Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Thủ tục phá sản theo Luật Phá sản năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.34 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ HUY HOÀNG

THỦ TỤC PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ
lực của bản thân, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng
dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt khóa học
cũng như thời gian nghiên cứu đề tài luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến PGS. TS Nguyễn Viết Tý – thầy giáo kính mến đã hết lòng giúp đỡ, tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện cho em trong suốt quá trình thực hiện
nghiên cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban giám
hiệu, toàn thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học,


Khoa Pháp luật kinh tế và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn thạc sĩ.
Cuối cùng, em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ em trong quá trình học tập và
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2015
Học viên

Vũ Huy Hoàng


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của em. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực. Những số liệu phục vụ
cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn
khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng
một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức
khác và cũng thể hiện trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự
gian lận nào, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết
quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2015
Học viên

Vũ Huy Hoàng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHTG : Bảo hiểm tiền gửi
DN, HTX : Doanh nghiệp, hợp tác xã

NHNN : Ngân hàng nhà nước
TAND : Tòa án nhân dân
TCTD : Tổ chức tín dụng
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT

1
6

PHÁ SẢN

1.1. Khái quát doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn

6

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn

6

1.1.2. Khái quát tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán

9

nợ đến hạn
1.2. Khái quát về pháp luật phá sản


11

1.2.1. Khái niệm pháp luật phá sản

11

1.2.2. Nội dung của pháp luật phá sản

13

1.3. Thủ tục phá sản – Nội dung cơ bản của pháp luật phá sản

16

1.3.1. Khái niệm thủ tục phá sản

16

1.3.2. Đặc điểm của thủ tục phá sản

17

1.3.3. Vai trò của thủ tục phá sản

19

1.3.4. Khái quát sự hình thành và phát triển của quy định pháp luật

20


về thủ tục phá sản ở Việt Nam
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CỦA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN

23

THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014

2.1. Những quy định về thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản

23

2.2. Chủ thể tham gia quá trình giải quyết yêu cầu phá sản

25

2.2.1. Tòa án

25

2.2.2. Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

26


2.2.3. Chủ nợ và con nợ

29

2.3. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã


31

2.3.1. Nộp và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

31

2.3.2. Mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản

35

2.3.3. Hội nghị chủ nợ

37

2.3.4. Phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả

40

năng thanh toán nợ đến hạn
2.3.5. Tuyên bố DN, HTX bị phá sản

43

2.3.6. Xử lý nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến

46

hạn
2.4. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản trong các trường hợp đặc biệt


49

2.4.1. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản của Tổ chức tín dụng

49

2.4.2. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản rút gọn

53

2.4.3. Trình tự giải quyết yêu cẩu phá sản có yếu tố nước ngoài

54

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH THỦ TỤC PHÁ SẢN VÀ MỘT SỐ

56

KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC THI CÓ HIỆU QUẢ THỦ TỤC
PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014

3.1. Thực tiễn thi hành thủ tục phá sản theo Luật Phá sản (2004)

56

3.2. Một số kiến nghị nhằm thực thi có hiệu quả thủ tục phá sản theo

59


Luật phá sản năm 2014
KẾT LUẬN

68

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

69


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật phá sản năm 2004 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2004
và thay thế Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Tổng kết thi hành Luật Phá
sản cho thấy, qua chín năm thực hiện, với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993,
toàn ngành Tòa án chỉ thụ lý 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
trong đó chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá sản. Với Luật Phá sản năm
2004, Tòa án thụ lý tổng số 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, ra quyết định mở
thủ tục phá sản 236 trường hợp, và cũng chỉ quyết định tuyên bố phá sản được
83 trường hợp. Năm 2012, có 69.874 doanh nghiệp đăng ký, trong khi đó có
44.906 doanh nghiệp dừng hoạt động và 9.355 doanh nghiệp giải [24]. Như vậy,
tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo Luật
Phá sản năm 2004 đã được cải thiện nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Số
lượng đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản so với số lượng doanh nghiệp ngừng
hoạt động là rất thấp, hiệu quả giải quyết việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa
đạt kết quả như mong muốn.
Sau khi Luật Phá sản (2004) được ban hành, ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị

đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; trong đó tại
Mục 3 Phần II về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu, quyền tự do kinh
doanh có nhận định: “…Xây dựng một khung pháp luật chung cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh
doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật áp dụng đối
với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
theo hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái với
đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông
lệ thương mại quốc tế. Đổi mới cơ bản pháp luật về phá sản”.


2

Triển khai tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 nêu trên và
các văn bản có liên quan, đồng thời nhận thức được những hạn chế, bất cập của
thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004, Tòa án nhân dân (TAND) tối cao đã đề
nghị và được Quốc hội quyết định đưa Dự án Luật Phá sản (sửa đổi) vào Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII (2011-2016).
Ngày 19/6/2014, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật phá sản số 51/2014/QH13. Luật có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Luật Phá sản (2004) gồm 9 chương với
95 điều luật, Luật Phá sản (2014) bao gồm 14 chương với 133 Điều luật. So với
Luật Phá sản (2004), Luật Phá sản (2014) được đánh giá là có những sửa đổi khá
căn bản và toàn diện. Một số nội dung sửa đổi, bổ sung như: tiêu chí xác định
Doanh nghiệp, hợp tác xã (DN, HTX) lâm vào tình trạng phá sản, chế định quản
tài viên, về thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản …
Phá sản là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường, kinh tế thị
trường phát triển thì phá sản càng phổ biến, từ đó sự nhận thức và vận dụng đúng
những quy định của Luật Phá sản không chỉ nhằm giải quyết vụ việc phá sản đúng

pháp luật mà còn góp phần bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của các chủ nợ, cơ cấu lại
nền kinh tế. Từ nhận thức trên, tác giả cho rằng chỉ có trên cơ sở vận dụng đúng
đắn những nguyên tắc của pháp luật phá sản nói chung và những quy định về thủ
tục phá sản nói riêng mới là cơ sở để tìm ra những giải pháp góp phần ngày một
hoàn thiện pháp luật về phá sản. Trong các vấn đề được sửa đổi bổ sung ở Luật
Phá sản (2014), yêu cầu về việc giải quyết vụ việc phá sản được kịp thời, hợp lý,
nhanh chóng là vấn đề được quan tâm nhiều hơn cả. Điều đó cho thấy quy định về
thủ tục giải quyết phá sản cần phải chặt chẽ, cụ thể và đầy đủ.
Hiện nay, Luật Phá sản (2014) với nhiều điểm mới và cũng chỉ mới có
hiệu lực thi hành trong thời gian ngắn nên việc áp dụng trên thực tế vẫn còn
những vướng mắc. Với việc lựa chọn đề tài “Thủ tục phá sản theo Luật phá sản
năm 2014”, tác giả luận văn mong muốn trình bày và phân tích một cách có hệ


3

thống các quy định về thủ tục phá sản nhằm áp dụng giải quyết các vụ phá sản
trong thực tế một cách có hiệu quả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi ban hành và có hiệu lực đến nay, việc học tập, nghiên cứu Luật
Phá sản (2004) đã được sự quan tâm hưởng ứng của mọi cấp, mọi ngành và các
tầng lớp nhân dân, nhất là các nhà kinh doanh. Cùng với những áp lực đặt ra
trong việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật của một nền kinh tế đang
phát triển mạnh mẽ, các hoạt động nghiên cứu về thủ tục phá sản thông qua việc
nghiên cứu về Luật Phá sản đã có những bước tiến quan trọng. Đã có nhiều công
trình ở các cấp độ khác nhau nghiên cứu về thủ tục phá sản theo Luật Phá sản
(2004), có thể kể đến như:
- Cuốn “Pháp Luật phá sản của Việt Nam” của PGS, TS. Dương Đăng
Huệ, xuất bản năm 2005.
- Một số bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan như Đề tài nghiên

cứu: “Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hoàn thiện môi trường pháp luật
kinh doanh tại Việt Nam” tháng 11/2008 – chủ biên PGS. TS Dương Đăng Huệ,
Thạc sĩ Nguyễn Thanh Tịnh; chuyên đề khoa học xét xử: “Tìm hiểu pháp luật
phá sản” của TAND tối cao vào tháng 4/2010; “Một số ý kiến về thủ tục phá sản
của luật phá sản hiện hành và kiến nghị hoàn thiện” – Trần Thị Tâm, Đặng Thu
Hà, Tạp chí TAND, TAND tối cao, số 4/2013; “Trình tự, thủ tục nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản” – Thạc sĩ Vũ Hồng Vân, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND) tối cao, số 19/2005;…
- Bên cạnh đó, một số luận văn thạc sĩ đã có nghiên cứu về vấn đề này
như: “Thủ tục giải quyết phán sản theo luật phá sản (2004)” – luận văn thạc sĩ
luật học 2005 – Đồng Thái Quang; “Thủ tục phá sản - Thực trạng và hướng
hoàn thiện” – luận văn thạc sĩ luật học 2009 – Đào Thị Hồng Phương; “Pháp
luật về nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn” – luận văn thạc sĩ luật học 2012 – Ngô Thị Thu Thủy; …


4

Có thể thấy, các công trình nghiên cứu có quy mô khác nhau nhưng đều
có chung mục đích là làm cho các quy định pháp luật phá sản dễ đi vào cuộc
sống và dễ áp dụng, bảo đảm được quyền và lợi ích các chủ thể có liên quan.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên được thực hiện trước khi có Luật
Phá sản (2014). Do đó, những quy định mới của Luật Phá sản (2014), trong đó
có những quy định về thủ tục phá sản chưa được nghiên cứu, lý giải một cách
đầy đủ. Những thay đổi mới của Luật Phá sản (2014) về thủ tục phá sản đòi hỏi
phải có sự nhất quán trong cách hiểu và vận dụng những thủ tục này trong thực
tiễn, đây cũng chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài nói trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu, hệ thống hóa những quan điểm lý
luận về thủ tục phá sản doanh nghiệp; làm sáng tỏ các quy định về thủ tục phá

sản theo Luật Phá sản (2014). Tìm kiếm một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu
quả Luật Phá sản (2014).
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hệ thống hóa và giải quyết những vấn đề lý luận về phá sản và pháp
luật phá sản;
+ Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định Luật Phá sản (2014) về
thủ tục phá sản trong mối quan hệ so sánh với Luật Phá sản (2004);
+ Nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng Luật Phá sản (2004), từ đó đề
ra một số biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả Luật Phá sản (2014).
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Về phương diện lý luận, luận văn tập trung nghiên cứu, lý giải tính đặc
thù của thủ tục phá sản trong mối quan hệ với thủ tục tố tụng dân sự.
Về phương diện luật thực định, luận văn tập trung nghiên cứu những quy
định của Luật Phá sản (2014) về trình tự, các bước, các thủ tục để tiến hành giải
quyết một vụ phá sản,


5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phân tích để hiểu rõ những quy định của
pháp luật hiện hành về thủ tục phá sản. Bởi vậy, phương pháp phân tích là
phương pháp đặc trưng, xuyên suốt toàn bộ đề tài. Ngoài ra, Luận văn còn sử
dụng một số phương pháp khác như phương pháp tổng hợp, thống kê, phương
pháp so sánh và đối chiếu. Các phương pháp nghiên cứu trong Luận văn được
thực hiện dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện
chứng, trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hoác và xã
hội của Đảng cộng sản Việt Nam.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn đã có những đóng góp mới quan trọng sau:

+ Phân tích sâu sắc và khoa học những quy phạm của pháp luật thực định
về thủ tục phá sản;
+ Thông qua sự đánh giá phân tích này, Luận văn đã chỉ ra những ưu và
nhược điểm của các quy định trong mảng thủ tục phá sản;
+ Trong mối tương quan so sánh giữa Luật Phá sản (2004) và Luật Phá sản
(2014), Luận văn đã chỉ rõ một số điểm mới tiến bộ của Luật mới so với Luật cũ;
+ Đưa ra một số đề xuất nhằm thực thi có hiệu quả Luật Phá sản (2014).
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phẩn mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận
văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về phá sản và pháp luật phá sản;
Chương 2: Nôi dung của thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản theo Luật phá
sản năm 2014;
Chương 3: Thực tiễn thi hành thủ tục phá sản và một số kiến nghị nhằm
thực thi có hiệu quả thủ tục phá sản theo Luật phá sản năm 2014.


6

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
1.1. Khái quát doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
“Phá sản” hay “vỡ nợ” là tình trạng xảy ra khá phổ biến trong nền kinh tế
thị trường, đặc biệt khi các doanh nghiệp gặp phải sự cạnh tranh khốc liệt, sự
khan hiếm nguồn vốn hay sự quản lý tài chính lỏng lẻo.
Nguồn gốc của thuật ngữ phá sản được giải thích theo nhiều quan niệm khác
nhau. Ở các nước châu Âu, khi nói đến phá sản người ta thường dùng thuật ngữ
"Bankruptcy" hoặc "Banqueroute". Từ này bắt nguồn từ chữ Banca Rotta trong
tiếng La Mã cổ có nghĩa là " chiếc ghế bị gãy". Thời đó, các thương gia của

thành phố thường tập trung lại thành "hội nghị các thương gia", thương gia nào
mất khả năng thanh toán nợ cũng đồng thời mất luôn quyền tham gia hội nghị, do
đó ghế của thương gia này bị đem ra khỏi hội trường [28; tr.3]. Do đó, ở La Mã
thời đó có nhiều con nợ thấy rằng nếu không trả được nợ thì "chuồn là hơn", nên
họ thường bỏ trốn. Để ổn định trật tự xã hội, Nhà nước La Mã phải đứng ra
cưỡng chế tài sản của con nợ trả cho chủ nợ. Cách làm này cũng thích hợp đối
với trường hợp con nợ chỉ mắc nợ một người. Nhưng khi cùng một lúc con nợ
phải trả cho nhiều chủ nợ thì dễ xảy ra tranh chấp. Bởi thế người ta thấy để tòa
án địa phương (của con nợ) đứng ra quản lý số tài sản, rồi phân chia tài sản này
cho các chủ nợ tuỳ theo vốn và lãi của mỗi người [35]. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, chế định này được hoàn chỉnh và đã được nâng lên thành Luật
Phá sản của Nhà nước La Mã cổ đại.
Ở những quan niệm khác, có người cho rằng từ phá sản bắt nguồn từ chữ
"ruin" trong tiếng la-tinh, có nghĩa là "sự khánh tận". Khái niệm này dùng để chỉ
tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một nhà kinh doanh. Biểu hiện trực
tiếp của sự mất cân đối ấy là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
(insolvency) [24].


7

Định nghĩa pháp lý về tình trạng phá sản của doanh nghiệp là nội dung
quan trọng của pháp luật phá sản. Quy định về tình trạng phá sản là căn cứ để xác
định phạm vi tác động của pháp luật phá sản và là căn cứ để tòa án áp dụng thủ
tục phá sản đối với doanh nghiệp. Do đặc điểm kinh tế - xã hội cũng như hệ
thống pháp luật của các nước có sự khác nhau, nên quan điểm về tình trạng phá
sản của doanh nghiệp trong pháp luật các nước có sự khác biệt. Pháp luật về phá
sản của các nước trên thế giới hiện nay đang sử dụng hai quan điểm sau:
- Quan điểm "định lượng": theo quan điểm này một doanh nghiệp bị coi là
lâm vào tình trạng phá sản, khi không thanh toán được một món nợ đến hạn có giá

trị tối thiểu đã được ấn định trong Luật Phá sản.
- Quan điểm "định tính": xác định tình trạng phá sản không phụ thuộc vào
giá trị khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp không trả được, một doanh nghiệp bị
coi là lâm vào tình trạng phá sản nếu tổng số nợ của doanh nghiệp vượt quá khả
năng thanh toán của doanh nghiệp đó. [25, tr.113, 114]
Luật Phá sản Việt Nam 2004 đã đưa ra tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản tại Điều 3 như sau: "DN, HTX không có khả năng thanh
toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng
phá sản.” Luật Phá sản (2004) cũng như Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 không
đưa ra định nghĩa thế nào là phá sản mà chỉ đưa ra khái niệm DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản. Khái niệm phá sản lần đầu tiên được quy định trong Luật Phá sản
(2014) tại Khoản 2, Điều 4 với nội dung như sau: “Phá sản là tình trạng của DN,
HTX mất khả năng thanh toán và bị TAND ra quyết định tuyên bố phá sản”.
Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản (2014) cũng đưa ra khái niệm thế nào là DN,
HTX mất khả năng thanh toán, theo đó: “DN, HTX mất khả năng thanh toán là DN,
HTX không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ
ngày đến hạn thanh toán”
Có thể thấy, nếu như Luật Phá sản (2004) chỉ quy định chung chung thì Luật
Phá sản (2014) đã có những thay đổi theo hướng rõ ràng và cụ thể hơn. Luật Phá sản


8

(2014) không còn dùng khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản”, hay “không có khả
năng thanh toán được” như trước mà dùng khái niệm “mất khả năng thanh toán” và
“không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ”. Luật Phá sản (2004) không quy
định dấu hiệu cụ thể để xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn còn Luật Phá sản (2014) đã xác định rõ doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
là không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày
đến hạn thanh toán. Nghiên cứu dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, ta

có thể thấy một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, mất khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp hoàn
toàn cạn kiệt tài sản, doanh nghiệp có thể có nhiều tài sản mà vẫn mất khả năng
thanh toán.
Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh nghiệp
không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm vào tình
trạng tài chính tuyệt vọng, không có giải pháp để trả được nợ, trừ khi có sự can
thiệp của tòa án hoặc sự giúp đỡ của chủ nợ.
Thứ ba, do tình hình tài chính trong các doanh nghiệp rất khác nhau nên
pháp luật không quy định mất khả năng thanh toán cụ thể một khoản nợ bao
nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản; có doanh nghiệp nợ chỉ một trăm
triệu đã không thể trả được nợ nhưng cũng có doanh nghiệp nợ tới một vài tỷ
vẫn có khả năng thanh toán.
Thứ tư, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng với
biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không. Nhiều doanh nghiệp không trả được
nợ nhưng điều này chỉ có tính chất nhất thời trong khi hoạt động của doanh nghiệp
vẫn diễn ra bình thường. Ngược lại, có những doanh nghiệp sự trả nợ chỉ là trá hình,
che đậy tình trạng tài chính tuyệt vọng của doanh nghiệp, họ phải sử dụng nhiều
cách thức gian trá để bù đắp ngân quỹ như vay nặng lãi, thế chấp tài sản…
Luật Phá sản (2014) không yêu cầu việc xác định hay phải có căn cứ
chứng minh DN, HTX không có khả năng thanh toán bằng bảng cân đối tài


9

chính... Như vậy, chỉ cần xác định là có khoản nợ và đến thời điểm tòa án quyết
định việc mở thủ tục phá sản mà DN, HTX vẫn không thanh toán là tòa án có thể
ra quyết định mở thủ tục phá sản. Việc bỏ từ “các” trong cụm từ “các khoản nợ”
đã thể hiện rõ tiêu chí mất khả năng thanh toán không phụ thuộc vào số lượng
khoản nợ mà chỉ cần một khoản nợ. Bên cạnh đó, Luật Phá sản (2014) cũng

không quy định giới hạn các khoản nợ nào. Điều này có thể hiểu là bất kỳ khoản
nợ nào dù là nợ lương, nợ thuế, nợ phát sinh từ hợp đồng... thì chủ nợ là cá nhân,
cơ quan, tổ chức đều có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản với DN, HTX.
Với những quy định mới của Luật Phá sản (2014), quyền của chủ nợ được
bảo đảm tối đa, bởi để yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ nợ không cần chứng minh đã
có yêu cầu thanh toán. Và khi đã được quy định rõ ràng về thời điểm phát sinh
quyền và nghĩa vụ thì chủ nợ dễ dàng xác định lúc nào họ được quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, đồng thời ràng buộc DN, HTX không có khả năng
thanh toán rằng tại thời điểm nào thì họ có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản. Ngoài ra, quy định này cũng khắc phục tình trạng lạm dụng quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ như quy định cũ. Đối với con
nợ, nếu không trả nợ đúng hạn, con nợ không chỉ chịu nguy cơ bị khởi kiện dân sự
mà còn có thể bị yêu cầu mở thủ tục phá sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản (2014) vẫn
dành một khoảng thời gian 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn để DN, HTX tự
giải quyết những khó khăn về tài chính tạm thời, qua đó tạo thêm cơ hội để DN,
HTX thanh toán nợ và giảm áp lực “đe dọa” nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ
phía chủ nợ.
1.1.2. Khái quát tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn
Bất kỳ một doanh nghiệp, một tổ chức nào muốn tiến hành kinh doanh
cũng đòi hỏi phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó biểu hiện dưới dạng
vật chất hay phi vật chất gọi là tài sản. Tài sản của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
hợp pháp của doanh nghiệp đó, phục vụ cho hoạt động thương mại


10

Tài sản doanh nghiệp gồm hai loại: Tài sản lưu động và tài sản cố định.
+ Tài sản lưu động là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh

nghiệp nhưng có giá trị nhỏ hoặc thời gian sử dụng, thu hồi, luân chuyển vốn
nhỏ hơn một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động gồm: (i) Tài
sản lưu động sản xuất như: nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ... đang dự trữ
trong kho chuẩn bị cho quá trình sản xuất hoặc đang trong quá trình sản xuất
dở dang; (ii) Tài sản lưu động lưu thông như: thành phẩm, hàng hoá dự trữ,
hàng hoá gửi bán; (iii) Tài sản lưu động tài chính: như tiền, các khoản phải thu,
đầu tư ngắn hạn.
+ Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn và có thời gian sử dụng,
luân chuyển lớn hơn một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh như tài sản cố định
hữu hình, vô hình, tài sản cố định thuê ngoài dài hạn, các khoản đầu tư tài chính
dài hạn, các khoản đầu tư xây dựng cơ bản... Đặc điểm của loại tài sản này là
không thể thu hồi trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh.
Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ
thể do doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh như:
trụ sở, cửa hàng, kho tàng, máy móc, thiết bị công tác, phương tiện vận tải,
phương tiện truyền dẫn...
Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể,
nhưng phản ánh một lượng giá trị lớn mà doanh nghiệp đã thực sự bỏ ra đầu tư
như: nhãn hiệu hàng hóa; phát minh sáng chế; lợi thế kinh doanh, ví dụ như lợi thế
của địa điểm kinh doanh, điều này có ý nghĩa quan trọng khi xác định giá trị
quyền sử dụng đất; tay nghề của người lao động trong doanh nghiệp, có ý nghĩa
khi trả một số phụ cấp cho họ khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản...
Tài sản cố định tài chính là giá trị của các khoản đầu tư tài chính dài
hạn với mục đích kiếm lời, thời gian thu hồi vốn lớn hơn một năm hay một chu kỳ
kinh doanh như: đầu tư liên doanh dài hạn, cho thuê tài sản cố định, đầu tư chứng
khoán dài hạn.


11


1.2. Khái quát về pháp luật phá sản
1.2.1. Khái niệm pháp luật phá sản
Các quan hệ xã hội phát sinh từ tình trạng phá sản của doanh nghiệp cần
thiết phải được điều chỉnh bởi pháp luật. Như hầu hết các quốc gia trên thế giới,
pháp luật Việt Nam rất quan tâm đến việc xây dựng các chế định của Luật Phá sản
với mục tiêu hạn chế những hậu quả do phá sản gây ra, bảo vệ quyền lợi của các
chủ thể tham gia quan hệ kinh tế trước những rủi ro trong kinh doanh, từ đó góp
phần ổn định trật tự đời sống xã hội.
Pháp luật phá sản là toàn bộ các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, quy định về điều kiện mở thủ tục phá sản và điều kiện tuyên bố phá sản
DN, HTX; quy định trình tự, thủ tục giải quyết và yêu cầu mở thủ tục phá sản
cũng như thi hành quyết định tuyên bố phá sản; về địa vị pháp lý và mối quan hệ
giữa các chủ thể tham gia tố tụng phá sản và các vấn đề khác phát sinh liên quan
đến giải quyết phá sản. Giáo trình Luật Thương Mại tập 2 – Trường Đại học
Luật Hà Nội (2014) có đưa ra khái niệm như sau: “Pháp luật phá sản có thể hiểu
là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã..”
Pháp luật phá sản là một chế định đặc thù khi vừa chứa đựng các quy phạm
của pháp luật nội dung, vừa chứa đựng các quy phạm của pháp luật hình thức
(pháp luật tố tụng). Với tư cách là pháp luật nội dung, pháp luật phá sản điều
chỉnh các quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ. Với tư cách là pháp luật hình
thức, pháp luật phá sản điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan, quy định quyền và nghĩa
vụ tố tụng của các chủ thể, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản DN, HTX.
Như vậy, pháp luật phá sản điều chỉnh hai nhóm quan hệ: quan hệ tài sản giữa chủ
nợ và con nợ; quan hệ tố tụng giữa các đương sự với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền [21, tr.352].



12

● Quan hệ giữa chủ nợ và con nợ
Quan hệ giữa chủ nợ và con nợ có bản chất là quan hệ tài sản, được hình
thành từ quá trình tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chủ thể tham gia các quan hệ tài sản này là chủ nợ và con nợ. Chủ nợ là các tổ
chức, cá nhân có khoản nợ chưa được DN, HTX mắc nợ thanh toán. Chủ nợ
được chia ra làm ba loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm và chủ
nợ có bảo đảm một phần (Khoản 4, 5, 6 Điều 4 Luật Phá sản (2014)). Còn con
nợ chính là DN, HTX mất khả năng thanh toán, không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán và bị
TAND ra quyết định tuyên bố phá sản.
Khách thể của quan hệ giữa chủ nợ và con nợ là tài sản của DN, HTX lâm
vào tình trạng phá sản. Nội dung của quan hệ tài sản giữa con nợ và chủ nợ chính
là những quyền và nghĩa vụ tài sản của các chủ thể đó.
● Quan hệ tố tụng giữa các đương sự với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Khác với quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ, quan hệ tố tụng giữa các
đương sự với cơ quan nhà nước có thẩm quyền có những dấu hiệu riêng của nó. Về
chủ thể; một bên là các đương sự gồm chủ nợ, con nợ và những người có liên quan
như người lao động, cổ đông công ty cổ phần… (trong trường hợp họ nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản); một bên là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như
TAND, VKSND, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, cơ quan thi
hành án dân sự. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là một chế
định mới của Luật Phá sản (2014). Ở chừng mực nhất định, quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý thanh lý tài sản được coi là một nghề hoạt động vì lợi nhuận. Nhưng
trong quan hệ pháp luật phá sản, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản do Tòa án chỉ định để thực hiện công việc quản lý thanh lý tài sản, giúp việc
cho Tòa án trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản với những nhiệm vụ, quyền
hạn nhất định. Vì vậy, có thể coi quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài
sản nằm trong thành phần các cơ quan nhà nước có thẩm quyển.



13

Khách thể của quan hệ này chính là quá trình giải quyết yêu cầu phá sản
DN, HTX. Nội dung của quan hệ này là những quyền và nghĩa vụ tố tụng của các
đương sự trước Nhà nước hoặc là các hành vi tố tụng của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
1.2.2. Nội dung của pháp luật phá sản
N tiền
gửi và hướng dẫn của NHNN Việt Nam;
(iv) Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm
phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được
thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.


53

Trường hợp giá trị tài sản của TCTD sau khi đã thanh toán đủ khoản nợ
nêu trên mà vẫn còn thì phần còn lại này thuộc về: Thành viên của TCTD là hợp
tác xã; chủ sở hữu của TCTD là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
thành viên góp vốn của TCTD là công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên; cổ đông của TCTD là công ty cổ phần.
Trường hợp giá trị tài sản không đủ để thanh toán theo quy định cho các
khoản nợ nêu trên thì các đối tượng thuộc cùng một thứ tự ưu tiên được thanh
toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ.
Về quyết định tuyên bố Tổ chức tín dụng phá sản
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quản tài viên, doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản lập xong danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ, bảng kê tài
sản của TCTD, TAND ra quyết định tuyên bố TCTD phá sản.

2.4.2. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản rút gọn
Quá trình giải quyết một vụ phá sản thông thường có thể bao gồm nhiều thủ
tục, giai đoạn khác nhau, từ thủ tục gửi đơn, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục giải
quyết phá sản; điều tra, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mắc nợ để
đưa ra quyết định mở thủ tục hay không mở thủ tục giải quyết phá sản; tiến hành
hội nghị chủ nợ, thủ tục phục hồi doanh nghiệp; nếu không phục hồi được thì sẽ
chuyển sang giai đoạn tuyên bố doanh nghiệp phá sản và thanh lý tài sản
Trong thực tiễn, có những trường hợp mà doanh nghiệp hầu như không
còn tài sản gì đáng kể, việc thực hiện các thủ tục như tiến hành hội nghị chủ nợ
hay phục hồi doanh nghiệp là không thực tế, mang tính hình thức, gây lãng phí
thời gian và tiền bạc cho cả doanh nghiệp mắc nợ, các chủ nợ, cả Tòa án và các
chủ thể có liên quan. Tiếp nối các quy định của Luật Phá sản (2004), Luật Phá
sản năm 2014 quy định việc giải quyết phá sản theo thủ tục rút gọn đối với
các trường hợp: (a) Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định
tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 5 của Luật này mà DN, HTX mất khả năng thanh
toán không còn tiền, tài sản khác để nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản;


54

(b) Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà DN, HTX mất khả năng
thanh toán không còn tài sản để thanh toán chi phí phá sản.
Trường hợp TAND xét thấy DN, HTX thuộc trường hợp nêu trên, TAND
thông báo cho người tham gia thủ tục phá sản biết về việc Tòa án giải quyết theo
thủ tục rút gọn. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày TAND thông báo, TAND
xem xét, tuyên bố DN, HTX phá sản hoặc tiếp tục giải quyết theo thủ tục thông
thường và thông báo cho người tham gia thủ tục phá sản biết.
2.4.3. Trình tự giải quyết yêu cẩu phá sản có yếu tố nước ngoài
Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 và Luật Phá sản năm 2004 đều
không chú trọng đến thủ tục phá sản có yếu tố nước ngoài. Trong bối cảnh hội

nhập kinh tế quốc tế, ở Việt Nam có rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, thậm chí là 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam
cũng đầu tư ra nước ngoài khá nhiều, do đó tồn tại tài sản của doanh nghiệp hoạt
động tại Việt Nam ở nước ngoài, quan hệ kinh tế, thương mại quốc tế còn dẫn
đến nhiều trường hợp đa dạng khác mà tài sản doanh nghiệp phá sản không chỉ
nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Từ thực tế giải quyết các vụ phá sản cho thấy, có ba
yếu tố liên quan nước ngoài bao gồm: một là, chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân
nước ngoài; hai là, đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp là người nước
ngoài và ba là, chủ nợ, con nợ là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Việc giải quyết
giải quyết yêu cẩu phá sản có yếu tố nước ngoài, hiện đang gặp những khó khăn
nhất định:
- Đối với chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngoài: trong trường hợp chủ
đầu tư nước ngoài bị phá sản, liên doanh của họ lập với đối tác Việt Nam trở nên
lúng túng, không rõ ai sẽ đại diện cho phần vốn nước ngoài tại liên doanh để
tham gia vào quá trình giải quyết phá sản.
- Đối với doanh nghiệp liên doanh tự đề nghị tòa án tuyên bố phá sản
doanh nghiệp của mình, người đại diện theo pháp luật là người nước ngoài có thể
về nước mà không báo cho ai. Đến nay, chưa có cơ chế cấm xuất cảnh nào đối


55

với những người này. Phía Việt Nam trong liên doanh cũng không có quyền yêu
cầu họ ở lại
- Khi chủ nợ, con nợ là người nước ngoài, nhiều trường hợp thông báo,
công văn của Tòa án gửi đi, nhưng chủ nợ, con nợ không nhận được, vì họ đã
chuyển trụ sở và không thông báo cho doanh nghiệp Việt Nam biết. Có nhiều
trường hợp tỷ lệ nợ nước ngoài thường khá cao, điều này dẫn đến tình trạng
khó có thể mở hội nghị chủ nợ nếu không đạt được tỉ lệ theo luật định. Bởi vậy,
nếu không thể thông báo cho chủ nợ nước ngoài, vụ phá sản có thể sẽ lâm vào

tình trạng bế tắc, không thể đình chỉ, cũng không thể tiếp tục.
Để giải quyết những vấn đề phát sinh này, Luật Phá sản (2014) đã bổ sung
các quy định về phá sản có yếu tố nước ngoài như sau:
Thứ nhất, Người tham gia thủ tục phá sản.
Theo quy định hiện hành, người tham gia thủ tục phá sản là người nước
ngoài phải thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản của Việt Nam. Như
vậy, về cơ bản, không có sự khác biệt giữa việc người tham gia thủ tục phá sản
là người Việt Nam hay người nước ngoài sinh sống, làm ăn tại Việt Nam hay ở
nước ngoài và có liên quan đến DN, HTX mất khả năng thanh toán.
Thứ hai, Ủy thác tư pháp.
Trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản có yếu tố nước ngoài, TAND
thực hiện uỷ thác tư pháp theo hiệp định tương trợ tư pháp mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. Thủ tục ủy
thác tư pháp được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, pháp
luật về tương trợ tư pháp.
Thứ ba. Công nhận và cho thi hành quyết định giải quyết phá sản của Tòa
án nước ngoài. Việc công nhận và cho thi hành quyết định giải quyết phá sản của
Tòa án nước ngoài thực hiện theo quy định của hiệp định tương trợ tư pháp mà
Việt Nam là thành viên và quy định khác của pháp luật về tương trợ tư pháp.


56

CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN THI HÀNH THỦ TỤC PHÁ SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM THỰC THI CÓ HIỆU QUẢ THỦ TỤC PHÁ SẢN
THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2014
3.1. Thực tiễn thi hành thủ tục phá sản theo Luật Phá sản (2004)
Luật Phá sản năm 2004 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2004

và thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Theo tổng kết thi hành Luật
Phá sản cho thấy, qua 9 năm thực hiện, với Luật Phá sản năm 2004, Tòa án thụ
lý tổng số 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Trong tổng số 336 đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản, Tòa án đã ra 236 Quyết định mở thủ tục phá sản và trong đó ra
83 Quyết định tuyên bố phá sản. Trong 83 Quyết định tuyên bố phá sản có 07
trường hợp Tòa án ra Quyết định tuyên bố DN, HTX bị phá sản trong trường
hợp đặc biệt (Điều 87 Luật Phá sản năm 2004). Có 153 vụ việc chưa ra Quyết
định tuyên bố phá sản trong đó có 49 vụ việc có lý do chưa thu hồi được các
khoản nợ của DN, HTX, chưa bán được các tài sản của DN, HTX [24].
Theo trang thông tin hỗ trợ đăng ký doanh nghiệp thì năm 2012, có
69.874 doanh nghiệp đăng ký, trong khi đó có 44.906 doanh nghiệp dừng hoạt
động và 9.355 doanh nghiệp giải thể. Như vậy, tình hình thụ lý và giải quyết yêu
cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 đã được cải
thiện nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Số lượng đơn yêu cầu tòa án tuyên bố
phá sản so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp; hiệu quả giải
quyết việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Điều
này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có nguyên nhân quy
định pháp Luật Phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế và xã hội, không tạo
điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên bố phá sản. Qua thực tiễn thi hành
Luật Phá sản từ năm 1993 đến trước khi có Luật Phá sản năm 2014, có thể rút ra
một số nhận xét sau đây về tình hình thực hiện thủ tục phá sản ở Việt Nam:


57

Thứ nhất, tỷ lệ DN, HTX bị yêu cầu mở thủ tục phá sản còn ít, chưa phản
ánh đúng thực trạng tài chính thực tế của các chủ thể kinh doanh. Tình trạng
nhiều doanh nghiệp hoạt động thua lỗ nhưng không được xử lý bằng thủ tục phá
sản mà lại xử lý bằng thủ tục thu hồi nợ dân sự, thủ tục hành chính và các thủ tục
khác vẫn còn phổ biến.

Thứ hai, quá trình tiến hành thủ tục phá sản còn bị kéo dài. Ở hầu hết các
tòa án địa phương, việc giải quyết phá sản mới tiến hành đến việc ra quyết định
mở thủ tục thanh lý tài sản, còn việc ra quyết định tuyên bố phá sản là rất ít, chủ
yếu là quyết định tuyên bố DN, HTX bị phá sản trong trường hợp đặc biệt.
Thứ ba, hiệu quả giải quyết phá sản còn kém; số nợ phải thu thấp hơn số
nợ phải trả, tỷ lệ thu hồi nợ rất thấp. Đây cũng là lý do các chủ nợ không muốn
thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thay vào đó họ thực hiện
quyền khởi kiện vụ án dân sự để đòi nợ theo thủ tục tố tụng dân sự sẽ hiệu quả
hơn, vì nếu DN, HTX còn tài sản, thì khi thi hành án kết quả bán đấu giá tài sản
không phải phân chia ...
Thứ tư, tỷ lệ phục hồi doanh nghiệp sau khi mở thủ tục phá sản là rất thấp.
Luật Phá sản năm 2004 đã được xây dựng theo hướng là một công cụ nhằm phục
hồi doanh nghiệp, tuy nhiên, trên thực tế, luật vẫn chưa phát huy được hiệu quả này.
Thực tế trên xuất phát từ một số nguyên nhân từ phía pháp luật, từ phía
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản và từ phía cơ quan có thẩm quyền.
● Từ phía pháp luật:
Thủ tục phá sản còn khá phức tạp và mất nhiều thời gian. Sự rườm rà về
mặt thủ tục, quy định chồng chéo, nhiều chỗ bất hợp lý và thiếu chặt chẽ của pháp
luật khiến nhiều DN, HTX né tránh việc phá sản. Đặc biệt, một thiết chế về quản
lý và thanh lý tài sản theo Luật Phá sản (2014) có nhiều điểm mới về mặt bản chất
cần phải được hướng dẫn cụ thể. Chẳng hạn như: bản chất của hoạt động quản lý,
thanh lý tài sản của quản tài viên; sự độc lập của quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản; thậm chí cả nguyên tắc tính lệ phí phá sản.


58

● Từ phía DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, bên cạnh sự rườm rà
trong thủ tục, bản thân các chủ doanh nghiệp cũng có tâm lý sợ phá sản. Tâm
lý này xuất phát từ quan niệm coi phá sản như việc bất đắc dĩ và sẽ gây ảnh

hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân mình hơn là một cơ hội để khôi phục
hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó là mối lo bị “phân chia tài sản” khi mà
chủ DN, HTX đều nắm giữ một lượng tài sản rất lớn trong công ty thì khi
phân chia tài sản, số tài sản còn lại của họ chẳng còn là bao, thậm chí là
không còn gì và họ còn mang thêm nợ nần. Ngoài ra, chủ doanh nghiệp phá
sản còn bị tước quyền thành lập cũng như làm quản lý doanh nghiệp khác
trong thời hạn 1- 3 năm.
Tình trạng chấp hành các quy định về chế độ tài chính – kế toán trong các
doanh nghiệp còn yếu kém cũng là một trong những nguyên nhân làm suy giảm
hiệu lực của Luật Phá sản. Qua thực tiễn thi hành Luật Phá sản cho thấy, nhiều
doanh nghiệp không tuân theo những quy định về tài chính - kế toán hiện hành,
sổ sách kế toán còn sơ sài, thậm chí có những DN không có sổ sách kế toán, dẫn
đến công nợ không rõ ràng, gian dối về chứng từ kế toán. Sự không minh bạch
về tài chính khiến cho toà án rất khó xác định tình trạng phá sản của doanh
nghiệp, do đó đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ giải quyết phá sản doanh nghiệp
cũng như việc thi hành quyết định thanh lý tài sản của doanh nghiệp [30].
● Từ phía cơ quan có thẩm quyền:
Số lượng và năng lực của đội ngũ cán bộ (thẩm phán, chấp hành viên ...)
còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của công tác giải quyết phá sản. Việc giải
quyết phá sản đòi hỏi mỗi thẩm phán không chỉ am hiểu sâu sắc về nội dung
Luật Phá sản mà còn về các lĩnh vực chuyên ngành khác như tài chính, ngân
hàng, quản lý kinh tế, các ngành luật khác… Thực tế cho thấy, đội ngũ thẩm
phán, chấp hành viên còn hạn chế về trình độ, năng lực ở nước ta hiện nay đã
làm cho pháp luật phá sản chưa thực sự phát huy hiệu quả.


×