Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tieu luan triet hoc cơ sở TRIẾT học của ĐƯỜNG lối CÔNG NGHIỆP hóa HIỆN đại hóa TRONG THỜI kì QUÁ độ ở VIỆT NAM là QUI LUẬT PHÙ hợp GIỮA QUAN hệ sản XUẤT và lực LƯỢNG sản XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.43 KB, 19 trang )

I. CÔNG NGHIỆP HOÁ- HIỆN ĐẠI HOÁ NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

1. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm
Mỗi phương thức sản xuất (PTSX) xã hội đều có một cơ sở vật chất kĩ
thuật nhất định, cơ sở vật chất kĩ thuật của các PTSX xã hội trước Chủ nghĩa
Tư bản (CNTB) chỉ là những công cụ thủ công phân tán và lạc hậu. Còn đến
CNTB thì cơ sở vật chất kĩ thuật của nó là nền Đại công nghiệp cơ khí. Theo
logic tiến hóa của lịch sử xã hội, thì Chủ nghĩa Xã hội (CNXH) là giai đoạn
phát triển cao hơn so với CNTB nên cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH sẽ
phải là một nền sản xuất lớn hơn so với CNTB, hiện đại với cơ cấu kinh tế
hợp lí, có trình độ xã hội hóa cao, dựa trên trình độ khoa học công nghệ tiên
tiến, được hình thành một cách có kế hoạch trên phạm vi toàn bộ nền Kinh
tế Quốc dân.
Trở lại thực trạng kinh tế của nước ta đang trong thời kì quá độ tiến
lên CNXH bỏ qua chế độ CNTB nên chưa có được cơ sở vật chất kĩ thuật
của CNTB, như Mác đã nói “ khổ vì CNTB, sẽ còn khổ hơn nếu không có
CNTB”. Nên nước ta tất yếu phải tiến hành Công nghiệp hóa để xây dựng cơ
sở vật chất kĩ thuật cho chế độ CNXH, đây là nhiệm vụ mang ý nghĩa sống
còn!
Ở thế kỉ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở
Tây Âu, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công
bằng lao động máy móc. Những khái niệm kinh tế nói chung và khái niệm
công nghiệp hóa nói riêng mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng
với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Kế thừa một cách chọn lọc những
tri thức văn minh của nhân loại, đúc kết những kinh nghiệm trong lịch sử
tiến hành công nghiệp hóa , và từ thực tiễn công nghiệp hóa ở Việt Nam
trong thời kì đổi mới, Hội nghị ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy khóa
1



VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
xác định:” công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt đông sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế- xã hội từ sử
dụng lao động bằng thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến
phương tiện và phương pháp hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp
và tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Có thể thấy rõ Đảng ta đã xác định quá trình công nghiệp hóa ở nước
ta phải gắn liền vơí quá trình hiện đại hóa, tức là thực hiện công nghiệp hóa
bằng cách ứng dụng những thành tựu khoa học- công nghệ hiên đại, học tập
những biện pháp quản lí tiên tiến... Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang
diễn ra cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại, một số nước phát
triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức nên phải
tranh thủ ứng dụng ngững thành tựu ấy, tiếp cận với nền kinh tế tri thức
nhằm tiến hành nhảy vọt trong một số nghành, khâu, lĩnh vực.
2.Mục tiêu và quan điểm chỉ đạo công nghiệp hóa- hiện đại hoá ở
Việt Nam
a.Mục tiêu:
Những thành tựu của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa tạo tiền
đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế- chính trị, văn hóa- xã hội,
quốc phòng- an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp công nghiệp
hóa- hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của
con đường CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Theo tinh thần của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng Cổng sản Việt Nam mục tiêu trung hạn của công nghiệp hóa- hiện đại
hóa là:” đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại ”. Còn mục tiêu tổng quát là:” Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát
2



triển lực lượng sản xuất, đồng xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hứơng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh
thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi với phát triển văn
hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết
hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường quốc phòng- an ninh”.
Để thực hiện mục tiêu tổng quát trên, trong mỗi giai đoạn phát triển
của nền kinh tế, công nghiệp hóa- hiện đại hóa cần phải thực hiện những
mục tiêu cụ thể nhất định. Trong những năm trước mắt trong điều kiện khả
năng về vốn còn hạn hẹp; nhu cầu công ăn việc làm còn rất bức bách; đời
sống xã hội còn rất nhiều khó khăn; tình hình kinh tế- xã hội phát triển, tăng
trưởng chưa thật ổn định, chúng cần nỗ lực tập trung đẩy mạnh công nghiệp
hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, ra sức phát triển các ngành chế
biến nông- lâm- thủy sản.
b. Các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong quá trình thực hiện
công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
Gĩư vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Dựa vào lực trong nước
là chính đi đôi với tranh thủ nguồn lực bên ngoài trên cơ sở xây dựng một
nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh mẽ về xuất
khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có
hiệu quả.
Công nghiệp hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh
tế trong đó thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ra
3



chỉ rõ trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa phải:” phát huy nguồn
lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam”, từ đó coi giáo dục và
đạo tạo là nền tảng của sự nghiệp. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng
đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn
liền với đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ
công bằng xã hội.
Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa; kết hợp công
nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tranh thủ đi nhanh vào công nghệ
hiện đại ở những khâu quyết định.
Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương án phát triển, lựa chọn đầu tư và công nghệ. Đầu tư theo chiều sâu
để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên
đầu tư quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi
vốn nhanh. Đồng thời xây dựng một số công trình lớn thật cần thiết và có
hiệu quả.
Kết hợp chặt chẽ, toàn diện phát triển kinh tế với củng cố tăng cường
nền quốc phòng- an ninh của đất nước. Đảng ta xác định phải quan tâm đúng
mức đến công nghiệp quốc phòng, xây dựng phương án và cơ chế để huy
động các ngành công nghiệp phục vụ nhu cầu quốc phòng một cách có hiệu
quả. Đồng thời tận dụng những năng công nghiệp của quốc phòng để sản
xuất hàng dân dụng, góp phần đáp ứng nhu cầu của của sản xuất và đời
sống.
3.Nội dung cơ bản quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt
Nam
a.Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trước hết điều đó được thực hiện bằng phương thức cơ khí hóa nền
sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật. Vì có thể
4



nói cốt lõi của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa là cải biến lao động
thủ công lạc hậu thành lao lao động sử dụng kĩ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt
năng suất xã hội cao, mà trọng tâm phải là sản xuất nông nghiệp. Đi đôi với
quá trình cơ khí hóa là quá trình điện khí hóa toàn quốc và tự động hóa từng
bước trong nền kinh tế quốc dân.
Sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đòi hỏi phải xây dựng mạnh
mẽ các ngành công nghiệp, trong đó then chốt là ngành chế tạo tư liệu sản
xuất.Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tái sản xuất mở rộng của
khu vực sản xuất tư liệu , đặc biệt của các ngành sản xuất tư liệu sản xuất,
quyết định qui mô của quá trình tái sản xuất mở rộng của của toàn bộ nền
kinh tế. Các ngành đó là cơ sở là nền tảng để cải tạo nền kinh tế quốc dân,
phát triển nông- lâm- ngư nghiệp.
Đảng và nhà nước đã đề ra năm giải pháp thực hiện khả thi sau:
Thứ nhất là chọn các yếu tố kĩ thuật công nghệ để đầu tư theo
chiều sâu đồng thời tận dụng có hiệu quả các cơ sở hiện có. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX cuả Đảng ta đã chỉ ra:” Con đường công nghiệp
hóa- hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có
những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế
của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến,
đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế trí
thức”. Từ đây ta có thể thấy rõ Đảng ta đã đề ra phương hướng để phát triển
kĩ thuật và công nghệ. Vì đây là một lĩnh vực hết sức rộng lớn trong khi đội
ngũ cán bộ kĩ thuật- khoa học- công nghệ nước ta con nhỏ bé, chất lượng
thấp; khả năng về vốn liếng, phương tiện kĩ thuật, nghiên cứu… còn rất hạn
hẹp.Do đó chúng ta không thể phát triển trên tất cả các lĩnh vực kĩ thuật5


công nghệ mà phải chọn những lĩnh vực nhất định để đầu tư. Nếu việc lựa

chọn đúng sẽ tạo điều kiện cho kĩ thuật- công nghệ phát triển thì ngược lại,
việc chọn sai không những ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của kĩ thuậtcông nghệ mà còn ảnh hưởng không tốt đến cả sự nghiệp công nghiệp hóahiện đại hóa.
Mặt khác, Đảng và nhà nước ta cũng tạo những điều kiện thuận lợi để
cho khoa học- công nghệ phát triển như: tăng vôn đầu tư; tạo môi trường
thuận lợi cho các tổ chức khoa học, doanh nghiệp và cá nhân được hoạt động
khoa học theo luật định; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả; đổi
mới chính sách đãi ngộ và sử dụng trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài,
kể cả người Việt Nam hay người nước ngoài; giao lưu và hợp tác quốc tế về
khoa học… nhằm thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các
nước tiên tiến trong khu vực.
Thứ hai là cải tiến, nâng cấp và hiện đại hóa kĩ thuật- công nghệ
truyền thống để phục vụ và phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn.
Theo tinh thần của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam:” tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực
cần thiết để công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một
trình độ mới bằng ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh
học; đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa; quy hoạch sử dụng
đất hợp lí; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên
đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa”.
Đảng ta chủ trương tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ trong
nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin.
Chú trọng đào tạo và sử dụng giống cây, con có năng suất, chất lượng và giá
trị cao.Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế
6


biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ứng dụng công nghệ
sạch trong nuôi trồng và chế biến rau quả, thực phẩm. Hạn chế việc sử dụng
hóa chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một số khu nông nghiệp công

nghệ cao. Tăng cường đội ngũ, nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của
cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
Điều này bắt nguồn từ một thực tế là ở Việt Nam xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực rất khẩn trương, tạo cơ hội to lớn cho Việt
Nam phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn hướng mạnh về xuất
khẩu. Song cơ hội bao giờ cũng đi liền với thách thức, đó là sự cạnh tranh
gay gắt, đòi hỏi nông nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng chuyển hướng tăng
trưởng sản xuất theo chiều rộng là chủ yếu sang phát triển sản xuất theo
chiều sâu.
So với thập kỉ trước việc đầu tư khoa học công nghệ đã đem lại những
hiệu quả và thành tựu không nhỏ như: nhiều giống cây trồng vật nuôi ngắn
ngày đạt năng suất và chất lượng cao( các giống lúa phục vụ xuất khẩu như
OM1490, OM2013, MTL250,VND95-20 và ST3). Nghiên cứu thành công
kĩ thuật sản xuất và nuôi tôm sú nước mặn, nước lợ và nước ngọt đạt năng
suất cao( mỗi vụ 5,5 tấn/ha), công nghệ sản xuất cá rô phi đơn tính và siêu
đực doanh thu cao [Tạp chí khoa học số 8, năm 2003]. Sản xuất nông nghiệp
tăng trưởng cao liên tục, tăng trưởng bình quân hàng năm về nông, lâm, ngư
nghiệp từ năm 1991 – 2000 đạt 4,3% trong đó nông nghiệp đạt 5,4%. Bên
cạnh đó sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản ngày càng tiến bộ rõ nét. Thị
trừơng xuất khẩu ngày càng mở rộng ra nhiều nước và một số sản phẩm đã
có uy tín trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên tổng mức đầu tư của nhà nước cho nghiên cứu cho khoa
học- công nghệ nông nghiệp những năm gần đây còn thấp. Từ năm 19972000 mức vốn đầu tư cho nghiên cứu nông nghiệp khoảng trên 80 tỉ
7


đồng/năm tương đương 1,8% chi tiêu của nhà nước cho nông nghiệp( theo
số liệu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) trong khi đó của Trung
Quốc là khoảng 6%, Malaixia, Thái Lan là khoảng 10%, điều này đã gây
khó khăn cho việc nghiên cứu cho ra đơì các giống mới chất lượng cao sản

lượng tốt. Không những thế việc chuyển giao khoa học- công nghệ cho sản
xuất thông qua các tổ chức khuyến nông nước ta còn rất hạn chế…Tất cả
những mặt hạn chế đều là những thách thức mà Việt Nam cần phải đưa ra
những biện pháp khắc phục trong thời gian tới.
Thứ ba là tranh thủ công nghệ mới tiên tiến, hiện đại thông qua các
dự án đầu tư nước ngoài, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX Đảng Cổng
sản Việt Nam có nêu:” Chú ý trong nhập khẩu công nghệ mới hiện đại,
thích nghi với công nghệ nhập khẩu, cải tiến từng bộ phận, tiến tới tao ra
những công nghệ đặc thù Việt Nam”, trong đó đặc biệt chú ý đến các vấn
đề: trình độ công nghệ, chuyển giao công nghệ và về năng lực làm chủ công
nghệ.
Về trình độ công nghệ, chúng ta chủ trương đầu tư, đi thẳng vào các
kĩ thuật- công nghệ mới tiên tiến, hiện đại ở những khâu, lĩnh vực quan
trọng( công nghệ thông tin, sinh học, viễn thông…), tiếp thu những thành
tựu của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhằm đổi mới máy móc
thiết bị và công nghệ. Bước đầu đã nâng cao trình độ công nghệ ở các doanh
nghiệp nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Về chuyển giao công nghệ, đòi hỏi phải giám định chặt chẽ, không
tiếp nhận những công nghệ có trình độ lạc hậu so với nước bạn và thế giới.
Phải nắm vững các bí quyết công nghệ và các tài liệu thông tin kĩ thuật,các
phương pháp quản lí và sư dụng công nghệ.

8


Về năng lực làm chủ công nghệ, phải nâng cao trình độ cán bộ quản lí,
cán bộ kĩ thuật và công nhân kĩ thuật để sử dụng thành thạo và làm chủ các
máy móc thiết bị mới, nắm công nghệ chuyển giao, làm chúng thích nghi với
điều kiện của doanh nghiệp, tự giải quyết được khó khăn trong quá trình sản
xuất…

Bảng: Các chỉ tiêu phát triển chủ yếu của khối công nghiệp bưu chính- viễn
thông trong giai đoạn 1998- 2003

Đơn vị tính: tỉ
đồng
Chỉ tiêu

1998

1999

2000

2001

2002

2003

%

tăng

1. Gía trị sản

1206,5

1275,6

1377,8


1753,4

2118,7

2691

trưởng
+17,4%

lượng
2. Doanh thu

1279,1

1032,5

1436,9

1768,2

2256

2814,3

+17,08%

3. Nộp ngân

61,19


119,2

113,1

162,4

195,2

273,6

+34,92%

sách

Nguồn: báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh khối công nghiệp năm 1998- 2003

Nhờ đổi mới công nghệ mà hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn
khối công nghiệp bưu chính viễn thông đã đạt được hiệu quả, luôn giữ được
mức tăng trưởng cao, bình quân hàng năm đạt từ 17- 34%/năm trong giai
đoạn 1998- 2003, doanh thu toàn khối đạt khoảng 2814 tỉ VND năm
2003[ Tạp trí kinh tế & phát triển số 82, 2004]
Thứ tư là ngay từ đầu đã phải chú ý đến vấn đề môi trường, Trong
văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX có nêu:” Sử dụng hợp
lí và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn
đa dạng sinh học, coi đây là nội dung quan trọng của chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế- xã hội. Tăng
cường công tác quản lí ở tất cả các lĩnh vực, các vùng; thực hiện nghiêm
Luật bảo vệ môi trường.” Như chúng ta đã biết nguồn tài nguyên thiên
9



nhiên đang ngày một cạn kiệt dưới sự khai thác tràn lan , không có kế hoạch
của con người, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có hạn( than, khí đốt, dầu
mỏ…) và đã đến lúc con người phải lên kế hoạch khai thác một cách khoa
học và tiết kiệm các nguồn tài nguyên này, coi đó là tài sản của quốc gia.
Mặt khác không ngừng tìm các nguồn tài nguyên, năng lượng khác để thay
thế( nước, ánh sáng mặt trời…), không ngừng chế tạo ra các nguồn nguyên
liệu tổng hợp để thay thế bằng khoa học- công nghệ hiện đại( chất dẻo
polime). Bên cạnh đó còn phải kể đến vấn đề ô nhiễm môi trường đang ngày
càng gia tăng trầm trọng do nạn đốt,phá rừng bừa bãi; khí thải trong công
nghiệp và sinh hoạt; công tác bảo vệ môi trường chưa được chú ý… Mà hậu
quả của nó là hiện tượng trái đất đang nóng dần lên, lỗ thủng tầng Ôdôn
ngày càng lớn… gây ra các hiện tượng băng tan làm mực nước biển dâng
cao sẽ nhấn chìm một số quốc gia, sóng thần, hạn hán, lũ lụt…Vì vậy ngay
từ đầu khi bắt đầu quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa Đảng và nước ta
đã coi trọng vấn đề bảo vệ môi trường, coi đó là vấn đề lâu dài và mang lại
hiệu quả trong tương lai, với khẩu hiệu vì một môi trường xanh sạch đẹp.
Thứ năm là có cơ chế và chính sách phù hợp để nâng cao và huy
động mọi nguồn lực cho quá trình công nghiệp hóa và hiên đại hóa. Đảng
ta đã xác định công nghiệp hóa- hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của
mọi thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo. Tập
trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xóa bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to
lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và mọi người dân ra sức làm giàu
cho mình và cho đất nước. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt
hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài .Nội lực là quyết
định,ngoại lực là quan trọng, gắn kết vơí nhau thành nguồn lực tổng hợp để
phát triển đất nước.

10



Trong đó đặc biệt quan trọng là chính sách phát triển nguồn nhân
lực, yếu tố thứ nhất của lực lượng sản xuất, có vai trò quyết định đến thành
công của quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Trước một thực
trạng là nguồn nhân lực nước ta hiện nay phần lớn là lao động có trình độ
thấp chưa qua đào tạo.
Bảng: Tỷ lệ lao động có chuyên môn kĩ thuật( tính đến 1/7/2002)

Đơn vị:% số lực lượng lao động
Lao động có chứng chỉ Công nhân kĩ thuật có
nghề trở lên
băng trở lên
Cả nước
19,49
12,47
Đồng bằng sông Hồng
25,59
15,32
Đông bắc
16,13
12,11
Tây Bắc
10,8
8,69
Bắc Trung Bộ
18,56
10,99
Duyên hải Nam trung Bộ
18,72

10,65
Tây Nguyên
13,69
9,29
Đông Nam Bộ
27,6
20,03
Đồng Bằng sông Cửu Long
12,65
7,18
( Kết quả kiểm tra lao động việc làm 2002, Trung tâm Thông tin và thống kê LĐXH, Bộ Lao động- Thương binh và xã hội)

Nghiên cứu cũng cho thấy, hiện nay chỉ số HDI( chỉ số phát triển con
người) của Việt Nam khoảng 0,678 xếp thứ 108/174 nước, thuộc nhóm các
nước phát triển trung bình trên thế giới[ Tiến sĩ Nguyễn Tiệp. Tạp trí kinh
tế& phát triển( Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập và toàn
cầu hóa), 2003] . Tất cả số liệu trên cho thấy nguồn nhân lực nước ta còn
khoảng cách khá xa so với các nước phát triển.
Vậy vấn đề đặt ra là phải xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng được nhu
cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá bao gồm những con người có đức, có tài,
ham học hỏi, thông minh sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự
phồn vinh của tổ quốc, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, đào tạo thành
thạo về kĩ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành

11


vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa hoc- kĩ thuật vươn ngang
tầm thế giới. Trong nguồn nhân lực mới ấy, việc xây dựng giai cấp công
nhân là một nhiệm vụ trọng tâm, bởi vì chỉ với một giai cấp công nhân

trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, kiến thức và kĩ năng nghề
nghiệp cao, có trình độ làm chủ khoa- kĩ thuật và công nghệ mới, trí thức
hoá mới có thể là nòng cốt liên minh với nông dân, trí thức, tập hợp và đoàn
kết với các thanh phần khác, phấn đấu đưa sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện
đại hoá đến thành công.
Trước tình hình đó thi Đảng và nhà nước ta đã có các chính sách nhằm
phát triển nguồn nhân lực như: xã hội hóa giáo dục, đào tạo, dạy nghề, tiền
công và tiền lương đối với người lao động, bảo hiểm xã hội… Đi với việc
phát triển nguồn nhân lực cần phải chú ý đến việc bố trí và sử dụng tốt các
nguồn nhân lực ấy, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao
động sáng tạo của họ nhằm đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả cao,
góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hóa đất nước.
b. Qúa trình chuyển đổi cơ cấu theo hướng hiện đại, hợp lí và hiệu
quả.
Cơ cấu nền kinh tế quốc dân là cấu trúc của nền kinh tế của nền kinh
tế bao gồm các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế và
mối quan hệ hữu cơ giữa chúng. Trong cơ cấu kinh tế thì cơ cấu các ngành
kinh tế là quan trọng nhất, quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác. Một
cơ cấu kinh tế hợp lí là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. Vì
vậy công nghiệp hóa đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí, hiện đại.
Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động biến đổi do sư vận động biến
đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qui định. Xu hướng chuyển
dịch cơ cấu được coi là hợp lí, tiến bộ là tỉ trọng khu vực công nghiệp và xây
dựng, đặc biệt là tỉ trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng; tỉ trọng khu vực
12


nông, lâm, ngư nhiệp và khai khoáng ngay càng giảm trong giá trị tổng sản
phẩm xã hội.
Ở nước ta, kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay

dưới ánh sáng của đường lối đổi mới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt
được những thành tựu quan trọng. Qúa trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở
nước ta là quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ chỗ què
quặt, lạc hậu, ít hiệu quả sang cơ cấu kinh tế ngày càng phù hợp với nền sản
xuất hiện đại, mà bộ xương của nó là công- nông nghiệp- dịch vụ gắn với
phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng. Mục tiêu phấn đấu của nước ta đến
năm 2010 là tỉ trọng GDP của nông nghiệp là 16- 17%, công nghiệp là 4041%, dịch vụ là 42- 43%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta trong thời kì quá độ lên CNXH
được thực hiện theo phương châm: kết hợp công nghệ với nhiều trình độ,
tranh thủ công nghệ mũi nhọn- tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao động
dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu vừa phù hợp với nguồn
vốn có hạn trong nước; lấy qui mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến qui mô
lớn nhưng phải hợp lí và có điều kiện; giữ được tốc độ tăng trưởng hợp lí,
tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và trong các vùng kinh
tế… chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong những năm trước mắt cần
thực hiện theo định hướng chung sau: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
đầu tư dựa trên cơ sở phát huy những thế mạnh và các lơI thế so sánh của
đất nước ( Nguồn nhân công lao động rẻ, khỏe, khéo léo; tài nguyên thiên
nhiên nhiều,phong phú; vị trí địa lí thuận lợi), tăng sức cạnh tranh, găn nhu
cầu thị trường trong nước với ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và
quốc phòng an ninh. Tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở
rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.

13


c. Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu đòi hỏi
phải xác lập chế độ công hữu( sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) về những

tư liệu sản xuất chủ yếu. Vì vậy khi cơ sở vật chất của CNXH được xây
dựng xong vê căn bản thì chế độ công hữu sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối. Nhưng
để đạt tới trình độ đó thì phải trải qua quá trình phát triển kinh tế- xã hội lâu
dài, trong đó quan hệ sản xuất được cải biến dần từ thấp đến cao theo trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tiêu chuẩn để căn bản để xét một quan
hệ sản xuất có phù hợp với lực lượng sản xuất, có đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa là ở chỗ nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và cải thiện đời
sống nhân dân, tạo được công bằng và trật tự xã hội hay không.
II.CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓAHIỆN ĐẠI HÓA TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM LÀ QUI LUẬT
PHÙ HỢP GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1.Khái niệm
a.Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất của con người thể
hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải
vật chất. Nó là tổng thể các nhân tố vật chất, kĩ thuật, công nghệ được sử
dụng vào một quá trình sản xuất nhất định.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của
họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất thì yếu tố người lao động mà
cụ thể là sức lao động của họ là yếu tố quyết định. Vì chính họ là chủ thể của
quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình sử
14


dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của
cải vật chất. Cùng với quá trình sản xuất, sức mạnh và kĩ năng lao động của
con người không ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người
không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày

nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngay càng
đóng vai trò chính yếu, điều đó cho thấy xu hướng phát triển của nền kinh tế
trí thức.
Cùng với người lao động,công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản
của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công
cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “ sức mạnh tri thức đã được vật
hóa”, nó là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, cùng với quá trình tích
lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kĩ thuật của con người,
công cụ lao động không ngừng được cải biến và hoàn thiện. Trình độ phát
triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con
người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Đặc thù của nền sản xuất
hiện đại là khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mà
thực chất đó là tri thức khoa học( tự nhiên, xã hội…). Và điều đó chỉ xảy ra
một khi khoa học được kĩ thuật hóa, công nghệ hóa và do đó nó có thể thâm
nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ của lực lượng
sản xuất, chứ nó không phải là nhân tố thứ 3 của lực lượng sản xuất.
b.Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất ( sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm ba
mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và
quản lí sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm xuất ra.
15


Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó hình thành một cách
khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người, nó là quan hệ xuất phát từ nhu cầu của quá trình cải tạo giới
tự nhiên và nó phụ thuộc vào lực lượng sản xuất. Nó là hình thức xã hội của

sản xuất, ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau tạo thành một hệ
thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động và phat triển không
ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản đặc trưng cho quan hệ sản xuất
trong từng xã hội, nó quyết định quan hệ về tổ chức quản lí sản xuất, quan
hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác. Lịch sử nhân loai
đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư
nhân( tư liệu sản xuất tập trung vào tay một số ít người) và sở hữu công
cộng( tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Quan hệ tổ
chức, quản lí sản xuất và quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra cũng có
tác động đến quá trình sản xuất, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản
xuất.
2. Nội dung qui luật
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai phương diện thống
nhất biện chứng của một phương thức sản xuất nhất định. Chính sự tác
động biện chứng giữa chúng là nguyên nhân của sự biến đổi và phát triển
của phương thức sản xuất, của quá trình sản xuất xã hội và của đời sống xã
hội và lịch sử loài người.
Trong mối quan hệ ấy, lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định đối
với quan hệ sản xuất, bởi vì nó chính là nội dung vật chất của quá trình sản
xuất, còn quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình ấy.Thứ nhất,
tương ứng với một thực trạng của lực lượng sản xuất hiện có, đòi hỏi phải
16


có một hệ thông quan hệ sản xuất tương ứng và phù hợp; Thứ hai là những
biến đổi của lực lương sản xuất nhất là những biến đổi căn bản về trình độ,
tính chất thì tất yếu sẽ dẫn đến những thay đổi trong quan hệ sản xuất tương
ứng.

Với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất , quan hệ
sản xuất cũng có tác động ngược trở lại tới lực lượng xuất. Nó có thể tác
động tích cực tới lực lượng thể hiện ở sự bảo tồn, duy trì, khai thác, sử dụng
tối đa và tối ưu các lực lượng sản xuất hiện có, điều này xảy ra khi quan hệ
sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. Song nó ngược lại nó cũng có thể
tác động tiêu cực thể hiện ở sự không bảo tồn, không khai thác sử dụng và
không phát triển được các lực lượng sản xuất hiện có , hơn thế nữa nó còn
kìm hãm và phá hoại sự phát triển ấy.
Logic biện chứng của mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất là dưới sự tác động của nhiều nhân tố bên ngoài một cách
khách quan dẫn đến lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và phát triển,
nó là yếu tố động, cách mạng. Trong khi đó một cách khách quan, tất yếu
các quan hệ sản xuất lại có tính ổn định tương đối. Vì vậy khi lực lượng sản
xuất phát triển đến một trình độ và phạm vi nhất định sẽ dẫn đến một thực tế
là xuất hiện mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có. Những quan hệ này từ
chỗ là hình thức phù hợp cho sự phát triển của lực lượng sản xuất thì nay lại
cản trở, hìm hãm sự phát triển ấy. Do đó cần phải có sự thay đổi mà đỉnh cao
của nó là các cuộc cách mạng trong quan hệ sản xuất để tạo lập một hệ thống
quan hệ mới phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có, hình thành một phương
thức sản xuất mới, rồi đến một nền kinh tế mới, một xã hội mới.

17


Kết luận
Trước tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp nói chung và thực
trạng nền kinh tế đang phát triển ở Việt Nam nói riêng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá- hiện đại hoá và coi đó là nhiệm vụ
trung tâm xuyên suốt thời kì quá độ lên XHCN, nhằm xây dựng cơ sở vật
chất kĩ thuật cho XHCN.

Với những mục tiêu trung hạn, dài hạn rõ ràng Đảng ta đã đề chiến
lược cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá, Đảng đã đề
ra sáu quan điểm là kim chỉ nam xuyên suốt là: Giữ vững độc lập tự chủ đi
đôi với mở rộng quan hệ quốc tế; công nghiệp hoá- hiện đại hoá là sự nghiệp
của toàn dân; lấy việc phát huy nguồn lực con người là cơ bản; khoa học
công nghệ là nền tảng và động lực; lấy kết quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn,
thước đo; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với củng cố an ninh quốc
phòng. Quán triệt tinh thần của các quan điểm trên Đảng ta đã vận dụng một
cách sáng tạo vào nội dung của quá trình công nghiệp

hoá-hiện đại hoá

nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam, đó là: phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hiệu quả; xây dựng
quan hệ sản xuất XHCN phù hợp.
Đây là những đổi mới đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trên con
đường xây dựng XHCN trên cơ sở hiện thực khách quan của lịch sử, trên
nền tảng tư duy triết học Mac-Lenin( đặc biệt là qui luật phù hợp giữa lực
18


lượng sản xuất và quan hệ sản xuất) chứ không phải là áp dụng một cách dập
khuôn,máy móc theo ý muốn chủ quan.
Quá trình công nghiệp-hoá hiện đại hoá được thể hiện quyết tâm của
toàn Đảng, toàn dân ta xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN
trên nền tảng chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

19




×