khu (gọi là trại giam); cơ quan thi hành án hình sự công an tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (gọi là cơ quan thi hành án hình sự công an cấp tỉnh); cơ
quan thi hành án hình sự công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi là
cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện); cơ quan thi hành án hình sự quân
khu và tương đương (gọi là cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu). Cơ quan
được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự bao gồm: Trại giam thuộc Bộ công
an, trại tạm giam thuộc Bộ quốc phòng, trại giam thuộc công an cấp tỉnh, trại tạm
giam cấp quân khu (gọi là trại giạm giam); UBND cấp xã, phường, thị trấn (gọi là
UBND cấp xã); Đơn vị quân đội cấp trung đoàn và tương đương (gọi là đơn vị quân
đội).
1.1.2.4. Nguyên tắc kiểm sát thi hành án hình sự
Theo Điều 4 Quy chế tổ chức và hoạt động của vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự (Vụ 8) của VKSNDTC ban hành ngày 29/01/2013 về
các nguyên tắc trong hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự của Vụ 8. Theo đó: a)
Vụ 8 làm việc theo chế độ Thủ trưởng; mọi hoạt động của Vụ 8 phải tuân thủ quy
định của pháp luật, quy chế tổ chức, hoạt động của Vụ 8; công chức thuộc
Vụ 8 phải thực hiện đúng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn; b) Đảm bảo tuân thủ trình
tự, thủ tục và thời hạn giải quyết công việc theo đúng quy định của pháp luật,
chương trình, kế hoạch, lịch làm việc và quy chế làm việc, trừ trường hợp đột xuất
hoặc có yêu cầu khác của lãnh đạo Viện; c) Bảo đảm phát huy năng lực và sở
trường của công chức, tăng cường sự phối hợp công tác, trao đổi thông tin trong
giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định;



13

d) Bảo đảm dân chủ, minh bạch trong mọi hoạt động gắn với thực hiện chủ trương
cải cách hành chính, cải cách công vụ, công chức của Đảng và Nhà nước.
- Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo đảm
tính thống nhất của pháp chế. VKSND ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Theo nguyên tắc này, VKSND do Viện
trưởng lãnh đạo; Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
VKSND cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát
quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC (Điều 109
Hiến pháp năm 2013 và Điều 7 Luật tổ chức VKSND năm 2014). Viện trưởng, Phó
viện trưởng, Kiểm sát viên VKSND các địa phương, Phó viện trưởng Viện kiểm sát
quân sự quân khu và khu vực, Điều tra viên của VKSND, đều do Viện trưởng
VKSND tố cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức (Điều 63 Luật tổ chức VKSND
năm 2014).
Như vậy, tất cả các VKSND từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống
thống nhất. Mọi hoạt động của VKSND, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo của
Viện trưởng. Viện trưởng VKSND phải chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt
động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng VKSNDTC. Viện
trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của toàn ngành kiểm sát
trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành bảo
đảm cho các cấp kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện nâng cao
hiệu quả chức năng hoạt động của ngành kiểm sát. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là ở
VKSNTC, VKSND cấp cao, VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện
kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương
thành lập Ủy ban kiểm sát theo khoản 2 Điều 7 Luật tổ chức VKSND năm 2014. Ủy

ban kiểm sát làm việc tập thể, thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan
trọng như phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác, dự án luật, dự án pháp lệnh,


14

v.v… (các Điều 43, 45, 47, 53 và 55 Luật tổ chức VKSND năm 2014). Khi Viện
trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì vẫn thực
hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo lên cấp trên (lên Ủy ban
Thường vụ Quốc hội nếu là Viện trưởng VKSNDTC; lên Viện trưởng VKSNDTC
nếu là Viện trưởng VKSND cấp tỉnh). Như vậy, quy định này vừa bảo đảm mở rộng
dân chủ, phát huy trí tuệ của tập thể, vừa đề cao trách nhiệm của Viện trưởng.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, VKSND không lệ thuộc vào bất cứ
một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. Các VKSND thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối bởi các cơ quan nhà nước ở
địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSNDTC. Đối với hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung và kiểm sát thi hành án hình sự
nói riêng, các VKSND chỉ phụ thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các
văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự của Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị của
Viện trưởng VKSNDTC. Điều đó cũng có nghĩa là các cơ quan nhà nước ở địa
phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của VKSND, đem lại hiệu quả cao
trong hoạt động chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp.
- Nguyên tắc đảm bảo tuân thủ trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết công việc
Nguyên tắc đảm bảo tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và thời gian giải quyết
được hiện thức hóa bằng pháp luật thông qua các quy định tại BLTTHS năm 2003
và Luật thi hành án hình sự năm 2010. Cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát
thi hành án hình sự phải đảm bảo việc thực hiện pháp luật của các cơ quan được
giao nhiệm vụ thi hành án hình sự tuân theo trình tự, thủ tục và thời gian đúng theo
quy định của pháp luật.

- Nguyên tắc phát huy năng lực và sở trường của cán bộ, kiểm sát viên, trao
đổi thông tin trong giải quyết công việc
Ngoài công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ trong ngành kiểm sát để thực hiện
tốt chức năng của ngành thì còn cần chú trọng vào phát huy năng lực và sở trường


15

của cán bộ. Vai trò của hoạt động đánh giá, tổ chức cán bộ phải công tâm, minh bạch,
dân chủ. Thông qua đó sẽ tạo điều kiện cho cán bộ, kiểm sát viên phát huy thế mạnh,
sở trường của mình nhằm làm tốt công tác, nhiệm vụ được giao.
Trao đổi thông tin trong giải quyết công việc là hoạt động thường xuyên rất
quan trọng của VKSND đối với các cơ quan, tổ chức hữu quan. Trong hoạt động
kiểm sát thi hành án hình sự, cần phải có sự trao đổi thông tin giữa Viện kiểm sát
với Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao một
số nhiệm vụ thi hành án hình sự nhằm phát huy hiệu quả hoạt động kiểm sát thi
hành án trong lĩnh vực hình sự, kịp thời phát hiện, xử lý đối với những hành vi vi
phạm pháp luật trong thi hành án hình sự.
- Nguyên tắc dân chủ, minh bạch trong hoạt động kiểm sát thi hành án hình
sự
Yêu cầu dân chủ, minh bạch được hiểu giản dị là sự rõ ràng, rành mạch, ai
cũng có thể tiếp cận, ai cũng có thể hiểu. Trong việc tổ chức thực hiện pháp luật,
công khai, minh bạch được thể hiện thông qua việc công khai, minh bạch chính
sách, pháp luật cũng như cách thức tổ chức thực hiện chính sách pháp luật trừ
những nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của
pháp luật.
Nghĩa vụ dân chủ, minh bạch hoạt động của VKSND gắn liền với việc tạo
điều kiện thuận lợi để công dân tiếp cận các thông tin về hoạt động thi hành án hình
sự của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành án hình sự một cách dễ
dàng. Sự minh bạch về mặt thông tin là điều kiện để việc tổ chức thực hiện pháp

luật được hiệu quả. Đơn giản nhất, những thông tin về các chủ thể có trách nhiệm
thực hiện pháp luật về thi hành án hình sự, địa điểm, thời gian tổ chức công việc
cũng đã là những thông tin hữu ích giúp cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về
kiểm sát thi hành án hình sự trở nên dễ dàng hơn. Không phải vô cớ mà yêu cầu
thiết lập các đầu mối thông tin được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các nguyên tắc


16

của Tổ chức Thương mại thế giới cũng như các cam kết gia nhập tổ chức này của
nước ta.
1.1.2.5. Phương thức kiểm sát thi hành án hình sự
Căn cứ Điều 25, 26 Luật tổ chức VKSND năm 2014; Điều 141, 142 Luật thi
hành án hình sự năm 2010 và Chương IV Quy chế kiếm sát việc tạm giữ, tạm giam
và thi hành án hình sự thì phương thức thực hiện hoạt động kiểm sát thi hành án
hình sự được thông qua 02 phương thức sau:
- Kiểm sát trực tiếp: bao gồm định kỳ kiểm sát và đột xuất kiểm sát.
Định kỳ kiểm sát được quy định như sau:
+ Đối với trại tạm giam thuộc công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu:
Hàng tuần kiểm sát về thủ tục trong việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự, ba tháng một lần trực tiếp kiểm sát theo từng nội dung, sáu
tháng một lần kiểm sát toàn diện về tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù.
Đối với trại tạm giam thuộc Bộ công an, trại tạm giam thuộc Bộ quốc
phòng: Hàng tháng kiểm sát về thủ tục trong việc tạm giữ, tạm giam theo quy định
của BLTTHS một năm trực tiếp kiểm sát toàn diện hai lần về việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
+ Đối với trại giam thuộc Bộ công an, trại giam thuộc Bộ quốc phòng một
năm hai lần trực tiếp kiểm sát toàn diện việc tuân theo pháp luật trong quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù.

+ Đối với cơ quan thi hành án hình sự công an cấp tỉnh, cấp huyện, cơ quan
thi hành án hình sự cấp quân khu và UBND cấp xã một năm trực tiếp kiểm sát một
lần.
+ Đối với cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự (UBND;
đơn vị quân đội), cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành biện pháp tư pháp
chỉ tiến hành trực tiếp kiểm sát khi xét thấy cần thiết.


17

Khi tiến hành kiểm sát định kỳ có thể đi sâu kiểm sát toàn bộ việc chấp hành
pháp luật trong quản lý và giáo dục người chấp hành án, chế độ trong việc quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù… hoặc cũng có thể kiểm sát những vấn đề
nào thấy cần thiết hoặc kiểm sát những vi phạm đã được phát hiện của lần kiểm sát
trước mà Viện kiểm sát đã kháng nghị yêu cầu sửa chữa, xem kết quả tiếp thu khắc
phục vi phạm của Cơ quan thi hành án hình sự; cơ quan được giao một số nhiệm vụ
trong thi hành án hình sự. Đồng thời, kiểm sát viên có thể gặp, hỏi, trường hợp cần
thiết thì lập biên bản, lấy lời khai của người chấp hành án và người thi hành biện
pháp tư pháp về việc thực hiện các quy định của pháp luật trong thi hành án hình sự
và thi hành biện pháp tư pháp.
Bên cạnh định kỳ kiểm sát còn có kiểm sát đột xuất. Khi xét thấy cần thiết,
Viện kiểm sát trực tiếp kiểm sát tại cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp và cấp
dưới; cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự.
Điều kiện để áp dụng phương thức này là: Khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật
xảy ra ở cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức được
giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự xét thấy cần phải kiểm sát thì phải tiến
hành thể kiểm sát ngay bất kỳ thời gian nào, không kể là ngày hay đêm, miễn là khi
kiểm sát viên nhận được nguồn thông tin đáng tin cậy, có cơ sở để xác định là có
dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng ở nơi giam giữ như. Người chấp hành án
phạt tù trốn, phạm tội mới, chết do tai nạn lao động hoặc dịch bệnh, chết bất thường

không rõ nguyên nhân, tự tử chết...
Trực tiếp kiểm sát định kỳ, đột xuất phải có quyết định trực tiếp kiểm sát, khi
kết thúc có kết luận bằng văn bản. Trước khi tiến hành trực tiếp kiểm sát định kỳ,
Viện kiểm sát có kế hoạch trực tiếp kiểm sát; nội dung kế hoạch, quyết định, kết
luận trực tiếp kiểm sát thực hiện theo hướng dẫn của VKSNDTC.
Trực tiếp kiểm sát định kỳ và đột xuất do Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc
Kiểm sát viên được uỷ quyền tiến hành.
- Kiểm sát gián tiếp


18

Đây là phương thức được áp dựng theo quy định tại khoản 2 Điều 25, khoản
2 Điều 26 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 26 Quy chế kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự năm 2013.
Tuỳ theo tình hình, căn cứ vào tính chất, mức độ của vi phạm của Tòa án, cơ
quan thi hành án hình sự, cơ quan được giao một số nhiệm vụ trong thi hành án hình
sự hoặc do yêu cầu thông tin mà có thể yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự,
cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự kiểm tra những nơi đó và
thông báo kết quả theo quy định.
Yêu cầu tự kiểm tra thường được áp dụng khi phát hiện có dấu hiện vi phạm
pháp luật hoặc đã có vi phạm xảy ra ở nơi giam giữ nhưng chưa có điều kiện để
kiểm sát. Mặt khác Kiểm sát viên cũng phải có cơ sở để khẳng định việc tự kiểm tra
của Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự; cơ quan được giao một số nhiệm vụ trong
thi hành án hình sự là khách quan và đạt hiệu quả thì áp dụng thẩm quyền này.
Khi yêu cầu tự kiểm tra, Viện kiểm sát phải yêu cầu kiểm tra những vấn đề
gì và cũng chỉ nên tập trung vào một số việc chính, không nên yêu cầu quá nhiều
việc, không yêu cầu một cách tràn lan, không cần thiết. . .
Yêu cầu tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết quả cho
VKSND thì Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số

nhiệm vụ thi hành án hình sự phải thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày
nhận được yêu cầu.
1.1.2.6. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát thi hành án hình sự
Theo quy định tại điều 141 Luật thi hành án hình sự năm 2010, khi thực hiện
kiểm sát thi hành án hình sự, Viện kiểm sát có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án đúng quy
định của pháp luật. Sau 7 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định
giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Chánh án Tòa


×