Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.08 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHU HÀ MI

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
(SỬA ĐỔI) NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHU HÀ MI

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
(SỬA ĐỔI) NĂM 2014

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Đào Thị Hằng

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Pháp luật
dân sự, tổ bộ môn Luật Lao động đã giúp đỡ và cung cấp cho em những
kiến thức bổ ích về pháp luật lao động để em có nền tảng thực hiện luận
văn thạc sỹ này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến cô giáo
– PGS.TS Đào Thị Hằng đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận
văn thạc sỹ.

Hà Nội, ngày 22 tháng 5 năm 2015.
Học viên
Chu Hà Mi


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan nội dung luận văn hoàn toàn là kết quả do em tự
nghiên cứu. Mọi ý kiến, khái niệm, kết luận, và mọi tham khảo khác được sử
dụng trong bài viết mà không phải của riêng tác giả luận văn đều được chú
thích và trích dẫn nguồn đầy đủ. Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 22 tháng 5 năm 2015.
Học viên
Chu Hà Mi



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………...…………………1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ . SỰ
CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014………5
1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội .......................................................................... 5
1.1.1. Định nghĩa Bảo hiểm xã hội ................................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội ................................................................ 8
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm xã hội .................................................... 11
1.2. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội ........................................................... 13
Kết luận chương 1 ............................................................................................. 17
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ
HỘI NĂM 2014 ……………………………………………….....……………19
2.1. Chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................................................ 19
2.1.1. Về đối tượng tham gia BHXH .............................................................. 19
2.1.2. Chế độ ốm đau ..................................................................................... 21
2.1.3. Chế độ thai sản ..................................................................................... 23
2.1.4. Chế độ hưu trí....................................................................................... 26
2.1.5. Chế độ tử tuất ....................................................................................... 35
2.2. Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện.............................................................. 40
2.2.1. Chế độ hưu trí....................................................................................... 40
2.2.2. Chế độ tử tuất ....................................................................................... 42
2.3. Vấn đề bảo hiểm thất nghiệp ...................................................................... 42
2.4. Vấn đề bảo hiểm hưu trí bổ sung ................................................................ 45
2.5. Quỹ bảo hiểm xã hội .................................................................................. 46
2.6. Xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội .............................................................. 50
Kết luận chương 2 ............................................................................................. 53


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 201……………....56
3.1. Yêu cầu cơ bản cần đảm bảo để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của Luật
bảo hiểm xã hội năm 2014................................................................................. 56
3.1.1. Luật Bảo hiểm xã hội 2014 phải khắc phục được những nhược điểm,
bất cập của Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành .................................................. 56
3.1.2. Luật Bảo hiểm xã hội 2014 phải đồng bộ với các văn bản pháp luật
khác có liên quan...................... ...................................................................... 56
3.1.3. Luật Bảo hiểm xã hội 2014 phải có tính khả thi, phù hợp với thực tiễn
cuộc sống ....................................................................................................... 57
3.1.4. Luật Bảo hiểm xã hội 2014 phải được tuyên truyền, giải thích, phổ
biến rộng rãi đến các bộ phận người lao động ................................................ 58
3.2. Một số kiến nghị cụ thể .............................................................................. 59
3.2.1. Bổ sung một số quy định về chế độ tai nạn, bệnh nghề nghiệp. ............ 59
3.2.2. Sửa đổi Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 về bảo hiểm xã hội một
lần .................................................................................................................. 61
3.2.3. Hình sự hoá các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ............ 63
3.2.4. Cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội ......... 65
Kết luận chương 3 ............................................................................................. 67
KẾT LUẬN................ ..................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. ...................................................... 70


DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHTN

: Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH


: Bảo hiểm xã hội

BLHS

: Bộ luật Hình sự

DN

: Doanh nghiệp

NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ

: Người sử dụng lao động


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đối với bất kỳ quốc gia nào, BHXH luôn là trụ cột quan trọng nhất của hệ
thống An sinh xã hội. Tại Việt Nam, trải qua một quá trình lịch sử, cùng với thay
đổi qua những thời kỳ khác nhau, chính sách BHXH đã góp phần to lớn vào việc
ổn định đời sống cho người lao động thụ hưởng các chế độ BHXH; góp phần ổn
định chính trị - xã hội đất nước. Luật BHXH năm 2006 đã đánh dấu một bước
tiến quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế
độ, chính sách BHXH, pháp điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các

chính sách BHXH phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện vọng đông đảo người
lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Chính sách BHXH đã phát
huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động,
người sử dụng lao động, tạo điều kiện để mọi người lao động đều có thể tham
gia vào hệ thống BHXH với việc bổ sung thêm hình thức BHXH tự nguyện, góp
phần thực hiện mục tiêu An sinh xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam đã
trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thì việc mở rộng đối tượng tham gia và
tăng cường tính bền vững của hệ thống BHXH có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với việc thực hiện mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội. Luật Bảo hiểm xã hội
2006 đã không đáp ứng được yêu cầu trên do còn tồn tại những bất cập cản trở
tính bền vững của hệ thống xã hội. Chính vì vậy, những bất cập của Luật BHXH
năm 2006 đã đặt ra nhu cầu khách quan về việc sửa đổi Luật BHXH một cách
căn bản nhằm thiết lập khung chính sách, pháp luật BHXH phù hợp với sự phát
triển của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đáp ứng nhu cầu sửa đổi
chế định về bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm xã hội 2014 đã ra đời với nhiều
điểm mới cơ bản. Dưới góc độ nhìn nhận của các nhà làm luật, những điểm mới
này thật sự tiến bộ, thực hiện được chủ trương, chính sách phát triển bền vững an
sinh xã hội tuy nhiên, không phải những điểm mới nào cũng thuyết phục được
mọi người lao động.


2

Với mong muốn không chỉ tìm ra các điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội
2014 mà còn đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân của những sự thay đổi đó để đi
đến khẳng định Luật Bảo hiểm xã hội 2014 tiến bộ và thể hiện rõ tính bền vững
hơn Luật Bảo hiểm xã hội 2006, tác giả luận văn đã chọn đề tài: “Những điểm
mới của Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) năm 2014” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học Luật của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 là một vấn đề mới, nảy
sinh khi Luật Bảo hiểm xã hội 2014 ra đời. Trong khoảng thời gian ngắn – từ khi
Luật Bảo hiểm xã hội 2014 ra đời cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu về những điểm thay đổi của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 so với Luật
Bảo hiểm xã hội 2006 mà chỉ có những bài viết trên một số trang thông tin điện
tử về những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Tuy nhiên, những bài viết
này chưa phân tích cụ thể và đầy đủ những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội
2014, có thể kể đến những bài viết về vấn đề này như:
- “Những điểm mới trong Luật Bảo hiểm xã hội” được đăng trên trang tin
điện tử Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
- “Toạ đàm báo chí về những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội (sửa
đổi)” được đăng trên trang Bộ Lao động – Thương binh và xã hội.
- “Một số điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi)” được đăng trên
trang Thông tin điện tử tổng hợp Ban Nội chính trung ương. …
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề chung về bảo hiểm xã
hội, sự cần thiết phải ban hành Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và những điểm mới
của Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Trong những điểm mới của Luật Bảo hiểm xã
hội 2014, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những điểm mới cơ bản – đó là
những chế độ bảo hiểm xã hội mà không đi vào nghiên cứu những điểm mới của
những quy định chung. Để làm rõ những vấn đề trên, luận văn đã nghiên cứu
Luật Bảo hiểm xã hội 2006 và Luật Bảo hiểm xã hội 2014 để từ đó rút ra những
điểm mới của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 so với Luật Bảo hiểm xã hội 2006.


3

Bên cạnh đó, luận văn cũng đi vào nghiên cứu giải pháp để nâng cao hiệu quả
điều chỉnh của Luật Bảo hiểm xã hội 2014.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã áp dụng các phương pháp
sau: diễn giải, phân tích, liệt kê, so sánh, tổng hợp, thống kê. Phương pháp diễn
giải và tổng hợp giúp làm rõ định nghĩa. Phương pháp phân tích đặc biệt hữu ích
trong việc làm rõ những hạn chế của Luật Bảo hiểm xã hội 2006 cũng như làm
rõ những yêu cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của Luật Bảo hiểm xã
hội 2014. Phương pháp liệt kê, so sánh giúp tác giả luận văn nêu ra được những
hạn chế của Luật Bảo hiểm xã hội 2006 và những điểm mới của Luật Bảo hiểm
xã hội 2014. Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc tổng hợp số liệu
thực tế.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về
bảo hiểm xã hội, phân tích những quy định mới của Luật Bảo hiểm xã hội năm
2014 sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của Luật
Bảo hiểm xã hội 2014.
Để đạt được mục đích trên, cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Khái quát các vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội.
- Nêu bật sự cần thiết ban hành Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
- Nêu được các điểm mới trong các chế độ của Luật Bảo hiểm xã hội 2014
cũng như nguyên nhân dẫn đến sự sửa đổi, bổ sung này.
- Làm rõ các yêu cầu để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của Luật Bảo hiểm
xã hội 2014, từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể để Luật Bảo hiểm xã hội 2014
thực sự đạt được hiệu quả trong quá trình thực thi.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn tổng hợp một cách có hệ thống các vấn đề chung về bảo hiểm
xã hội.
- Luận văn so sánh, nghiên cứu, phân tích và chỉ ra những điểm mới của
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 so với Luật Bảo hiểm xã hội 2006.



4

- Luận văn nêu ra những yêu cầu cơ bản và những kiến nghị cụ thể để nâng cao
hiệu quả điều chỉnh của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Một số vấn đề chung về bảo hiểm xã hội và sự cần thiết ban
hành Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014).
Chương 2. Một số điểm mới cơ bản của Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014)
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của Luật
Bảo hiểm xã hội năm 2014.


5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014
1.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội
1.1.1. Định nghĩa Bảo hiểm xã hội
Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính toán khoa học và được
dự báo trước, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ có thể
xảy ra do rất nhiều nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất, hạn hán, hoả
hoạn…), tai nạn giao thông (máy bay, tàu thuỷ, tàu hoả, ô tô, xe máy…), tai nạn
trong lao động sản xuất, ốm đau, dịch bệnh… Những bất trắc, rủi ro đó đã gây ra
và đem đến cho con người những tổn thất, hậu quả to lớn cả về mặt kinh tế, môi
trường sinh thái và môi trường xã hội. Chính vì vậy mà con người đã phải đưa ra
nhiều biện pháp để phòng ngừa, hạn chế và khắc phục những biến cố rủi ro đó.

Chúng ta đang tồn tại trong một xã hội có nhà nước mà nhà nước thì điều
chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật, do vậy những biện pháp phòng ngừa,
né tránh và hạn chế rủi ro được con người chủ động thể chế hoá thành quy định
cụ thể trong các văn bản pháp luật để buộc mọi đơn vị, mọi tổ chức và mọi thành
viên trong xã hội phải tuân thủ thực hiện.
Thông thường có hai nhóm biện pháp khắc phục rủi ro là các biện pháp
chấp nhận rủi ro và bảo hiểm chấp nhận rủi ro. Biện pháp chấp nhận rủi ro là
người gặp phải rủi ro phải chấp nhận khoản tổn thất nhất định, tự bản thân họ
phải tự bảo hiểm cho mình. Họ có thể chủ động lập quỹ dự trữ, dự phòng trước
để bù đắp, khắc phục những tổn thất do biến cố rủi ro gây nên hoặc cũng có thể
đi vay ngân hàng, các tổ chức tài chính để bù đắp tổn thất trong trường hợp
không lập quỹ dự trữ, dự phòng trước.
Bảo hiểm là sự chuyển giao, san sẻ rủi ro giữa những người cùng tham gia
bảo hiểm trên cơ sở những nguyên tắc, chuẩn mực đã được thống nhất và quy
định trước, nhằm đảm bảo an toàn, ổn định sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội


6

của những người tham gia bảo hiểm và cộng đồng xã hội. Bảo hiểm là công cụ
quan trọng và có hiệu quả nhất để khắc phục hậu quả tổn thất khi xảy ra rủi ro.
Mục đích của bảo hiểm là góp phần làm ổn định, an toàn kinh tế cho mọi
người, mọi tổ chức và mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm, đảm bảo an toàn xã hội,
đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng để tham gia đầu tư phát triển kinh tế- xã
hội của đất nước.
Bảo hiểm xã hội đã được nhiều nhà khoa học đề cập và nghiên cứu một
cách sâu sắc dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Bảo hiểm xã hội đã xuất
hiện và phát triển theo cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nhân loại.
Hệ thống Bảo hiểm xã hội hình thành đầu tiên trên thế giới ở Đức dưới thời Thủ
tướng Bismark với cơ chế ba bên (Nhà nước - giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp

nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một số trường hợp rủi ro. Sau đó, mô
hình bảo hiểm xã hội này đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin,
rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh
thế giới thứ hai, bảo hiểm xã hội đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở
châu Á, châu Phi và vùng Caribê. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã
thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội và coi đó là một trong những chính sách xã
hội quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội [12].
Bảo hiểm xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác
nhau như kinh tế, xã hội, pháp lý… Do đó, hiện nay còn tồn tại nhiều quan niệm
khác nhau về bảo hiểm xã hội tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu của các ngành
khoa học. Ví dụ:
- Theo Đại Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên được xuất bản
vào năm 1999 thì bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm những quyền lợi vật chất cho
công nhân, viên chức có tham gia Quỹ Bảo hiểm xã hội khi họ không làm việc
được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động.
- Từ giác độ tài chính: BHXH là thuật (kỹ thuật) chia sẻ rủi ro và tài chính
giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.


7

- Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm
đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các
“rủi ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội….
- Từ giác độ pháp luật: BHXH là tổng hợp những quy định của Nhà nước
điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội hình thành trong lĩnh vực đảm bảo thu
nhập nhằm ổn định nhằm ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ
trong trường hợp gặp phải rủi ro, biến cố trong quá trình lao động hoặc khi già
yếu không còn khả năng lao động [1, tr.105].
- Từ điển giải thích từ ngữ Luật học thì xác định, Bảo hiểm xã hội là bảo

hiểm cho thu nhập của người lao động trong một số trường hợp, do nhà nước tổ
chức quản lý. Đặc trưng cơ bản để phân biệt Bảo hiểm xã hội với các hình thức
bảo hiểm khác là sự kết hợp nghĩa vụ của người sử dụng lao động, việc thực hiện
chính sách bảo đảm xã hội của nhà nước với sự tương trợ cộng đồng giữa những
người lao động để ổn định cho họ và gia đình họ trong và sau quá trình lao động.
Sự “bảo hiểm cho thu nhập” này chỉ có tính tương đối và tuỳ điều kiện kinh tế –
xã hội của mỗi nước và khả năng của quỹ Bảo hiểm xã hội trong mỗi giai đoạn
phát triển. Khi người lao động bị mất thu nhập do không thể lao động được hoặc
sức lao động không được sử dụng (trường hợp thất nghiệp), Bảo hiểm xã hội sẽ
thực hiện trả trợ cấp bảo hiểm xã hội thay cho phần thu nhập bị mất này. Khoản
thu nhập thay thế này cũng tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội và khả năng của
quỹ Bảo hiểm xã hội mà có thể thay thế toàn bộ hoặc một phần. Chính bởi quỹ
Bảo hiểm xã hội được dùng trong việc bù đắp một phần hoặc toàn bộ thu nhập bị
mất của người lao động mà việc thành lập Quỹ bảo hiểm xã hội hoàn toàn không
mang mục đích về lợi nhuận mà hướng tới đảm bảo an sinh xã hội.
Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) cũng đưa ra khái niệm về bảo hiểm xã
hội như sau: Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành
viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng, nhằm chống lại
những khó khăn về kinh tế và xã hội dẫn đến việc ngừng hoặc giảm sút đáng kể
về thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật,


8

tuổi già và chết; đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình
đông con [22].
Như vậy, bảo hiểm xã hội có thể được hiểu theo cách khái quát như sau:
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi

già, hoặc chết; gắn với quá trình tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình
thành bởi các bên tham gia đóng góp và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm
đảm bảo an toàn cho đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần bảo
đảm an toàn xã hội. Dựa trên cách hiểu này, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 đã
đưa ra định nghĩa về Bảo hiểm xã hội tại khoản 1 Điều 3 Luật này như sau: “Bảo
hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người
lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở
đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 cũng có định
nghĩa tương tự.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thương mại đều có tính chất phục vụ và
giống nhau ở mục đích cuối cùng là góp phần đảm bảo tái sản xuất diễn ra bình
thường, đời sống các thành viên xã hội an toàn và ổn định cuộc sống. Tuy nhiên,
bảo hiểm xã hội mang một số đặc trưng để phân biệt với bảo hiểm thương mại
như sau:
- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội: khác với đối tượng tham gia bảo
hiểm thương mại – tất cả tổ chức, cá nhân trong xã hội, đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội chỉ gồm người lao động và người sử dụng lao động. Điều đó có
nghĩa là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội phải là những chủ thể gắn liền với
yếu tố lao động.
- Hình thức bảo hiểm xã hội: bảo hiểm xã hội có 02 hình thức chính. Đó là
bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện. Bảo hiểm xã hội bắt
buộc là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người lao động và


9

người sử dụng lao động phải tham gia. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình
bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức

đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính
sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và
tử tuất.
- Đối tượng bảo vệ của bảo hiểm xã hội: theo khoản 1 Điều 3 Luật Bảo
hiểm xã hội 2006 cũng như Luật Bảo hiểm xã hội 2014, bảo hiểm xã hội nhằm
hướng tới thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
hết tuổi lao động hoặc chết. Do đó, đối tượng bảo vệ của bảo hiểm xã hội chính
là thu nhập của người lao động. Trong khi đó, đối tượng bảo vệ của luật bảo
hiểm thương mại rất đa dạng và phong phú bao gồm tài sản, tính mạng và sức
khoẻ của con người, trách nhiệm dân sự...
- Mục đích: Bảo hiểm xã hội được dùng trong việc bù đắp một phần hoặc
toàn bộ thu nhập bị mất của người lao động, thể hiện trách nhiệm và sự chia sẻ
của người sử dụng lao động với người lao động và giữa những người lao động
với nhau. Do đó, bảo hiểm xã hội hoàn toàn không mang mục đích về lợi nhuận
mà hướng tới đảm bảo an sinh xã hội. Đây là điểm khác biệt rất rõ với bảo hiểm
thương mại bởi đối với bảo hiểm thương mại, mục đích kinh doanh, vấn đề lợi
nhuận được bên bán bảo hiểm đặt lên hàng đầu.
- Sự tham gia của Nhà nước vào hoạt động bảo hiểm xã hội: đối với bảo
hiểm thương mại, sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động bảo hiểm thương mại
chỉ có giới hạn nhất định và đương nhiên tài chính thực hiện không được đặt
dưới sự bảo trợ của nhà nước nhưng đối với bảo hiểm xã hội, nguồn tài chính lại
được nhà nước bảo trợ thể hiện ở việc chỉ có một quỹ bảo hiểm xã hội duy nhất
(theo Luật Bảo hiểm xã hội 2006, quỹ bảo hiểm xã hội được chia thành quỹ bảo
hiểm xã hội bắt buộc và quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện) do cơ quan bảo hiểm xã
hội quản lý.
- Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ an toàn về tài chính, có tính tích luỹ, vừa
mang tính hoàn trả vừa không mang tính hoàn trả:



10

+ Quỹ BHXH là quỹ an toàn về tài chính.
Nghĩa là, phải có một sự cân đối giữa nguồn vào và nguồn ra của quỹ bảo
hiểm xã hội. Chức năng của bảo hiểm xã hội là đảm bảo an toàn về thu nhập cho
người lao động và để thực hiện chức năng này, đến lượt nó, bảo hiểm xã hội phải
tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Để tạo sự an toàn này, về
nguyên tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ phải bằng tổng số tiền chi ra từ quỹ.
Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là được dùng để chi trả ngay
(nếu vậy đã không tồn tại cái gọi là quỹ bảo hiểm xã hội) mà phải sau một
khoảng thời gian nhất định, đôi khi tương đối dài (như đối với chế độ hưu trí) số
tiền ấy mới được chi ra, cùng thời gian ấy đồng tiền luôn biến động và có thể bị
giảm giá trị do lạm phát, điều này đặt ra yêu cầu quỹ bảo hiểm xã hội không chỉ
phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải bảo toàn về mặt giá trị. Điều đó lý
giải tại sao trong Điều 40 Điều lệ Bảo hiểm xã hội (được ban hành năm 1995,
đến nay đã hết hiệu lực) và khoản 1 Điều 49 Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày
22/12/2006 hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc nước
ta quy định “Quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp bảo toàn và
tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội từ tiền tạm thời nhàn rỗi”.
+ Tính tích luỹ
Quỹ Bảo hiểm xã hội là “của để dành” của người lao động phòng khi ốm
đau, tuổi già... và đó là công sức đóng góp của cả quá trình lao động của người
lao động. Trong quỹ Bảo hiểm xã hội luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn
rỗi ở một thời điểm hiện tại để chi trả trong tương lai, khi người lao động có đủ
các điều kiện cần thiết để được hưởng trợ cấp (chẳng hạn như về thời gian và
mức độ đóng góp bảo hiểm xã hội). Số lượng tiền trong quỹ có thể được tăng lên
bởi sự đóng góp đều đặn của các bên tham gia và bởi thực hiện các biện pháp
tăng trưởng quỹ.
+ Quỹ bảo hiểm xã hội vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn
trả.

Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ bảo hiểm xã
hội là để chi trả trợ cấp cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro dẫn


11

đến mất hay giảm thu nhập. Do đó, người lao động là đối tượng đóng góp đồng
thời cũng là đối tượng nhận trợ cấp. Tuy nhiên, thời gian, chế độ và mức trợ cấp
của mỗi người sẽ khác nhau, điều đó phụ thuộc vào những rủi ro mà họ gặp phải
cũng như mức độ đóng góp và thời gian tham gia bảo hiểm xã hội.
Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, mặc dù nguyên tắc của bảo hiểm xã
hội là có đóng- có hưởng, đóng ít- hưởng ít, đóng nhiều- hưởng nhiều nhưng như
vậy không có nghĩa là những người có mức đóng góp như nhau sẽ chắc chắn
đưọc hưởng một khoản trợ cấp như nhau. Trong thực tế, cùng tham gia bảo hiểm
xã hội nhưng có người được hưởng nhiều lần, có người được hưởng ít lần (với
chế độ ốm đau), thậm chí có người không được hưởng (chế độ thai sản).
1.1.3. Ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội thực chất là sự tổ chức “đền bù” hậu quả của những “rủi
ro xã hội” hoặc các sự kiện bảo hiểm. Nó góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm
an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. Ngoài ra, bảo hiểm xã hội còn
đóng vai trò quan trọng đối với xã hội cũng như đối với nền kinh tế thị trường:
- Đối với người lao động và gia đình của họ:
Ở bất kỳ hoàn cảnh, thời điểm nào, rủi ro luôn luôn rình rập, đe doạ cuộc
sống của mỗi người gây gánh nặng cho cộng đồng và xã hội. Rủi ro phát sinh
hoàn toàn ngẫu nhiên bất ngờ không lường trước được nhưng xét trên bình diện
xã hội, rủi ro là một tất yếu không thể tránh được. Phòng ngừa và hạn chế những
tác động tiêu cực của rủi ro đối với con người và xã hội là nhiệm vụ, mục tiêu
hoạt động của Bảo hiểm xã hội. Chúng ta có thể liệt kê một số vai trò của bảo
hiểm xã hội đối với người lao động và gia đình họ như sau:
+ Thứ nhất: Bảo hiểm xã hội có vai trò ổn định thu nhập cho người lao

động và gia đình họ.
Khi tham gia bảo hiểm xã hội, người lao động phải trích một khoản phí
nộp vào quỹ Bảo hiểm xã hội, khi gặp rủi ro, bất hạnh như: ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động làm cho chi phí gia đình tăng lên hoặc phải ngừng làm việc tạm
thời. Do vậy thu nhập của gia đình bị giảm, đời sống kinh tế lâm vào tình cảnh
khó khăn, túng quẫn. Nhờ có chính sách bảo hiểm xã hội mà họ được nhận một


12

khoản tiền trợ cấp đã bù đắp lại phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm để đảm bảo
ổn định thu nhập, ổn định đời sống.
+ Thứ hai: Ngoài việc đảm bảo đời sống kinh tế, bảo hiểm xã hội đã tạo
được tâm lý an tâm, tin tưởng cho người lao động. Khi đã tham gia, bảo hiểm
xã hội sẽ góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động, đem lại cuộc
sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân lao động.
- Đối với người sử dụng lao động:
+ Thứ nhất: Tham gia bảo hiểm xã hội, người sử dụng lao động sẽ thể
hiện được trách nhiệm và sự chia sẻ của mình đối với người lao động. Người sử
dụng lao động phải có trách nhiệm đối với người lao động mà mình thuê mướn
khi mà họ gặp phải tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp (những rủi ro nảy sinh
gắn liền với quá trình lao động). Bên cạnh đó, người sử dụng lao động cũng cần
chia sẻ những rủi ro và những khó khăn khác của người lao động. Sự chia sẻ này
chính là sự động viên, chung tay giúp đỡ của người sử dụng lao động đối với
người lao động, giúp người lao động an tâm vượt qua khó khăn của mình. Người
sử dụng lao động không chỉ có trách nhiệm với người lao động khi trực tiếp sử
dụng lao động mà còn trong suốt cuộc đời của người lao động. Điều này làm cho
quan hệ lao động có tính nhân văn sâu sắc.
+ Thứ hai: Tham gia bảo hiểm xã hội chính là cách để người sử dụng lao
động tự bảo vệ mình. Đối với các doanh nghiệp, khi những người lao động

không may gặp rủi ro thì những trợ cấp cho những rủi ro này đã được chuyển
giao cho cơ quan bảo hiểm chi trả. Chính vì vậy, tình hình tài chính của doanh
nghiệp vẫn được ổn định, quá trình sản xuất cũng không bị ảnh hưởng do phát
sinh nhu cầu bảo hiểm xã hội của người lao động.
- Đối với xã hội:
+ Thứ nhất: Tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước, người sử dụng lao
động và người lao động. Đây là mối quan hệ ràng buộc, chặt chẽ, chia sẻ trách
nhiệm, chia sẽ rủi ro và sự chia sẻ này chỉ có được trong quan hệ của bảo hiểm
xã hội. Tuy nhiên, mối quan hệ này thể hiện trên các giác độ khác nhau. Người
lao động tham gia bảo hiểm xã hội với vai trò bảo vệ quyền lợi cho chính mình


13

đồng thời phải có trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội. Người sử dụng lao
động tham gia bảo hiểm xã hội là để tăng cường tình đoàn kết và cùng chia sẻ rủi
ro cho người lao động nhưng đồng thời cũng bảo vệ, ổn định cuộc sống cho các
thành viên trong xã hội. Mối quan hệ này thể hiện tính nhân sinh, nhân văn sâu
sắc của bảo hiểm xã hội.
+ Thứ hai: Bảo hiểm xã hội thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, tạo cho
những người bất hạnh có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc
phục những biến cố xã hội, hoà nhập vào cộng đồng, kích thích tính tích cực của
xã hội trong mỗi con người giúp họ hướng tới những chuẩn mực của chân-thiệnmỹ, nhờ đó có thể chống lại tư tưởng “Đèn nhà ai nhà ấy rạng”. Bảo hiểm xã hội
là yếu tố tạo nên sự hoà đồng mọi người, không phân biệt chính kiến, tôn giáo
chủng tộc, vị thế xã hội đồng thời giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân ái,
cuộc sống công bằng, bình yên.
+ Thứ ba: Bảo hiểm xã hội thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau tương thân tương ái của cộng đồng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong
cộng đồng là nhân tố quan trọng, giúp đỡ những người bất hạnh nhằm hoàn thiện
những giá trị nhân bản của con người, tạo điều kiện cho một xã hội phát triển

lành mạnh và bền vững.
+ Thứ tư: Bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện bình đẳng xã hội: trên giác
độ xã hội, bảo hiểm xã hội là một công cụ để nâng cao điều kiện sống cho người
lao động. Trên giác độ kinh tế, bảo hiểm xã hội là một công cụ phân phối lại thu
nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. Nhờ sự điều tiết này người lao động
được thực hiện bình đẳng không phân biệt các tầng lớp trong xã hội.
1.2. Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội được ghi nhận tại Điều 5 Luật Bảo
hiểm xã hội năm 2006 và Điều 5 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Mặc dù,
nguyên tắc của bảo hiểm xã hội trong 2 điều luật này không hoàn toàn giống
nhau nhưng tựu chung lại, Bảo hiểm xã hội có các nguyên tắc sau:
- Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.


14

Bảo hiểm xã hội là chính sách an sinh, giúp bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết. Tuy nhiên, để nhận
được trợ cấp bảo hiểm xã hội thì trước hết, người lao động phải đóng góp vào
quỹ bảo hiểm xã hội và mức hưởng bảo hiểm sẽ phụ thuộc vào mức đóng và thời
gian đóng bảo hiểm theo nguyên tắc đóng – hưởng, tức là người lao động có
mức đóng càng cao và thời gian đóng càng dài thì mức hưởng càng nhiều. Một
trong những quy định của Luật Bảo hiểm xã hội (2006 và 2014) thể hiện nguyên
tắc đóng – hưởng này chính là quy định về việc hưởng tiếp chế độ ốm đau nếu
hết 180 ngày mà vẫn tiếp tục được điều trị.
Ngoài ra, giữa những người tham gia bảo hiểm có sự chia sẻ với nhau
trong việc hưởng bảo hiểm bởi bảo hiểm xã hội là sự “chia sẻ rủi ro”, “lấy số
đông bù số ít. Do đó, người lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội không

có nghĩa chắc chắn sẽ hưởng mọi chế độ bảo hiểm xã hội (ví dụ: chế độ thai sản
nói chung chỉ áp dụng với lao động nữ nhưng lao động nam cũng tham gia đóng
góp). Nhưng sự đóng góp của họ sẽ có ý nghĩa rất lớn cho những đối tượng gặp
phải những rủi ro nghiêm trọng mà nếu không có sự chia sẻ, tương trợ cộng đồng
sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống[2, tr.126-127]. Đây chính là sự chia sẻ
giữa những người lao động trong việc hưởng bảo hiểm xã hội.
- Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên
cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự
nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn.
Thu nhập đóng bảo hiểm xã hội là phần thu nhập của người lao động tham
gia bảo hiểm mà nếu có biến động giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng
lao động, thì tổ chức bảo hiểm xã hội phải chi trả trợ cấp để thay thế hoặc bù đắp
một phần cho họ.
Mức thu nhập được bảo hiểm là mức tiền lương hoặc mức thu nhập bằng
tiền nào đó do Nhà nước quy định. Trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình
quân thực tế của đại đa số người lao động và mức thu nhập quốc dân đầu
người..., Nhà nước quy định, lựa chọn mức thu nhập được bảo hiểm để đảm bảo


15

cho mức thu nhập này luôn thăng băng tương đối, nhằm đảm bảo đời sống cho
người lao động tham gia bảo hiểm và gia đình họ. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự
nguyện do người lao động lựa chọn tính trên cơ sở mức thu nhập của họ.
- Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có
thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ
tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
Theo quy định của pháp luật về hình thức bảo hiểm xã hội gồm có hai loại
chính là bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Trên cơ sở quy định hiện hành có thể thấy về lý thuyết số đối tượng tham

gia bảo hiểm xã hội tự nguyện nhiều hơn số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
bắt buộc. Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở nước ta số đối tượng tham gia bảo hiểm
xã hội bắt buộc là chủ yếu và họ được hưởng nhiều chế độ bảo hiểm xã hội hơn
so với đối tượng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tuy nhiên, về phương diện pháp lý,
việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hay bảo hiểm xã hội tự nguyện đều tạo
nên các quyền lợi về bảo hiểm xã hội có giá trị như nhau và trong thực tế tuỳ
theo tính chất và đặc điểm của quan hệ lao động mà người lao động có thể có
những thời gian tham gia bảo hiểm xã hội theo các loại hình khác nhau (bảo
hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện). Vì thế, để đảm bảo quyền lợi
người lao động và tính liên thông trong quan hệ bảo hiểm xã hội thì người lao
động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian đóng bảo
hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (hưu trí, tử tuất) theo
quy định của pháp luật trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội [2, tr.128129].
- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh
bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành
phần.
Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý tập trung bởi cơ quan bảo hiểm xã hội.
Quỹ được chia ra làm ba quỹ thành phần: quỹ ốm đau và thai sản; quỹ tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp và quỹ hưu trí và tự tuất. Tuy Quỹ bảo hiểm xã hội là
một quỹ chung thống nhất nhưng lại được chia ra thành các quỹ thành phần, do


16

đó, các hoạt động liên quan đến tài chính phải được hạch toán độc lập đối với
riêng từng quỹ thành phần. Có như vậy, từng quỹ thành phần mới được bảo toàn
và không phải chịu ảnh hưởng từ biến động của hai quỹ thành phần còn lại giúp
cho việc giải quyết các chế độ bảo hiểm được đảm bảo.
- Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo
đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.

Bảo hiểm xã hội là chính sách an sinh, do đó việc thực hiện bảo hiểm xã
hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện thì mới thu hút được nhiều người lao động
quan tâm và tham gia. Thêm nữa, bảo hiểm xã hội được dùng để chi trả cho
người lao động trong trường hợp thu nhập của họ bị giảm hoặc bị mất, chính vì
vậy việc chi trả này cần phải nhanh chóng và đảm bảo kịp thời thì mới có thể
giúp đỡ người lao động đúng lúc họ cần nhất, có như vậy, bảo hiểm xã hội mới
thực sự có ý nghĩa.


17

Kết luận chương 1
1. Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào
quỹ bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội có đối tượng tham gia là người lao động
và người sử dụng lao động, hướng tới bảo vệ thu nhập của người lao động. Quỹ
bảo hiểm xã hội là quỹ an toàn về tài chính, có tính tích luỹ, vừa mang tính hoàn
trả vừa không mang tính hoàn trả và được bảo trợ của Nhà nước.
Bảo hiểm xã hội đã tạo được tâm lý an tâm, tin tưởng cho người lao động
đồng thời giúp người lao động ổn định thu nhập khi họ ốm đau, nghỉ thai sản, bị
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, về hưu hoặc tử tuất. Bên cạnh đó, bảo hiểm
xã hội chính là sự chia sẻ, thể hiện trách nhiệm của người sử dụng lao động đối
với người lao động và bảo hiểm xã hội cũng chính là cách mà người sử dụng lao
động bảo vệ mình trước sự phát sinh nhu cầu bảo hiểm xã hội của người lao
động. Đối với xã hội, bảo hiểm đã giúp tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước,
người sử dụng lao động và người lao động, thể hiện tinh thần nhân đạo, truyền
thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân ta và bảo hiểm cũng góp phần
thực hiện bình đẳng xã hội.
2. Bảo hiểm xã hội được thực hiện theo các nguyên tắc:

- Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.
- Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên
cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự
nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn.
- Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có
thời gian đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ
tử tuất trên cơ sở thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh
bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành
phần.


18

- Việc thực hiện bảo hiểm xã hội phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo
đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội.


×