Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

LÝ LUẬN PHẢN ÁNH của CHỦ NGHĨA DUY vật BIỆN CHỨNG với mối QUAN hệ GIỮA CHỦ THỂ và KHÁCH THỂ THẨM mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.96 KB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

LÝ LUẬN PHẢN ÁNH CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT BIỆN CHỨNG VỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA
CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ THẨM MỸ

Chuyên ngành: Sư phạm giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:
NGUYỄN THANH SƠN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: Tên:
Tên: NGUYỄN NGỌC DIỄM
MSSV: 6055341

CẦN THƠ - 5/2009

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 18:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 1 AM


MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Trong lĩnh vực chính trị, cần phải giải quyết được mối quan hệ hài hòa giữa


cá nhân với xã hội, giữa giai cấp đối với dân tộc, giữa dân tộc đối với thế giới. Cái
thẩm mỹ là nhân tố quan trọng để tạo nên cái hài hòa này. Các quan hệ chính trị mà
thiếu thẩm mỹ tất sẽ sa vào phiến diện, độc quyền chân lý.
Bên cạnh tầm quan trọng của Mỹ học đối với lĩnh vực chính trị thì trong lĩnh
vực đời sống xã hội Mỹ học cũng có vai trò quan trọng không kém. Để tồn tại thì
con người phải lao động, mà trong hoạt động lao động đó thì con người chúng ta có
vô vàn các mối quan hệ, con người phải biết cách cư xử như thế nào để những mối
quan hệ đó được tốt đẹp thống nhất thì người đó có cách sống đẹp. Như vậy sống
đẹp là sống như thế nào, con người chúng ta với vai trò là chủ thể thì cần phải làm
gì để cuộc sống tươi đẹp hơn thì chúng ta phải nghiên cứu về Mỹ học.
Mỹ học Mác – Lênin không chỉ nghiên cứu mặt khách quan thẩm mỹ, mặt ý
thức thẩm mỹ, mặt nghệ thuật thẩm mỹ mà còn nghiên cứu toàn bộ sự tác động qua
lại giữa ba mặt đó xuất phát từ đời sống, từ lao động từ cái tổng thể của cuộc sống.
Nhưng quan trọng hơn hết là mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể thẩm mỹ. Nhận
thấy được tầm quan trọng của vấn đề trên nên tôi đã chọn đề tài: “Lý luận phản ánh
của chủ nghĩa duy vật biện chứng với mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể thẩm
mỹ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
Từ những kết quả đạt được của vấn đề nghiên cứu, đề tài có ý nghĩa thiết
thực đối với việc nghiên cứu giảng dạy sau này và nhận thức của bản thân được rõ
ràng lô - gíc hơn thông đề tài nghiên cứu.

2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỦA ĐỀ TÀI

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 28:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 2 AM


Đề tài nghiên cứu giúp cho người đọc có cái nhìn khái quát hơn về Mỹ học

dựa trên cơ sở những kiến thức đã học được từ môn này. Qua đó góp phần giúp cho
người đọc có cái nhìn khác hơn về vai trò của Mỹ học trong đời sống hiện nay.
Ngoài ra, đề tài còn giúp người nghiên cứu có thêm những kiến thức mới mà trong
quá trình tìm hiểu nghiên cứu đề tài có được.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chủ thể và khách thể thẩm mỹ dựa trên
những lý luận phản ánh có được. Từ đó thấy được mối quan hệ biện chứng giữa chủ
thể và khách thể thẩm mỹ.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu phản ánh và vai trò của phản ánh, chủ thể và
khách thể thẩm mỹ từ đó đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể
thẩm mỹ.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp lô gíc và lịch sử là chủ yếu. Ngoài
ra còn sử dụng kết hợp với một số phương pháp khác như : phân tích, tổng hợp,...
để nghiên cứu.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận ra, thì bao gồm hai chương và bảy
tiết.

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 38:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 3 AM


NỘI DUNG
Chương 1: LÝ LUẬN PHẢN ÁNH
1.1 NHỮNG QUAN NIỆM VỀ PHẢN ẢNH
1.1.1 QUAN NIỆM VỀ PHẢN ÁNH TRƯỚC MÁC
Theo nghĩa chung nhất phản ánh là sự tái hiện những đặc trưng, thuộc tính

quan hệ của một đối tượng nào đó trong đối tượng khác. Trong lịch sử phát triển
của loài người, quan niệm về phản ánh ngày càng được hoàn chỉnh hơn và chính
xác hơn nhờ thành tựu khoa học trong quá trình phát triển của xã hội. Quan niệm về
vật chất phản ánh ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học đã đề cập khi nói đến các
mối quan hệ giữa thế giới bên ngoài với tinh thần ý thức của con người. Tuy nhiên
đó mới chỉ là những ý tưởng sơ khai còn thiếu nhất quán và mang nặng yếu tố trực
quan, máy móc.
Hêraclit (530 - 470 TCN) đã nói đến sự tác động của thế giới bên ngoài cảm
giác con người với vấn đề tư tưởng, trí tuệ. Theo ông: “Tư tưởng là ưu điểm lớn
nhất. Trí tuệ là ở chỗ nói lên chân lý và hành động theo tự nhiên, lắng nghe tự
nhiên”(7 tr 23). Như vậy đối tượng nhận thức như Hêraclit quan niệm không phải là
cái bên trong mà là bên ngoài mà các giác quan của con người là cầu nối. Tuy
nhiên, đôi khi ông lại tỏ ra lúng túng khi nói về cội nguồn nhận thức, ông cho rằng:
“Mọi người điều có bẩm sinh về năng lực nhận thức, năng lực tư tưởng” (7 tr 23).
Nếu quan niệm như vậy thì năng lực nhận thức ở đâu?, làm sao có được hay là cái
“bẩm sinh” như ông quan niệm?
Đêmôcrit (460 -370 TCN), nhà triết học duy vật xuất sắc thời cổ Hy Lạp,
người sáng lập ra “nguyên tử luận” cũng đã nói đến sự tác động lẫn nhau giữa thế
giới khách quan vào giác quan và gây ra cảm giác – cơ sở của tinh thần ý thức (9 tr
172). Cảm giác là giai đoạn phản ánh đầu tiên của quá trình nhận thức, nhưng ông
lại không đánh giá cao nhận thức cảm tính - kết quả của cảm giác. Về mặt này Mác
đã nhận xết như sau: “Đêmôcrit tự làm hỏng mắt mình để cho ánh sáng của cảm
tính không đến nỗi, bịt bùng sự nhạy bén của lý trí” (9 tr 172).

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 48:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 4 AM



Trong thời kỳ phục hưng khai sáng các nhà triết học duy vật khi đối lập với
thế giới quan duy tâm, tôn giáo cũng đã khẳng định sự tồn tại của thế giới khách
quan và sự tác động của nó đối với ý thức con người.
Điđơrô (1713 -1748) người đứng đầu bách khoa toàn thư thời kỳ khai sáng
Pháp cho rằng cảm giác là thuộc tính của vật chất. Mọi vật chất đều có tính cảm
giác. Tư duy là một hình thức cao cấp của tính cảm giác của vật chất. Nguồn gốc
của nhận thức là cảm giác do các sự vật trong tự nhiên tác động vào giác quan mà
có. Từ những luận điểm trên ông đã phê phán quan điểm của Becơli: “ Người ta gọi
duy tâm những nhà triết học nào chỉ biết có sự tồn tại của bản thân họ và những
cảm giác nối tiếp nhau trong bản thân họ, ngoài ra không thừa nhận một cái gì
khác”(5 tr30-31). Ông cho rằng hệ thống ấy chỉ do “người mù sáng tạo ra thôi” và
hệ thống này “thật đáng hổ thẹn cho trí tuệ loài người…” Luận điểm này đã đưa
Điđơrô tiến gần đến chủ nghĩa duy vật hiện đại trong việc dùng phản ánh để giải
thích hành vi và nguồn gốc của ý thức con người. Tuy nhiên, Đirơrô còn hạn chế ở
chỗ đồng nhất cảm giác với tất cả mọi dạng vật chất chứ không phải chỉ có ở vật
chất sống. Đây chính là sự thiếu triệt để và cơ giới của Đirơrô trên lập trường duy
vật.
Phơbách (1804 -1872) nhà triết học duy vật của nền cổ điển Đức, trong khi
phê phán “bất khả tri luận” của Kant ông đã khẳng định rằng: “Cảm giác không bao
giờ tách chúng ra khỏi thế giới khách quan được, mà nó nối liền với thế giới khách
quan”. Quan niệm này đã được Lênin bình dẫn trong Chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa kinh nghiệm phê phán: “Các bạn hãy nhớ lại một đoạn đã dẫn…của Phơbách,
trong đó có Kant bi buộc tội là đã quan niệm “vật tự nó” là một sự trừu tượng không
có tính thực tại”, tức là thế giới tồn tại ngoài chúng ta, hoàn toàn có thể nhận thức
được về nguyên tắc không có gì khác với hiện tượng cả”(5 tr136-137). Tuy nhiên,
do tính trực quan trong lý luận về nhận thức, Phơbách đã không thấy được tính biện
chứng từ cảm giác đến tư duy, không thấy được sự phản ánh thực tiễn sinh động
đến ý thức của con người. Chính ông đã nói: “Lý luận là một việc, còn thực tiễn là
một việc khác, thực tiễn như là “hành động bẩn thỉu của con buôn Do thái”. Đương
nhiên Phơbách đã xa lạ với quan điểm của khoa học của chủ nghĩa duy vật biện

chứng cho rằng : nếu tách khỏi thực tiễn thì sự phản ánh thế giơí bên ngoài bằng

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 58:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 5 AM


cảm tính sẽ không đưa lại được thông tin cho sự phát triển của ý thức”. Thiếu nội
dung khách quan này thì ý thức không có điều kiện ra đời, nói gì đến phát triển.
Nói chung chủ nghĩa trước Mác có những đóng góp to lớn cho sự phát triển
của tri thức nhân loại nói chung và triết học nói riêng. Nhưng do những hạn chế về
mặt lịch sử, chủ yếu là sự phát triển của khoa học và một phần không nhỏ là thế giới
quan, nên tư tưởng duy vật của họ đều chưa triệt để và mang nặng yếu tố trực quan
máy móc, siêu hình. Hạn chế ấy đã chi phối đến tư tưởng của họ về vấn đề ý thức,
nhận thức luận, về sự tác động qua lại giữa giới tự nhiên và con người. Trong mối
quan hệ ấy, các nhà triết học trước Mác chỉ thấy được đặc tính phán ánh một chiều,
cơ học của vật chất. Đặc biệt chưa thấy được vai trò của thực tiễn với tính cách là
hình thức cao nhất của ý thức con người.
1.1.2 QUAN NIỆM PHẢN ÁNH CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN.
Chủ nghĩa duy vật ra đời khắc phục được những thiếu sót và sai lầm của
quan niệm trước đó về thuộc tính phản ánh của vật chất. C.Mác và Ph.Ăngghen
trong tác phẩm của mình đã nhấn mạnh tính biện chứng trong quan hệ giữa thế giới
khách quan và tư duy con người. Các ông chỉ ra rằng: “Ảnh hưởng của thế giới bên
ngoài vào con người, phản ánh vào đây dưới hình thức cảm giác, tư tưởng”(11
tr162). C.Mác và Ăngghen cho rằng bất kỳ lúc nào ý thức cũng không là cái gì khác
hơn mà chỉ là tồn tại được nhận thức. Và theo các ông, tồn tại được nhận thức ấy
chính là hình ảnh của thế giới bên ngoài được di chuyển và biến hình vào trong não
người. Đó là sự phản ánh của thế giới khách quan vào não con người và được cải
biến đi trong đó.

V.Lênin đã coi tư tưởng của Mác và Ăngghen là cơ sở quan điểm của mình
về lý luận phản ánh.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”,
Lênin đã nói về vấn đề trên rằng : “…nhà duy vật Ăngghen, người cộng tác nổi
tiếng của Mác là một người sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã luôn không loại trừ một
trường hợp nào nói đến trong tác phẩm của mình những vật và những hình ảnh,
hoặc phản ánh của vật trong tư tưởng và đương nhiên là những hình ảnh tư tưởng
đó chỉ có thể bắt nguồn từ cảm giác mà thôi”(5 tr37). Kế thừa tư tưởng ấy Lênin
viết: “Chủ nghĩa duy vật hoàn toàn nhất trí với khoa học tự nhiên, coi vật chất là cái

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 68:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 6 AM


có trước, ý thức là cái có sau, vì cảm giác trong hình thái rõ rệt của nó, chỉ gắn liền
với hình thái cao của vật chất (chất hữu cơ) và người ta chỉ có thể giả định là “trên
nền móng của lâu đài vật chất” có sự tồn tại một năng lực giống như cảm giác”(5 tr
43). Đó chính là thuộc tính phản ánh của vật chất. Ở chỗ khác, Lênin nói: “Cảm
giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh của thế giới bên ngoài, và dĩ
nhiên là nếu không có cái bị phản ánh thì không có cái phản ánh”(5 tr 74). Tư tưởng
trên không những khẳng định được tính thứ nhất của vật chất tính thứ hai của ý
thức, mà còn là cơ sở của lý thuyết phản ánh. Theo Lênin, cảm giác vật chất ở trình
độ thấp, thuộc tính phản ánh ấy lại chỉ gần giống như cảm giác mà thôi.
Phản ánh là thuộc tính của toàn bộ thế giới vật chất. Nhưng vật chất có kết
cấu, trình độ, thuộc tính khác nhau thì cấp độ của sự phản ánh cũng khác nhau.
Không chỉ trong triết học mà khoa học tự nhiên đã có nhiều thành tựu đã khẳng
định rằng sự phản ánh của vật chất vô cơ khác sự phản ánh của vật chất có sự sống
và sự phản ánh của con người lại càng khác hơn các hình thức phản ánh đã nêu về

mặt trình độ và bản chất.
Tư tưởng phản ánh với tính cách là thuộc tính chung của vật chất là một cống
hiến to lớn của Lênin đối với lý luận nhận thức. Sự phát triển của khoa học tự nhiên
và những thành tựu của nó sau này đã chứng minh cho luận điểm về đặc tính phản
ánh của vật chất của Lênin là đúng đắn.
Trong những năm gần đây người ta đã chế tạo ra một loại bán dẫn phi tinh
thể. Đặc điểm của nó là với một bản mỏng với 1/1000 mm thì có thể cho một dòng
điện chạy qua nhanh gấp hàng trăm lần so với bản tinh thể thông thường có cùng
một độ dày. Sau khi dòng điện có một điện thế nhất định chạy qua, những thông tin
đi qua được bản mỏng ghi nhớ lại nhưng không phải là trí nhớ tâm lý ý thức của con
người...
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, nội dung, tính chất đặc điểm của phản
ánh được hiểu như thế nào? Cần phải quan tâm đến những vấn đề sau:
Tùy theo trình độ phát triển của tổ chức vật chất nhất định mà phản ánh cũng
có thể là phản ánh như gương soi, ảnh chụp; phản ánh còn là sự phản ánh trở lại đối
với sự tác động nào đó của thế giới bên ngoài; phản ánh cũng có thể ở trình độ cao
hơn là tái hiện lại những đặc trưng thuộc tính của quan hệ một đối tượng nào đó,

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 78:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 7 AM


chẳng hạn như tái hiện lại một sự vật, hiện tượng nào đó của thế giới khách quan
trong não con người mà có thể không có sự vật và hiện tượng đó trực tiếp nhưng nó
lại là những sự vật, hiện tượng có trong thế giới khách quan.
Hình thức phản ánh đơn giản nhất là phản ánh vật lý – nó đặc trưng cho giới
tự nhiên vô sinh. Phản ánh sinh vật đặc trưng cho giới hữu sinh. Phản ánh sinh vật
có thể phân ra làm hai mức độ là tính cảm ứng và tính kích thích. Tính cảm ứng đặc

trưng cho sinh vật bậc thấp. Tính kích thích đặc trưng cho sinh vật bậc cao, đặc biệt
là của động vật có hệ thần kinh trung ương. Mối liện hệ của cơ thể với môi trường
khi sinh vật có hệ thần kinh được thực hiện trên cơ sở các phản xạ không điều kiện.
Với sự xuất hiện của hệ thần kinh trung ương – đó cũng là một trong những đặc
trưng tiến hóa ở trình độ cao của giới sinh vật, của vật chất thì hoạt động phản ánh
lúc này có những biến đổi cơ bản, trên cơ sở của phản xạ không điều kiện, ở sinh
vật có hệ thần kinh trung ương có thêm phản xạ có điều kiện.
Sự xuất hiện của hệ thần kinh trung ương và khả năng tạo thành các phản xạ
có điều kiện đã làm nảy sinh một hình thức phản ánh mới trên cơ sở phản ánh sinh
vật, đó là hình thức phản ánh tâm lý.
Nhờ hình thức phản ánh mới này – phản ánh tâm lý mà động vật có thể phản
ứng được một cách nhạy bén và mau lẹ hơn với môi trường sống, không chỉ phản
ứng lại những kích thích có ý nghĩa sống còn mà bằng những tín hiệu của chúng đối
với hiện tượng bên ngoài mà ít loại không trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn tại của
chúng. Phản ánh tâm lý là một hình thức phản ánh cao hơn về chất so với phản ánh
sinh vật. Nó chưa phải là phản ánh ý thức, nhưng không còn là phản ánh sinh vật
thuần túy nữa.
Những nội dung cơ bản về phản ánh được rút ra từ những tư tưởng của các
nhà kinh điển Mac- Xít, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, dựa trên
những thành tựu của khoa học. Một trong những khái niệm về phản ánh mà được
cho rằng tương đối hoàn chỉnh, và đồng tình là – “ Phản ánh là quá trình tác động
của đối tượng này lên đối tượng khác và để lại những dấu vết nhất định, tái tạo lại
những đặc điểm nào đó của đối tượng này lên đối tượng khác”(3 tr9). Chắc rằng
khoa học càng phát triển sẽ cung cấp cho chúng ta những thành tựu bổ sung cho nội
dung phạm trù phản ánh. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng: phản ánh là thuộc tính

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 88:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 8 AM



của mọi đối tượng vật chất mà nội dung của nó vừa là phản ánh, vừa là phản ứng
với sự vận động tương tác của trình độ phát triển của vật chất. Sự tương tác giữa cái
phản ánh và cái bị phản ánh bao giờ cũng gây ra những biến đổi nào đó dưới dạng
những dấu ấn “vô hình” hoặc hữu hình mà trong đó đỉnh cao của nó là sự hình
thành biến đổi ý thức con người.
1.2 PHẢN ÁNH TIỀN Ý THỨC
Phản ánh là thuộc tính vật chất nói chung. Nhưng trên bậc thang tiến hóa của
tự nhiên, các dạng vật chất ở bậc thang tiến hóa khác nhau thì có cấp độ phản ánh
khác nhau. Trong giới vô sinh, đặc trưng của nó là phản ánh vật lý mà sự tương tác
giữa các vật thể không có mặt chủ thể. Kết quả của nó để lại là sự biến đối nào đó
như là sự biến đối của những vật thể, sự đàn hồi, trường hấp dẫn, sự han rỉ ôxy hóa
đối với kim loại, tia chớp sấm sét, sự va chạm của các vật thể, sự kết hợp giữa các
chất để tạo thành chất mới...Nếu quan sát thế giới xung quanh, trong các sự vật và
hiện tượng tự nhiên nào, chúng ta cũng có thể nhận thấy được dấu ấn của sự tác
động qua lại trong mối quan hệ để lại dấu ấn của nó. Những quan hệ ấy là quan hệ
phản ánh của vật chất muôn màu muôn vẻ.
Phản ánh thuộc hệ thống vô sinh là thụ động, thờ ơ, “lãnh đạm”, vô tri với
tác động của bên ngoài; không phân biệt những tác động lợi hại; không sử dụng
kinh nghiệm quá khứ, hiện tại và không có khả năng dự báo được tương lai. Phản
ánh của vật chất vô sinh không thụ cảm được tín hiệu thực tại nào. Ai cũng có thể
hiểu được rằng dãy núi đá dù to lớn hùng vĩ đến đâu nó vẫn là vật “vô tư” với dự
báo động đất sắp xảy ra. Phản ánh vô sinh không có khả năng tiếp thu, tái tạo xử lý
thông tin. Sự tác động tương hỗ của vật chất vô sinh chỉ có thể giải thích bằng quy
luật vật lý mà thôi.
Nhưng điều đó không có nghĩa là thế giới vô sinh không có ý nghĩa gì đối
với quá trình phản ánh và thông tin. Ngược lại, nó có thể trở thành vật mang thông
tin tùy thuộc vào tính chất vật liệu và khả năng sử dụng vật liệu ấy vào mục đích
trong quá trình thông tin của mình. Chẳng hạn như những vật liệu dùng để chế tạo

ra những thiết bị bảo quản thông tin, truyền tin, xử lý tin...
Khác với phản ánh của thế giới vô sinh, phản ánh trong thế giới hữu sinh đã
mạng nhiều tính độc lập có sự lựa chọn tùy vào trình độ của sự phát triển vật chất.

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 98:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 9 AM


Nó là một loại phản ánh có tác dụng tích cực. Điều đó thể hiện ở tính thích ứng của
sinh vật đối với môi trường tồn tại của nó.
Như vậy là, phản ứng – Ph.Ăngghen viết – sau mỗi lần phát sinh phản ứng
thì phản ứng cơ giới vật lý cũng chấm dứt. Phản ứng hóa học làm thay đổi thành
phần của vật tham gia phản ứng và nó chỉ tái diễn khi ta thêm vào một số lượng của
vật ấy. Chỉ có thể hữu cơ mới phản ứng một cách độc lập tự chủ, đương nhiên là
phải nằm trong phạm vi năng lực của nó, phải có chất dinh dưỡng thì mới có được –
nhưng chỉ sau khi đồng hóa, chất dinh dưỡng được thêm vào đó mới có thể gây ra
tác dụng trực tiếp như ở giai đoạn thấp. Do đó trong trường hợp này, cơ thể sẵn có
với lực lượng phản ứng một cách độc lập, tự chủ; cần thông qua cơ thể thực hiện
cách gián tiếp được sự phản ứng mới” (8 tr 476)
Lực lượng phản ứng một cách độc lập, tự chủ mà Ăngghen nói chính là phản
ánh của sinh vật, khác với những phản ánh ở trình độ thấp của giới vô sinh. Ở động
vật phát triển, tính phản ánh độc lập tự chủ ấy đã dẫn đến quá trình tâm lý mà
thường gọi là tâm lý động vật. Tâm lý động vật trở thành phương tiện dinh dưỡng,
xác định vị trí và hành động trong mối quan hệ với môi trường xung quanh. Phản
ứng như vậy không chỉ là thu nhận sự tác động của môi trường mà còn bao hàm sự
phản ứng ngược trở lại có tính chất lựa chọn để duy trì sự sinh tồn của mình trước
quy luật của tự nhiên. Hình thức phản ánh của sinh vật là hình thức phản ánh của
những lực lượng phản ứng độc lập, có phần tự chủ của cá thể sinh vật. Đồng thời nó

cũng là một lực lượng có tác dụng ngược trở lại một cách tích cực đối với môi
trường xung quanh, thể hiện quá trình chọn lọc tự nhiên thích ứng nhau, duy trì, bảo
tồn và phát triển giống nòi.
Phản ánh tâm lý động vật đã được chứng minh và khẳng định bởi khoa học
tâm lý, sinh lý học thần kinh...trong tâm lý học người ta gọi giai đoạn này là giai
đoạn tiền ý thức. Tâm lý động vật dù sao cũng chỉ là phản ánh sao chép thế giới
khách quan và chủ yếu do quy luật sinh vật chi phối mà thôi.
Tóm lại sự phản ánh phụ thuộc vào trình độ phát triển khác nhau của đối
tượng vật chất. Sự phản ánh thụ động, cơ giới, phi chủ thể là đặc trưng của vật chất
vô sinh. Trong thế giới động vật, thực vật, đã có sự phản ánh mang tính lựa chọn,
nhất là động vật đã phát triển cao, những động vật có hệ thần kinh trung ương. Phản

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 108:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 10 AM


ánh ấy không chỉ là sự tiếp nhận tác động bên ngoài mà còn bao hàm sự phản hồi có
tính lựa chọn với môi trường xung quanh. Không có đặc trưng phản ánh này thì giới
hữu sinh không tồn tại được. Những đặc trưng của sự phản ánh này là tiền đề và
cũng là cơ sở, là điều kiện cần để chuyển từ tâm lý của động vật thành ý thức con
người.
1.3 PHẢN ÁNH Ý THỨC
Quan điểm Mác xít cho rằng, ý thức là kết quả của sự phản ánh sáng tạo hiện
thực khách quan trong đầu các con người.
Theo Mác, ý thức chẳng qua là những hình ảnh của thế giới bên ngoài được
duy chuyển và biến hình vào não người. Lênin quan niệm “ý thức chẳng qua là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Nội dung của những quan niệm trên đã nói lên được nguồn gốc bản chất và

nội dung của ý thức theo quan điểm duy vật biện chứng. Thế giới khách quan là đối
tượng phản ánh, não người là cơ quan phản ánh. Nếu thiếu một trong hai yếu tố này
cũng không có ý thức.
Não người không phải là một kết cấu vật chất thông thường mà là một kiểu
vật chất có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt với hàng chục tỷ tế bào thần kinh cùng với
chức năng hoạt động tinh vi, phức tạp khác nhau.
Quy luật xã hội, điều kiện xã hội trước tiên phải nói đến là lao động. Lao
động là quá trình con người chế tạo và sử dụng công cụ lao động tác động vào giới
tự nhiên để làm ra sản phẩm để duy trì sự tồn tại và phát triển con người. Nhờ hoạt
động lao động mà não người đã dần dần được hoàn thiện về chất. Các giác quan và
bộ não của con người hiện đại đã khác xa các giác quan và bộ não của loài sinh vật
kể cả loài vượn người. Đó chính là nguyên nhân và cũng là điều kiện trực tiếp gây
nên sự biến đổi dần dần từ hành động phản xạ thành hoạt động có ý thức. Cũng
chính trong quá trình lao động đã làm cho cá thể sinh vật có quan hệ liên kết với
nhau thành những quan hệ xã hội. Trong quan hệ diễn ra hàng triệu năm ấy, bầy đàn
thấy “cần thiết phải nói với nhau một cái gì đấy” và ngôn ngữ - phương tiện chủ yếu
và quan trong nhất cho sự xuất hiện của ý thức đã ra đời. Thành tựu của nhiều bộ
môn khoa học đã chứng minh, nhờ ngôn ngữ mà phản ánh của con người không còn

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 118:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 11 AM


lệ thuộc hoạt động cảm tính và trực tiếp nữa mà đi sâu vào được bản chất của sự
vật, hiện tượng của thế giới khách quan thông qua phản ánh trực tiếp và gián tiếp.
Tóm lại, não người là cơ quan thực hiện quá trình phản ánh của ý thức. Đó là
sự thu nhận những tín hiệu vật chất từ thế giới khách quan vào trong não người. Thế
giới khách quan và não người chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để ý thức ra đời và

phát triển mà chính là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, điều kiện xã
hội cực kỳ quan trọng này đã thúc đẩy quá trình chuyển biến sự phản ánh tâm lý ở
động vật thành phản ánh ý thức của con người. Hay nói như Ăngghen, lao động và
ngôn ngữ là hai yếu tố chủ yếu để biến não người, tâm lý của động vật thành ý thức
của con người. Thuộc tính phản ánh sáng tạo cũng dựa trên những điều kiện xã hội
đó.
Phản ánh thế giới hiện thực vào não người là thuộc tính cơ bản của ý thức,
nó quy định sự ra đời và tồn tại của các hình thức khác, kể cả thuộc tính tái tạo hiện
thực và thuộc tính sáng tạo. Đó là thuộc tính phản ánh của não người – trình độ
phản ánh cao nhất của vật chất.
Ý thức được hiểu là tất cả những hoạt động tinh thần của con người được
phản ánh thế giới khách quan chủ động sáng tạo vào não người. Nếu não người bị
tổn thương mất khả năng phản ánh hiện thực khách quan thì sẽ không tránh khỏi
mất cả nội dung của ý thức.
Trên thực tế, sự hiểu biết của chủ thể về những gì đã xảy ra xung quanh
chính là nhờ vào sự phản ánh chủ động tiếp thu, xử lý, tái tạo thông tin tương ứng
với những hình ảnh được phản ánh trong hiện thực bởi sự vận động biện chứng bên
trong não người và những hoạt động thực tiễn xã hội bên ngoài con người mà có.
Những người không tán thành thuyết phản ánh của Mác Xít cho rằng phản
ánh chỉ có ở động vật cấp thấp và vật chất vô sinh (như là một sự sao chép máy
móc, thụ động). Bản chất hoạt động của con người trong mối quan hệ với hiện thực
không phải là phản ánh mà là sáng tạo. Quan điểm này đã không hiểu được tính
biện chứng của vấn đề giữa phản ánh và sáng tạo.
Khi Mác cho rằng ý thức của con người là do thế giới khách quan được di
chuyển và biến hình vào não người mà có, cũng như Lênin khẳng định: ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, điều đó, các ông cũng khẳng định ý

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 128:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46

Trang 12 AM


thức của con người không phải là sự phản ánh sao chép đơn giản, máy móc mà nó
có được “cải biến” đi trong não người do hoạt động thực tiễn và lao động sáng tạo
mà có. Thực tiễn lao động tác động vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách
quan phải bộc lộ những thuộc tính vốn có của nó để con người nhận thức, tiếp thu,
phản ánh vào trong đầu óc của mình. Hành động ấy cứ lặp đi lặp lại nhiều lần trong
lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác trở thành “công lý lô gíc” cho sự phát triển ý
thức con người.
Khác với động vật, con người phản ánh thế giới bên ngoài một cách có ý
thức. Sở dĩ có sự khác biệt đó cũng chính là nhờ con người có hoạt động lao động
mà ở con vật không có. Phản ánh ý thức mang bản chất xã hội là do quy luật xã hội
quy định – mà lao động, đồng thời với lao động là ngôn ngữ - đó là hai sức kích
thích để tâm lý động vật trở thành ý thức – mà lao động ngôn ngữ là do kết quả hoạt
động thực tiễn tạo nên. Sự phản ánh của ý thức là phản ánh có mục đích, có chủ ý,
có phương pháp, có khả năng dự báo nhằm mục đích cuối cùng là phát triển xã hội
ngày một văn minh hơn trong đó có bản thân con người.
Phản ánh sáng tạo của ý thức con người được thể hiện trong quá trình hành
động thực tiễn cải tạo thực hiện một cách có mục đích vì sự tồn tại và phát triển của
con người. Hành động thực tiễn đầu tiên và chủ yếu nhất chính là lao động sản xuất
ra của cải vật chất.
Nếu chỉ chiêm ngưỡng hiện thực thì con người giỏi lắm cũng chỉ nhận thức
được cái bề ngoài của thế giới khách quan, mà cái bản chất thì “tự nhiên luôn luôn
tự dấu mình”. Thực tiễn lao động tác động vào giới tự nhiên bộc lộ những thuộc
tính vốn có của nó. Chỉ trong trường hợp này, những bí mật của thế giới khách quan
mới dần dần được khám phá. Có thể nói, trong quá trình lao động, con người vừa
tác động vào thế giới vật chất, đồng thời vừa khám phá, nghiên cứu nó trong quá
trình thực hiện hoạt động đó, con người đã đồng thời hoàn thiện chính mình. Những
thông tin tri thức và lĩnh vực tinh thần khác đã được ý thức con người tiếp thu, bảo

quản và phát triển.
Khi nói đến phản ánh ý thức, cần phải thấy rõ hai mặt: một mặt là thu nhận
những thông tin từ sự tác động của môi trường, mặt khác là ý thức tái tạo lại hiện
thực trong não người. Phản ánh ý thức bao hàm hai nội dung đó chứ không phải là

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 138:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 13 AM


chỉ thu nhận coi như kết thúc giai đoạn nhận thức. Do vậy, không thể cắt nghĩa ý
thức như là sự sao chép hiện thực một cách giản đơn. Khi Lênin nói đến sự “sao
chép, chép lại, phản ánh” của ý thức nhằm để chống lại chủ nghĩa duy tâm của phái
Ma –khơ về vấn đề này. Trong quan điểm nhất quán, Lênin luôn luôn có ý thức là
hình ảnh chủ quan. Hình ảnh chủ quan ấy bao hàm sự phản ánh không rập khuôn
máy móc mà là sự sáng tạo một cách không hoàn toàn như cái khách quan, nhưng
lại từ cái khách quan ấy.
Sự phản ánh sáng tạo của con người là phản ánh thông qua hoạt động thực
tiễn. Vì vậy, nếu xem xét phản ánh như là quá trình thụ động sao chép hình ảnh thế
giới khách quan bên ngoài là không phù hợp với thành quả lao động khoa học hiện
đại. Chính trong hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra cho mình những năng
khiếu biến đổi sự vật hình tượng trong đầu óc mình, để rồi thay đổi nó trong hiện
thực. Bản chất phản ánh sáng tạo là của con người như ngày nay, với thành tựu của
khoa học công nghệ, nhất là của tin học và điều khiển học, một số học giả phương
Tây đã cho rằng máy móc có thể sẽ thay thế cho con người ở lĩnh vực sáng tạo.
Phản ánh ý thức là phản ánh ở trình độ cao nhất còn ở chỗ nó không chỉ phản
ánh hiện thực một cách trực tiếp mà còn gián tiếp phản ánh hiện thực khách quan. Ở
phản ánh trực tiếp, khách thể được phản ánh phải tồn tại vào thời điểm phản ánh
cảm tính. Còn phản ánh gián tiếp thì khách thể có thể không tồn tại vào thời điểm

phản ánh cảm tính ấy. Sự tái hiện khách thể trong ý thức được thực hiện nhờ vào
biểu tượng và các hình thức của tư duy trừu tượng như khái niệm, phán đoán, suy
lý,...phương tiện đặc biệt quan trọng để phản ánh gián tiếp hiện thực chính là ngôn
ngữ.
Ngôn ngữ là phương tiện, là công cụ để khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện
thực. Nếu không có phương tiện ấy thì con người không thể tư duy. Con người ý
thức là tự tách khỏi sự vật cảm tính mà trừu tượng hóa, cải biến tự nhiên trong đầu
óc của mình thông qua sự trợ giúp của ngôn ngữ. Chính nhờ tín hiệu này mà con
người có thể phản ánh giới tự nhiên một cách không có giới hạn, trong đó có “phản
ánh vượt trước” và dự báo tương lai. Phản ánh vượt trước theo ý nghĩa đầy đủ của
nó gắn liền với phản ánh sáng tạo của ý thức. Bản chất của sự phản ánh này là tái

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 148:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 14 AM


tạo trong đầu óc người có khuynh hướng thay đổi hiện thực và trên cơ sở đó tái tạo
lại khả năng bắt đầu của một hay nhiều sự kiện trong tương lai.
Nếu con người có khả năng sáng tạo trong xử lý thông tin về quá khứ và của
hiện tại thì cũng sẽ không loại trừ khả năng phản ánh tương lai ở mức độ nào đó.
Phản ánh vượt trước là một hiện tượng khá phổ biến có tính quy luật của con
người. Khả năng ấy của con người có tiền đề từ thế giới vật chất hữu sinh. Sự thích
nghi với môi trường sinh sống của động vật, thực vật là một ví dụ sinh động. Mặt
khác một số loài động vật có khả năng phản ứng trước sự thay đổi thời tiết, điều
kiện sinh sống. Chẳng hạn như con tằm biết kéo kén trước khi mùa đông đến; loài
chim én thường đi trú về phương Nam nắng ấm để tránh mùa đông lạnh giá ở
phương Bắc. Ở Nhật các nhà khoa học đang quan tâm đến một loài cá biết “dự báo”
trước hiện tượng động đất bằng hành động bơi nhảy hỗn loạn, hốt hoảng...

Những phản ứng trên của loài vật trước sự thay đổi của môi trường chỉ là sự
thích nghi sinh vật. Mặc dù loài vật có thể “biết trước” được sự thay đổi của điều
kiện sinh tồn ở chừng mực nào đó do phản ứng hóa sinh dựa vào thông tin tuyên
truyền, do bản năng sinh tồn của sinh vật. Đó không phải là phản ánh sáng tạo.
Bằng chứng là không có loài vật nào có khả năng hạn chế hay cải thiện được những
thay đổi bất lợi cho điều kiện sinh sống của chúng. Việc loài kiến di chuyển đến nơi
cao ráo trước khi có mưa ngập khác xa với việc con người dự báo hiện tượng lũ lụt
và chế ngự nó một cách tích cực.
Sự phản ánh vượt trước của con người bao giờ cũng dựa trên mảnh đất hiện
thực. Vì con người không thể tưởng tượng ra bất cứ điều gì trong não mình nếu điều
ấy không từng đã tồn tại trong hiện thực với hình thức tương tự nào đó – kể cả ảo
ảnh tôn giáo và sự sáng tạo nghệ thuật. Những giả thiết khoa học những dự báo
tương lai lại càng mang tính phản ánh sáng tạo hiện thực một cách khắt khe hơn, lôgíc hơn.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: thoát ly thực tại thì
không có gì để nói đến tương lai cả. Lênin chỉ ra rằng : dự kiến cái sắp xảy ra trong
tương lai chính là sự kết hợp lô- gíc của hiện tại cũng như hiện tại là cái kế tục của
quá khứ. Vì vậy, khi nói đến sáng tạo của ý thức con người bao hàm cả sự phản ánh
sáng tạo của chủ thể phản ánh chứ không có sự huyền bí nào.

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 158:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 15 AM


1.4 ĐẶC TRƯNG CỦA PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH THỰC TẠI VỀ MẶT
THẨM MỸ.
Thực tại được phản ánh vào ý thức vào con người bằng nhiều mặt khác nhau.
Cơ sở của tất cả các hình thức phản ánh là sự đa dạng của những thuộc tính của bản
thân thực tại, là tính nhiều vẻ của các các nhu cầu của con người. Trong hoạt động

hằng ngày, con người sử dụng năng lực vốn có của mình là đứng trước mỗi hiện
tượng đều tìm thấy một hình thức thích hợp để nhận thức nó và để diễn đạt các hình
thức thu được. Về mặt lý luận nhận thức, các hính thức ý thức xã hội là những con
đường khác nhau để nhận thức thực tại và có những sự khác nhau về đối tượng, về
nội dung và phương thức phản ánh.
Đối tượng của tất cả các hình thái ý thức xã hội là thực tại hiện thực. Thực
tại đó, như vũ trụ, thế giới, thiên nhiên, là cái tồn tại độc lập với ý thức con người,
có những quy luật khách quan tác động tự phát mà con người nhận thức, nghiên cứu
và vận dụng thích ứng với nhu cầu và đòi hỏi của mình. Như Pa – vlốp nói, chính
con người nhận thức và khai phá thế giới đã tạo ra sự vận dụng cao nhất là khoa
học. Trong quá trình nhận thức khoa học, con người nắm được “bản chất bên trong,
cái quy luật” của thiên nhiên phát triển tự phát, của môi trường vật thể, của xã hội
và dựa vào những kiến thức thu được mà cải tạo lại tự nhiên.
Còn có một thực tại khách quan và vật chất nữa mà nếu không có con người
thì cũng không có và không thể có nó được. Đó là lĩnh vực quan hệ xã hội. Ví dụ,
quan hệ giữa con người với thiên nhiên, quan hệ giữa người với người, quan hệ sản
xuất, quan hệ giai cấp, quan hệ đạo đức...Và nếu thiên nhiên là đối tượng phản ánh
của hình thái khoa học tự nhiên của ý thức xã hội thì lĩnh vực quan hệ con người là
đối tượng phản ánh của hệ tư tưởng hoặc của các hình thái ý thức xã hội. Trong đó
nội dung phản ánh của mỗi hình thái tư tưởng của ý thức xã hội sẽ là một mặt nào
đó trong các quan hệ xã hội, đó chính là điều quyết định phương thức phán ánh thực
tại của hình thái đó.
Trong khi nhận thức thế giới xung quanh, con người có thể nhận biết được sự
nhiều vẻ của những thuộc tính, đặc điểm, tính chất của thế giới đó, những cái này
gây nên những cảm xúc nhất định...Con người có thể cảm xúc thế giới xung quanh
ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 168:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 16 AM



một cách phù hợp với tâm trạng của mình, có thể có khoái cảm, tức là nhận thấy và
đánh giá thế giới là đẹp hay xấu, là bi hay hài. Trong trường hợp này, người ta nói
rằng con người có tri giác thẩm mỹ về thế giới.
Cũng như trong mọi hình thái tư tưởng của ý thức xã hội, trong hình thái
thẩm mỹ, con người phản ánh thực tại theo kiểu đánh giá, có chú ý đến tính độc đáo
cá biệt của sự thống nhất giữa hình thức và nội dung của hiện tượng, quá trình hay
vật thể. Ở đây điều quan trọng không phải chỉ là nội dung của quá trình, mà cả
phương thức biểu hiện nội dung đó. Phương thức phản ánh thực tại về mặt thẩm mỹ
có một số đặc điểm riêng: có tính trực quan, tính cụ thể và tính hình tượng. Đó có
được tri giác thẩm mỹ và đánh giá thẩm mỹ về một hiện tượng, chúng ta nhất định
phải nhìn thấy, nghe thấy hay có biểu tượng cảm tính cụ thể về nó. Chẳng hạn con
người có thể tri giác thẩm mỹ về chính quang cảnh một trận chiến hoặc về hình ảnh
của nó trong một bức tranh, một tác phẩm văn học, một bản nhạc, và cũng có thể
thông qua những hồi ức của mình.
Khi phản ánh thực tại thẩm mỹ, chúng ta không sử dụng những công thức,
những định nghĩa khoa học, những quy luật, những tiêu chuẩn hoặc những điều quy
định. Trong quá trình tri giác thẩm mỹ, trong ý thức xuất hiện một hình ảnh có tính
chất cảm tính cụ thể. Ở đây bản thân quá trình tri giác thực tại được con người thể
nghiệm, và trong việc này cảm giác, tình cảm của con người đóng vai trò đặc biệt.
Những điều thể nghiệm này đưa lại cho con người một khoái cảm thẩm mỹ do sự tri
giác thực tại xung quanh, do hoạt động lao động, do những tác phẩm nghệ thuật, do
sự sáng tạo nghê thuật. Hơn nữa khoái cảm đó về sau còn đem lại cho con người
một nguồn phấn khởi, vì nó kết hợp sự rung động thẩm mỹ với khát vọng đi tới
hoàn thiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người.
Về mặt thẩm mỹ, con người tri giác, đánh giá và khai thác thực tại theo quan
điểm cái đẹp.
Ở đây cần chú ý là bản thân thế giới khách quan, bản thân thiên nhiên chỉ
chứa đựng khả năng có cái đẹp, và chỉ con người mới có thể nhận thức và nêu lên
khái niệm cái đẹp.

Đối với thiên nhiên, chỉ có thể nói rằng trong thiên nhiên có một sự hài hòa
và cân đối nhất định giữa các bộ phận khác nhau của thế giới vật chất. Nhưng, như

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 178:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 17 AM


Hêghen nhận xét “cái đẹp trong thiên nhiên...không phải là cái đẹp cho bản thân nó
cũng như không phải là được tạo ra từ bản thân nó thành cái đẹp và cho hiện tượng
đẹp. Cái đẹp trong thiên nhiên chỉ đẹp đối với kẻ khác, tức là đẹp đối với chúng ta,
đối với người dùng ý thức để tri giác cái đẹp”.
Mặt hợp lý của tư tưởng đó đã được Mác nói: “nhưng ngay cả thiên nhiên
được xem xét một cách trừu tượng, cô lập, được cố định lại trong sự tách rời với
con người, thì đối với con người nó cũng không là cái gì hết”.
Dĩ nhiên, tiền đề khách quan của cái đẹp là những quy luật phát triển của thế
giới vật chất. Mà ở đây cái có vai trò quyết định là thực tiễn xã hội. Con người chỉ
có khả năng tiềm tàng để tri giác thẩm mỹ đối với thực tại, và chỉ có các điều kiện
xã hội mới có thể biến khả năng đó thành thị hiếu thẩm mỹ phát triển và thành nhu
cầu tất yếu.
Cùng một hiện tượng có thể con người có cảm thụ như là cái đẹp, mà cũng
có thể là cái xấu. Tất cả tùy ở điều kiện, địa điểm và thời gian, tùy ở hoàn cảnh lịch
sử cụ thể và ở mức độ tự do. Người võ sĩ nô lệ ở Rô-ma thời cổ không chắc đã
thưởng thức cái đẹp tuyệt vời của công trình kiến trúc Cô-li-dê là nơi anh sắp phải
chết trên vũ đài. Thậm chí khi cảm xúc thẩm mỹ đối với thiên nhiên, con người còn
so sánh sức mạnh thiên nhiên với sức mình. Do đó, không thể coi cái đẹp chỉ là một
thuộc tính của bản thân thực tại hay là một phẩm chất của ý thức con người. Căn cứ
vào đặc điểm của phản ánh thẩm mỹ, đặc trưng của đối tượng và phương thức biểu
hiện hình thái thẩm mỹ của ý thức xã hội, thì đối với câu hỏi “cái đẹp có tồn tại bên

ngoài chủ thể và không cần chủ thể hay không?”, ta có thể trả lời: “đúng là ở ngoài
con người, nhưng không phải là không cần con người”. Chỉ có tác động qua lại biện
chứng giữa con người với môi trường xung quanh trong quá trình nhận thức và quá
trình thực tiễn xã hội mới đem lại tri giác thẩm mỹ và hình thành khái niệm về cái
đẹp.
Như vậy, bản chất của ý thức thẩm mỹ là quá trình tri giác thực tại dưới hình
thức hình tượng – gợi cảm, trong sự thống nhất toàn vẹn, sự hài hòa cá biệt đặc sắc
giữa hình thức và nội dung, là quá trình phản ánh sự hoàn hảo và đẹp đẽ của thế
giới dưới dạng những cảm xúc của con người gây nên những khoái lạc về tinh thần.
Hình thái thẩm mỹ của ý thức xã hội là tổng thể những tình cảm, phán đoán, thị

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 188:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 18 AM


hiếu, những quan điểm, lý tưởng, tư tưởng lý thuyết mà nhờ đó, con người có được
một biểu tượng có hình tượng gợi cảm về thực tại xung quanh và bày tỏ thái độ của
mình đối với thực tại đó.
Hạt nhân của hình thái thẩm mỹ của ý thức xã hội là nghệ thuật. Đây là lĩnh
vực riêng của nhận thức thẩm mỹ và hoạt động sáng tác, một dạng đặc biệt của “sản
xuất tinh thần” và “giao tiếp tinh thần” của con người. Sách báo nước ta đôi khi
định nghĩa nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội. Nhưng nếu cho rằng về mặt
thẩm mỹ, thực tại chỉ được phản ánh bằng hình thức những tác phẩm nghệ thuật thì
không đúng. Một là phương thức phản ánh thực tại về mặt thẩm mỹ còn thể hiện cả
trong hoạt động lao động, trong quan hệ giữa người với người, với xã hội, với thiên
nhiên...Hai là nếu cứ cho rằng chỉ có nghệ thuật mới là một hình thái ý thức xã hội,
khi thì phân tích về mặt lý luận ta sẽ đi tới bó hẹp những quan điểm, tư tưởng và lý
thuyết thẩm mỹ vào khuôn khổ sáng tạo nghệ thuật và thực tiễn nghiên cứu nghệ

thuật. Tất cả điều đó không phản ánh đúng tình hình thực tế và dẫn đến những thiệt
hại nhất định về mặt lý luận và thực tiễn. Ba là những cảm xúc, rung động thẩm mỹ
của con người còn xuất hiện ở cả ngoài phạm vi nghệ thuật, trong những lĩnh vực
khác nhau của đời sống hàng ngày. Thị hiếu thẩm mỹ chẳng hạn, không phải chỉ do
nghệ thuật quyết định mà bản thân nó còn vạch ra xu hướng phát triển cho nghệ
thuật. Dĩ nhiên, nghệ thuật là cái tinh túy nhất trong kinh nghiệm thẩm mỹ của loài
người, là sự phản ánh thẩm mỹ thực sự về thực tại. Những cơ sở để phát triển nghệ
thuật là bản thân cuộc sống được phản ánh về mặt thẩm mỹ.
Hình thái thẩm mỹ của ý thức xã hội phản ánh thức tại một cách cảm ứng cụ
thể, có hình tượng gợi cảm, còn nghệ thuật thì sàng lọc, mài sắc và phóng to sự
phản ánh đó. Vì vậy, nghệ thuật không phải chỉ là phương thức phản ánh thực tại,
mà còn là một lĩnh vực “sản xuất tinh thần” và là một dạng “giao tiếp tinh thần của
con người” một phương tiện hữu hiệu để đấu tranh cải tạo thực tại bằng đấu tranh
cách mạng. Vì trong nghệ thuật, thế giới được nhận thức, được ngẫm nghĩ, được
trau chuốt một cách thẩm mỹ, nên bức tranh về thực tại có sự sắp xếp trật tự, có lô
gíc chặt chẽ, kể cả khi thể hiện những hiện tượng thấp hèn,quái gở của cuộc sống.
Cái đẹp này không phải do người nghệ sĩ lồng vào mà là do người đó vạch ra trong
quá trình khai thác thực tại về mặt tinh thần.

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 198:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 19 AM


Công lao hết sức to lớn của Mác và Ăngghen là đã nghiên cứu vấn đề thực
tiễn xã hội cũng có vai trò quyết định đối với việc giải quyết các vấn đề mỹ học,
nhất là đối với việc nghiên cứu “những quy luật của cái đẹp” trong hoạt động lao
động của con người, nghiên cứu đặc điểm sự phát triển của nghệ thuật như là một
dạng đặc biệt của “sản xuất tinh thần” và của sự phản ánh các điều kiện kinh tế và

chính trị của sự sống còn và phát triển của xã hội.
Lênin sau khi chứng minh thuyết phản ánh duy vật biện chứng, đã vạch rõ
đặc tính của ý thức thẩm mỹ, nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa tính đảng và tính
nhân dân trong nghệ thuật. Vận dụng sâu sắc và hoàn toàn diện các quy luật và
phạm trù.

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 208:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 20 AM


Chương 2
MỐI QUAN HỆ GIỮA CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ
THẨM MỸ TRÊN CƠ SỞ LÝ LUẬN PHẢN ÁNH
2.1 CHỦ THỂ THẨM MỸ
2.1.1 CHỦ THỂ THẨM MỸ
Theo từ điển triết học: “Chủ thể là con người, cá nhân, nhóm người, giai cấp,
tiến hành hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn.
Còn chủ thể thẩm mỹ là phương diện thứ hai của quan hệ thẩm mỹ, đó chính
là con người xã hội, các tập đoàn xã hội, các hoạt động của con người trong hoạt
động thưởng thức, đánh giá, sáng tạo các giá trị thẩm mỹ.
Để trở thành chủ thể thẩm mỹ, thông thường chủ thể xã hội phải vượt qua
trạng thái thực dụng, những nhu cầu thực dụng trực tiếp, cấp bách. Chẳng hạn con
người đang đấu tranh giành giật sinh tử thì không quan hệ với hiện thực với tư cách
là chủ thể thẩm mỹ.
Tuy nhiên, việc phân định chủ thể thẩm mỹ với khách thể thẩm mỹ chỉ là
tương đối trong những tình thái, những quan hệ nhất định. Ngoài các hình thái và
quan hệ ấy, sự phân vai này sẽ buộc phải thay đổi.
Ý thức thẩm mỹ và các thành tố cơ bản của chủ thể thẩm mỹ:

Có nhiều quan niệm khác nhau về ý thức thẩm mỹ: xu hướng bản thể luận
coi ý thức thẩm mỹ là phản ánh bản thân tồn tại theo những nguyên tắc chung, xu
hướng nhận thức luận lại coi ý thức thẩm mỹ là một thuộc tính của ý thức con
người. Mỹ học Mác – Lênin xác định ý thức thẩm mỹ là một trong những hình thái
ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội dưới góc độ thẩm mỹ.
Đối tượng mà ý thức thẩm mỹ phản ánh là “thế giới của con người” (theo
cách nói của Mác), nghĩa là cái hiện thực xã hội đã được đồng hóa bởi kinh nghiệm
xã hội – văn hóa của con người. Chủ thể phản ánh của ý thức thẩm mỹ chính là chủ
thể thẩm mỹ hay nói một cách khác là các giai cấp, các nhóm người có thể tham gia
vào việc sản xuất giá trị thẩm mỹ.

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 218:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 21 AM


Ý thức thẩm mỹ là khái niệm đi liền với khái niệm hoạt động thẩm mỹ, một
mặt hoạt động thẩm mỹ là quá trình hiện thực hóa ý thức thẩm mỹ, mặt khác một số
thành tố của ý thức thẩm mỹ như cảm xúc thẩm mỹ, thưởng thức thẩm mỹ đã đồng
thời là hoạt động thẩm mỹ.
Ý thức thẩm mỹ có đặc trưng là sự phản ánh mang tính hình tượng - cảm tính
về thế giới hiện thực khách quan. Đó là hiện tượng con người tiếp nhận sự thống
nhất toàn vẹn của đối tượng dưới dạng cảm xúc. Hình tượng - cảm tính là sáng tạo
chủ quan của ý thức con người, không phải là bản sao nguyên xi của hiện thực
khách quan, mặc dù hiện thực khách quan ấy quy định nội dung của ý thức phản
ánh.
Ý thức thẩm mỹ không chỉ phản ánh tồn tại xã hội một cách thụ động, mà
còn tác động tích cực trở lại với sự phát triển của tồn tại xã hội ấy. Nó không chỉ
đưa lại một hình ảnh đúng đắn, chỉnh thể về thế giới, cái thế giới mong muốn và

không mong muốn mà còn đưa lại hình mẫu của một tương lai mong đợi, tạo dựng
cơ sở cảm xúc – ý chí cho mỗi cá nhân nhằm cải biến hiện thực.
Cảm xúc thẩm mỹ là một trong những thành tố đầu tiên của ý thức thẩm mỹ,
đó là trạng thái xúc động trực tiếp nảy sinh ở chủ thể thẩm mỹ trước đối tượng thẩm
mỹ, nó là sự hòa trộn phức tạp những phản ứng tình cảm khác nhau, như sung
sướng và khổ đau, vui và buồn, thiện cảm và ác cảm, tình yêu và hận thù…
Cảm xúc thẩm mỹ có cơ sở khách quan là đối tượng thẩm mỹ, tức là các sự
vật, hiện tượng tồn tại trong một chỉnh thể, độc đáo và có thể tri giác một cách trực
tiếp, sinh động và những nội dung, thuộc tính, bản chất được bộc lộ ra hình thức
bên ngoài dưới dạng vật chất cụ thể nào đó. Trước những đối tượng thẩm mỹ ấy, do
khả năng tiếp nhận các kích thích từ bên ngoài được hình thành nên từ bản chất
người của chủ thể, với mỗi đối tượng thẩm mỹ, trong thời gian khác nhau có thể có
một không gian cảm xúc thẩm mỹ khác nhau ở chủ thể .
Nếu như cảm xúc thẩm mỹ là trạng thái tinh thần nảy sinh khi có sự kích
thích của đối tượng thẩm mỹ vào chủ thể thẩm mỹ thông qua các giác quan thẩm
mỹ thì nhu cầu thẩm mỹ là tiềm năng tinh thần thường trực của chủ thể thẩm mỹ, là
trạng thái đòi hỏi sự thỏa mãn các giá trị thẩm mỹ của con người. Nhu cầu thẩm mỹ
là một trong những thành tố cơ bản của ý thức thẩm mỹ, phản ánh tình trạng không

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 228:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 22 AM


tương hợp giữa con người với thế giới xung quanh và nỗi khát khao khắc phục sự
không tương hợp đó, khắc phục sự hữu hạn, hẹp hòi của quan hệ hàng ngày giữa
con người với thực tại.
Nhu cầu nói chung của con người có thể xếp vào hai tuyến: tuyến tự nhiên và
tuyến xã hội. Nhu cầu thẩm mỹ thuộc về tuyến xã hội, nó mang tính tinh thần, song

chỉ có thể được đáp ứng thông qua những sự vật hiện tượng tồn tại trong một dạng
vật chất cụ thể nào đó có chứa giá trị thẩm mỹ.
Lòng mong muốn vươn tới thỏa mãn những giá trị thẩm mỹ tích cực là một
trong những yếu tố nâng con người vượt qua những nhu cầu thực dụng thô thiển và
những đòi hỏi bản năng. Kant đã rất có lý khi nhận định rằng: nhu cầu thẩm mỹ chỉ
được thỏa mãn, tình cảm thẩm mỹ chỉ được nảy sinh khi con người vượt lên trên
những suy tính vụ lợi, ích kỷ tầm thường.
Nhu cầu thẩm mỹ ở con người được bộc lộ ra qua hai xu hướng tuỳ thuộc
vào cá tính. Những người có cá tính yếu thường có xu hướng hòa nhập, tiếp nhận
những giá trị phổ biến theo trào lưu chung của cộng đồng. Những người có cá tính
mạnh thường có xu hướng tách biệt ra để khẳng định cái “tôi” của mình. Họ có thể
phá bỏ một số giá trị truyền thống, tạo lập ra những giá trị thẩm mỹ mới, độc đáo,
đặc biệt cho xã hội.
Thị hiếu thẩm mỹ là sở thích của con người về phương diện thẩm mỹ. Đó là
thái độ tình cảm của con người trước cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái cao cả
trong cuộc sống và nghệ thuật.
So với cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ ổn định và bền vững hơn, nó đã
là sự thống nhất giữa tình cảm thẩm mỹ và lý trí. Song, thị hiếu thẩm mỹ vẫn bộc lộ
tính mau lẹ và nhạy cảm. Dường như bao giờ người ta cũng có thể trả lời ngay câu
hỏi trước mỗi một hiện tượng thẩm mỹ. Thị hiếu thẩm mỹ nghiêng về phía tình cảm
sẽ thay đổi nhanh, nếu nghiêng về phía lý trí thì sẽ bền vững, ổn định hơn. Trình độ
học vấn, mức độ được giáo dục về mặt thẩm mỹ, được tiếp xúc với nghệ thuật, ảnh
hưởng và chi phối mạnh đến thị hiếu thẩm mỹ của mỗi cá nhân.
Thị hiếu thẩm mỹ ở mỗi con người không phải là bẩm sinh, bất biến, mà thay
đổi tùy theo từng lứa tuổi, từng thời kỳ, theo giới tính khác nhau. Nó vừa mang tính
cá nhân, vừa mang tính xã hội. Thị hiếu của cá nhân và của xã hội đan xen và ảnh

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 238:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46

Trang 23 AM


hưởng đến nhau: cá nhân có cá tính yếu thường chịu sự chi phối, ràng buộc của thị
hiếu xã hội, thị hiếu cộng đồng. Song, nếu cá nhân có cá tính mạnh, lại có được sự
thành đạt nổi bật trong xã hội thì thị hiếu thẩm mỹ của anh ta tác động mạnh đến thị
hiếu cộng đồng, thậm chí làm thay đổi cả những quan điểm thẩm mỹ của xã hội.
Giữa thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh và thị hiếu thẩm mỹ độc hại không có ranh
giới cứng nhắc, chúng chịu sự chi phối của quan điểm chính trị của một xã hội nhất
định nào đó. Sự thích thú cùng một đối tượng thẩm mỹ ở các cá nhân khác nhau có
thể xuất phát từ các loại thị hiếu lành mạnh, độc hại trái ngược nhau. Một đối tượng
thẩm mỹ có thể là lành mạnh, độc hại tuỳ thuộc vào người cảm nhận và mức độ tiếp
xúc của người đó với đối tượng.
Người có thị hiếu thẩm mỹ phát triển cao, một mặt do xuất phát từ bản năng
nhạy cảm khác nhau đối với thế giới xung quanh; do được tiếp nhận một nền học
vấn tiến bộ, tích cực, do được tiếp xúc và được giáo dục nhiều với nghệ thuật và bởi
nghệ thuật tiên tiến. Ngược lại người có thị hiếu kém phát triển một phần có thể còn
mang nhiều bản năng thô lỗ, một phần do phải sinh sống lâu năm trong những điều
kiện vật chất quá thiếu thốn, trong môi trường đời sống tinh thần của cộng đồng tăm
tối. Sự thấp kém về thị hiếu thẩm mỹ này có thể được khắc phục một mức độ lớn
bởi sự thay đổi những điều kiện kinh tế - xã hội.
Mốt thông thường đi đôi với thị hiếu thẩm mỹ, mặc dù thị hiếu thẩm mỹ là
trạng thái tình cảm tương đối ổn định lặp đi lặp lại trước đối tượng thẩm mỹ, còn
mốt là cái chưa ổn định được đưa ra cho thị hiếu thẩm mỹ thử thách.
Mốt - xem xét dưới góc độ mỹ học - triết học – là sự thay đổi một cách
thường xuyên, cục bộ các hình thức bề ngoài, xảy ra dưới sự ảnh hưởng của nhiều
yếu tố xã hội (kinh tế, tâm lý xã hội, văn hóa, đạo đức và thẩm mỹ).
Mốt có liên hệ chặt chẽ với truyền thống văn hóa, các phong tục và truyền
thống trong xã hội thường bị khúc xạ trong mốt.
Được thử thách qua một thời gian, nếu mốt phù hợp với truyền thống văn

hóa và đáp ứng với những nhu cầu lịch sử, nó sẽ tồn tại khá bền vững và bổ sung
vào vốn văn hóa truyền thống những hình thức mới. Mốt có thể làm cho những yếu
tố truyền thống trở nên lỗi thời, không phù hợp với cuộc sống hiện tại. Cũng có thể
chính bản thân mốt nếu không phù hợp với hoàn cảnh tâm lý – xã hội, không phù

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 248:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 24 AM


hợp với môi trường, không hòa nhịp với xu thế vận động xã hội sẽ nhanh chóng bị
loại bỏ. Nhưng sự ra đi của nó thầm lặng, không ồn ào như khi mới xuất hiện.
Lý tưởng thẩm mỹ là một thành tố cơ bản, là hạt nhân của ý thức thẩm mỹ,
đóng vai trò hình mẫu cho các giá trị thẩm mỹ cần thiết và mong muốn.
Đánh giá thẩm mỹ bao giờ cũng phải tuân theo các chuẩn mực, các chuẩn
mực đánh giá có thể nặng về cảm tính, có thể nặng về lý tính. Trong các chuẩn mực,
chuẩn mực cao nhất là lý tưởng thẩm mỹ, bởi vì nó là một hệ thống quan điểm cụ
thể - cảm tính về sự hài hòa, hoàn thiện của các sự vật , hiện tượng.
Lý tưởng thẩm mỹ được biểu hiện ra thông qua hình tượng mang tính toàn
vẹn và cụ thể cảm tính. Những hình tượng ấy thường là con người thuộc một thời
đại nhất định, thuộc một tầng lớp trong xã hội nhất định với những quan hệ cụ thể
của họ với thế giới xung quanh. Lý tưởng thẩm mỹ ở mỗi thời đại, mỗi xã hội thể
hiện rõ rệt nhất qua nghệ thuật, qua các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu ở mỗi thời
đại, mỗi xã hội ấy. Thông thường lý tưởng thẩm mỹ được thể hiện trực tiếp qua các
hình tượng những nhân vật tích cực, nhân vật chính diện, nhân vật anh hùng, song
trong xu hướng nghệ thuật hiện thực phê phán, lý tưởng thẩm mỹ được thể hiện một
cách gián tiếp khi các tác phẩm nghệ thuật mổ xẻ phê phán và đả kích các hiện
tượng tiêu cực, cả về phương diện đạo đức lẫn phương diện chính trị xã hội.
Lý tưởng thẩm mỹ trong nghệ thuật là sự thể hiện một cách tập trung sâu sắc

lý tưởng thẩm mỹ ngoài đời sống xã hội, nó có khả năng dẫn dắt lý tưởng thẩm mỹ
ngoài hiện thực.
2.1.2 CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA CHỦ THỂ THẨM MỸ
Quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực đã hình thành các chủ thể
thẩm mỹ khác nhau. Hiện nay mỹ học Mác – Lênin phân thành năm nhóm chủ thể
thẩm mỹ chủ yếu:
Nhóm chủ thể thưởng thức
Nhóm này còn được gọi là nhóm cảm thụ các giá trị thẩm mỹ, nó có quy mô
rộng lớn nhất, bao trùm hai nhóm còn lại. Hầu như mỗi con người xã hội đều có cơ
hội để trở thành một chủ thể thưởng thức trong những tình huống nhất định nào đó.
Nhóm chủ thể thưởng thức phản ánh thụ cảm những quá trình thẩm mỹ xảy
ra trong cuộc sống và nghệ thuật nhờ vào giác quan mà tích luỹ được những giá trị

ttttTrang

- - tttttttttttrabg- 258:36:46 AM8:36:46 AM8:36:46
Trang 25 AM


×