Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bài GIẢNG CHUYÊN đề SINH lý HỌC,SINH lý DA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.01 KB, 10 trang )

BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ:

SINH LÝ HỌC:

SINH LÝ DA

Biên soạn: BS.Trần Đăng Quyết

1


MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ:
Sau khi học xong chuyên đề “Sinh lý học: Sinh lý da”, người học
nắm được những kiến thức về các chức phận của da; sự liên quan giữa da
và nội tạng.

2


NỘI DUNG
Da người lớn có diện tích 1,5m2 đến 1,8m2 và có trọng lượng trung bình
là 15 - 18kg. Da không phải chỉ là một màng bọc đơn thuần, mà là một cơ
quan có nhiều chức phận quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với đời sống.
Mặt khác da có liên quan mật thiết đến các bộ phận khác trong cơ thể. Da có
nhiệm vụ cách ly giữa nội môi và ngoại môi, giữ cho nội môi tương đối hằng
định trong khi ngoại môi luôn biến đổi. Do đó, sự toàn vẹn, lành mạnh của da
là yếu tố cần thiết để đảm bảo sức khỏe chung.
1. CHỨC PHẬN BẢO VỆ CỦA DA
Da là một hàng rào bảo vệ các cơ quan sâu như thần kinh, mạch máu,
cơ xương, phủ tạng khỏi các tác hại của các yếu tố cơ học, lý học, hoá học, vi
khuẩn có hại.


Nhờ có cấu trúc rất chặt chẽ của lớp malpighi được tăng cường do các
cầu nối giữa các tế bào, nhờ vùng tiếp giáp trung - thượng bì vững chắc, nhờ
sự đàn hồi vừa dẻo vừa chắc của các sợi tạo keo, sợi liên kết ở trung bì, nhờ
lớp mỡ đệm dưới da nên da có thể chống lại các chấn thương, sây xát từ ngoại
cảnh (da chịu được một áp lực 1,8kg trên một mili mét vuông).
Trên bề mặt thượng bì còn có lớp “phim mỡ" gồm chủ yếu là axít béo
triglyxerit, cholesterol, chất bã, làm cho da không bị ẩm quá hoặc khô quá tạo
khả năng chống đỡ với những thay đổi đột ngột về nhiệt độ; đồng thời bảo vệ
da khỏi sự tấn công của vi khuẩn, nấm; có tác giả gọi đây là “khả năng tiệt
trùng tự nhiên của da”. Nấm ngoài da thường mọc ở các vùng không có tuyến
bã; các nấm xén tóc trẻ em thường tự nhiên khỏi ở tuổi dậy thì là lúc tăng
hoạt động của tuyến bã.

3


Da có tác dụng ngăn cản sự tác dụng của ánh sáng. Lớp sừng không cho
ánh sáng có bước sóng 200nm xuyên qua. Lớp trung bì ngăn cản bức xạ ánh
sáng có bước sóng 340 - 700nm. Các bức xạ có bước sóng dài gây biến đổi
nhiệt làm tăng chuyển hoá. Bức xạ có bước sóng ngắn (tử ngoại) gây ra hiệu
ứng quang điện, thay đổi điện tử ở màng tế bào từ đó dẫn đến thay đổi tính
thấm. Các sắc tố da cũng có tác dụng ngăn cản tác động của bức xạ ánh sáng
bảo vệ các cơ quan dưới da.
Độ toan kiềm (pH) của da là yếu tố quan trọng để chống đỡ với vi
khuẩn và nấm, pH của da thay đổi tuỳ từng vùng, trung bình từ 4,2 - 5,6.
Những vùng da bị kiềm hoá (vùng có nhiều mồ hôi ẩm ướt, các nếp bẹn, kẽ
chân, nách...) dễ bị nấm và vi khuẩn tấn công.
Thượng bì còn có nhiều khả năng trung hoà đối với các dung dịch toan
hoặc kiềm loãng đặt trên da (khả năng đệm).
Trong một số bệnh: nấm da, viêm da tiếp xúc, bệnh eczema và một số

bệnh da nghề nghiệp khả năng đệm này bị giảm.
2. CHỨC PHẬN ĐIỀU HÒA NHIỆT ĐỘ CỦA DA
Nhờ hệ số dẫn nhiệt của tổ chức mỡ dưới da (k = 0,00033) và của lớp
sừng (k = 0,000125) tương đối thấp, nên về mùa đông da thường giữ không
cho toả nhiệt nhiều cũng như cản bớt lạnh ở ngoài vào. Da còn có vai trò chủ
động trong điều hoà nhiệt độ, do một loạt phản xạ đi từ các cơ quan thụ cảm
nhiệt ở trung bì đến trung tâm điều hoà nhiệt độ dưới ở đồi thị. Da tham gia
điều hoà nhiệt độ bằng 2 cơ chế chính: ra mồ hôi và phản ứng vận mạch.
Khi nhiệt độ bên ngoài tăng cao, cơ thể phản ứng bằng giãn mạch máu
dưới da để tăng toả nhiệt, đồng thời tăng tiết mồ hôi và tăng bốc hơi, làm
giảm nhiệt (trung bình tiết 1 lít mồ hôi làm tiêu hao 500 calo). Ngược lại khi

4


nhiệt độ bên ngoài thấp cơ thể sẽ phản ứng bằng co mạch máu dưới da, giảm
tiết mồ hôi, giảm toả nhiệt trên da.
Tổn thương rộng trên da ảnh hưởng đến chức phận điều hoà nhiệt độ.
Khi đó ngừng trệ tuần hoàn tĩnh mạch, vùng da tổn thương thường lạnh.
Trong ban đỏ do viêm, có tăng nhiệt độ tại chỗ và tăng toả nhiệt, do đó bệnh
nhân đỏ da toàn thân thường có cơn rét run biểu hiện sự điều hoà nhiệt độ
kém của da và cơ thể.
3. CHỨC PHẬN BÀI TIẾT CỦA DA
- Bài tiết mồ hôi: trên mặt da toàn cơ thể có chừng 2 - 5 triệu tuyến mồ
hôi. Ngoài nhiệm vụ tham gia điều hoà thân nhiệt, mồ hôi còn có nhiệm vụ
thải trừ các chất cặn bã, độc hại, chủ yếu là urê. Ở đây, da có vai trò hỗ trợ
cho thận.
Thành phần của mồ hôi:
Nước 98 - 99%.
Chất hữu cơ 0,6%.

Muối 0,5%.
Sunfat, phốt phat: vết.
- Bài tiết chất bã (sebum): tuyến bã thường tập trung nhiều nhất ở mặt,
lưng, ngực. Chất bã làm cho da không ngấm nước, lớp sừng mềm mại, lông
tóc trơn mượt, giúp cho da chống đỡ với vi khuẩn và nấm. Thành phần chất
bã gồm 2/3 là nước, còn 1/3 là a xít béo, squalen, cholesterol.
4. CHỨC PHẬN DỰ TRỮ CHUYỂN HÓA CỦA DA
4.1. Dự trữ Nước
Trong cơ thể, nước chiếm 64%, riêng ở da 9%. Sau khi tiêm nước vào
tĩnh mạch cho một con chó có tác giả thấy 17,7% được giữ lại trong da và
67,8% trong bắp thịt. Nếu điều trị bằng thuốc lợi tiểu thì nước ở da sẽ giảm đi

5


từ 8 - 10%; nước ở các bộ phận khác không thay đổi. Như vậy da giữ vai trò
rất quan trọng trong việc giữ thăng bằng nước.
4.2. Dự trữ NaCl
Da dự trữ NaCl khá nhiều. Khi lao động, tiết nhiều mồ hôi thì nước ở
da cũng giảm. Khi thận bị tổn thương, chức phận lọc NaCl sút kém, muối giữ
lại nhiều trong máu và bị đưa ra da. NaCl ứ đọng ở da sẽ kéo theo nước, gây
phù nề ở da. Nếu tiêm tĩnh mạch một dung dịch NaCl ưu trương thì da sẽ giữ
từ 20 - 77% số lượng NaCl. Ăn nhạt, da sẽ mất 60 - 90% số lượng NaCl. Như
vậy da giữ vai trò rất quan trọng trong việc giữ thăng bằng chất NaCl trong cơ
thể.
4.3. Dưới tác dụng của tia cực tím cholesteron dưới da được chuyển hoá
thành vitamin D, cần thiết cho sự hấp thu chất Ca ở xương.
4.4. Ở da còn có các chất điện giải khác như Ca, K, Mg.
4.5. Tỷ lệ glucose tự do trong da thường bằng 2/3 đường huyết. Khi tỷ
lệ này tăng cao, thường dễ bị ngứa, nhiễm vi khuẩn, nấm men (moniliase),

glycogen dưới da tham gia trong quá trình keratin hoá, glycogen thường tăng
trong một số trạng thái viêm.
Da chứa rất nhiều loại men như oxydaza, proteaza, hyaluronidaza các
men này tham gia vào sự chuyển hoá chất trong cơ thể hoặc ngăn cản tác
động của vi sinh vật hoặc nấm xâm nhập vào cơ thể
Các chất chalone, chất kháng chalone liên quan đến việc lành sẹo hay
tạo sẹo lồi của da.
5. CHỨC PHẬN TẠO KERATIN VÀ TẠO MELANIN
Có thể coi là 2 chức phận đặc hiệu của tế bào thượng bì, đồng thời cũng
là 2 chức phận sơ đẳng đảm bảo cho sự toàn vẹn và lành mạnh của da.

6


Trong quá trình sừng hoá các protein hình cầu của tế bào gai chuyển
thành protein hình lá, hình sợi. Quá trình sừng hoá có thể gặp tăng sừng, dầy
sừng (hyperkeratose) là sừng hoá mạnh quá; hoặc loạn sừng(dyskeratose): các
tế bào sừng còn nhân và chứa đầy các lá sừng.Năng lượng cần thiết cho sự
chuyển hoá này là do hoá giáng của glycogen ở tế bào gai. Cu (đồng) đóng
vai trò xúc tác.
Melanin là một protein phức hợp, màu xẫm được hình thành chủ yếu từ
tyrosin. Dưới tác động của men tyrosinaza, qua nhiều giai đoạn trung gian
chất dopa chuyển thành melanin. Sự sản sinh ra melanin được tiến hành trong
các tế bào tua nằm xen kẽ ở lớp đáy. Tuỳ thuộc chủng tộc, tuổi tác, địa lý sự
phân bố các sắc tố khác nhau tạo màu da khác nhau.
6. CHỨC PHẬN CẢM GIÁC CỦA DA
6.1. Sơ đồ phân bố tận cùng thần kinh và các hạt thụ cảm ở da.

(1) Vật thể Golgi Mazzoni;


(2) Hạt Meissner;

(3) Hạt Kraus;

(4) Hạt Ruffini;

(5) Hạt Pacini;

(6) Đầu tận cùng thần kinh tự do.

7


6.2. Cơ chế hiện tượng ngứa
Yếu tố ngoại cảnh.

Thần kinh.
↓↓↓
Ngứa → phản xạ → gãi → dập nát các tế bào→ giải phóng histamin.
Chính tiết histamin làm giảm ngứa, nhưng gây giãn mạch và phù nề tạo
phản ứng viêm, từ phản ứng viêm lại dẫn đến ngứa tăng dần và trở thành
vòng luẩn quẩn.
- Nếu biết cách gãi thì sẽ làm dịu được ngứa (chiều dài vết gãi tương
ứng với số lượng điểm tiếp nhận thần kinh của da thì sẽ không gây hậu quả
ngứa lại vì chỉ vừa đủ tiết histamin ức chế ngứa).
- Khi gãi thần kinh ngoại vi bị tổn thương và gây ra biến đổi của da
như:
+ Xung huyết.
+ Nhiễm sắc.
+ Sinh ra teo, dày sừng.

+ Có thể tăng tiết mồ hôi.
+ Phù, nề, loét...
- Có ba loại cảm giác được tiếp nhận da:
+ Cảm giác sờ mó, tỳ ép, đụng chạm được tiếp thu do các hạt Meissner
và Pacini.
+ Hạt Golgi và Mazzoni tiếp nhận tỳ đè.
+ Cảm giác nóng do hạt Ruffini và cảm giác lạnh do hạt Krause tiếp thu
hoặc thụ cảm nội tạng tiếp nhận.
+ Cảm giác đau do tận cùng các dây thần kinh đảm nhận.

8


Nhờ có chức phận cảm giác mà cơ thể có thể thích ứng được với ngoại
cảnh và tránh được nhiều yếu tố có hại.
7. CHỨC PHẬN MIỄN DỊCH CỦA DA
Da có liên quan đến miễn dịch tế bào, có các tế bào có thẩm quyền
miễn dịch như tế bào Langerhans, các lympho T, nhất là khi có phản ứng
miễn dịch xảy ra. Đồng thời có các yếu tố sinh học hoà tan cũng đóng góp
vào cơ chế miễn dịch này.
Khi có kháng nguyên xâm nhập vào da, tế bào Langerhans xuất hiện bắt
giữ KN, xử lý và trình diện KN với limphô bào có thẩm quyền miễn dịch.
Bản thân tế bào sừng cũng có vai trò miễn dịch, nó tiết ra interferon.
8. CHỨC PHẬN NGOẠI HÌNH CỦA DA
Tạo hình thái cơ thể con người.
9. SỰ LIÊN QUAN GIỮA DA VÀ NỘI TẠNG
9.1. Da là nơi phản ánh nhiều rối loạn hoặc tổn thương nội tạng, nội
tiết.
- Bệnh gan, mật biểu hiện vàng da và niêm mạc.
- Táo bón, giun sán có thể gây sẩn ngứa, eczema.

- Lao thận có thể gây xạm da.
- Rối loạn thiểu năng tuyến yên, giáp trạng có thể gây biến đổi ở da,
lông, tóc, móng.
- Thiếu sinh tố có thể gây nhiều biến đổi đặc hiệu trên da.
9.2. Tổn thương da có thể ảnh hưởng sâu sắc đến nội tạng đến sức
khoẻ chung.
- Bệnh da ngứa mạn tính có thể ảnh hưởng đến thần kinh trung ương,
gây suy nhược thần kinh.

9


- Mụn nhọt, nhiễm trùng da có thể gây nhiễm khuẩn huyết, viêm cầu
thận cấp nguy hiểm.
- Nắm vững chức phận sinh lý da cũng có nghĩa đánh giá đúng mức vị
trí của da trong cơ thể thống nhất, đồng thời thấy rõ tác hại của các bệnh
ngoài da, do đó có thái độ đúng đắn trong chẩn đoán cũng như điều trị dự
phòng các bệnh ngoài da, góp phần đảm bảo sức khoẻ chung trong nhân dân
cũng như bộ đội.

=====HẾT=====

10



×