Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

VẬN DỤNG tư TƯỞNG đạo đức hồ CHÍ MINH TRONG VIỆC rèn LUYỆN và xây DỰNG đạo đức CHO SINH VIÊN đại học cần THƠ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.03 KB, 98 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ
MINH TRONG VIỆC RÈN LUYỆN VÀ XÂY
DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC
CẦN THƠ.

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh Viên Thực

hiện:
Th.S. NGUYỄN THỊ KIM CHI

LÊ THỊ TRANG
MSSV:6088042
LỚP: SPGDCD. K34

Cần Thơ 12/2011

Trang 1


LƠI CAM ƠN
Khoá luận tốt nghiệp là bước cuối cùng đánh dấu sự trưởng thành của một
sinh viên ở giảng đường Đại học. Để trở thành một cử nhân hay một kỹ sư đóng


góp những gì mình đã học được cho sự phát triển đất nước. Trong quá trình thực
hiện khoá luận tốt nghiệp, em đã được sự giúp đỡ, hướng dẫn, hỗ trợ và động
viên từ gia đình, từ quý thầy cô cùng các bạn. Nhờ đó mà em đã hoàn thành được
luận văn như mong muốn, nay xin cho phép em được gửi lời cám ơn sâu sắc và
chân thành đến:
Ba mẹ là người đã dạy dỗ và nuôi em khôn lớn cho đến khi em bước chân
vào giảng đường đại học, là người luôn bên cạnh em và chia sẽ mỗi lúc em gặp
khó khăn trong cuộc sống.
Ban giam hiêu trương Đai Hoc Cần Thơ nói chung, và khoa khoa hoc
chính trị nói riêng đa tao moi điêu kiên thuân lơi, giup đơ em trong qua trinh hoc
tâp và hoàn thành luân văn.
Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Kim Chi, người trực tiếp
hướng dẫn đề tài. Trong quá trình làm luận văn, cô đã tận tình hướng dẫn thực
hiện đề tài, giúp em giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình làm luận văn
và hoàn thành luận văn đúng định hướng ban đầu.
Xin chân thành cam ơn cac thầy cô trong hôi đông châm luân văn, đa cho
em nhưng đóng góp quy bau đê luân văn thêm hoàn chinh. Cuối cùng xin đươc
gưi lơi cam ơn tơi tât ca ban be là nhưng ngươi luôn chia sẽ nhưng chuyên buôn
vui trong cuộc sống cũng như giúp đỡ em những lúc khó khăn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn. Chúc tất cả mọi người sức khỏe
và thành đạt.
Xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 01 tháng 12 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Trang

Trang 2


MỤC LỤC

LƠI CAM ƠN....................................................................................................................2
.................................................................................................................2
MỤC LỤC......................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................5
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 6
2.1 Mục đích..............................................................................................................6
2.2 Nhiệm vụ............................................................................................................. 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................................6
3.1 Đối tượng.............................................................................................................6
3.2. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................ 6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu................................................................7
4.1 Cơ sở lý luận........................................................................................................7
4.2 Phương pháp nghiên cứu..................................................................................... 7
5. Cấu trúc của đề tài..................................................................................................... 7
NỘI DUNG........................................................................................................................8
Chương 1....................................................................................................................... 8
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN................................................................. 8
1.1 Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức ....................................... 8
1.1.1 Vai trò của đạo đức cách mạng.........................................................................9
1.1.2 Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người Việt Nam................................11
1.1.3 Quan niệm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới...............................27
1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên và tầm quan trọng của
công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên ..................................................................31
1.2.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách
mạng........................................................................................................................ 31
1.2.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức
cho thanh niên..........................................................................................................35
1.3 Quan niệm của Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục đạo đức cho thanh niên........37

1.3.1 Giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng........................................................37
1.3.2 Giáo dục lòng yêu nước.................................................................................41
1.3.3 Giáo dục lý tưởng cách mạng.........................................................................45
1.4 Quan niệm của Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục thanh niên trong tư tưởng
Hồ Chí Minh................................................................................................................48
Chương 2......................................................................................................................... 51
RÈN LUYỆN, XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC CẦN THƠ
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.............................................................................. 51
2.1 Một số đặc điểm của trường và sinh viên đại học Cần Thơ..................................51
2.1.1 Trường đại học Cần Thơ................................................................................51
2.1.2 Sinh viên trường Đại Học Cần Thơ................................................................53
2.2 Sinh viên trường đại Học Cần Thơ rèn luyện và xây dựng đạo đức qua các hoạt
động cụ thể dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh......................................................55
2.2.1 Các hoạt động thường xuyên từ năm 2007 đến nay nhằm rèn luyện và xây
dựng đạo đức của Sinh viên đại học Cần Thơ.........................................................55
2.2.2 Kết quả thực hiện việc rèn luyện và xây dựng đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí
Minh của sinh viên Đại học Cần Thơ......................................................................61
2.3 Một số giải pháp nhằm tăng cường xây dựng, rèn luyện đạo đức cho sinh viên đại
học Cần Thơ dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh....................................................77
Trang 3


KẾT LUẬN..................................................................................................................... 95
TÀI LIỆU TAM KHẢO..................................................................................................97

Trang 4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả
tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu
mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và
thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng lỗi lạc, mà cả
cuộc đời Người còn toát lên một tấm gương đạo đức cao cả cho chúng ta học tập
và noi theo. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của thanh niên,
của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của đất nước. Người luôn quan tâm đến việc
giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự chuyển biến mạnh mẽ của những
điều kiện kinh tế - xã hội đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến thanh niên, lớp
người trẻ. Một mặt, nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hoá, nền kinh tế tri
thức, việc mở rộng giao lưu hội nhập với thế giới, đang tạo nhiều cơ hội, điều
kiện cho thanh niên phát huy tính năng động, chủ động, sáng tạo vươn lên để
khẳng định mình. Mặt khác, trong thanh niên đã nảy sinh nhiều hiện tượng suy
thoái đạo đức, lối sống, chỉ coi trọng đồng tiền, bất chấp đạo lý, chỉ đề cao giá trị
vật chất mà xem thường giá trị tinh thần dẫn đến thanh niên rơi vào tội lỗi và các
tệ nạn xã hội.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, một trong những nguyên
nhân quan trọng đó là sự sa sút về đạo đức. Đáng nói hơn, sự sa sút về đạo đức
đã xuất hiện ở một bộ phận thanh thiếu niên, thế hệ trẻ của chúng ta. Bên cạnh
những sinh viên, học sinh có hoài bão, lý tưởng vẫn còn không ít những thanh
thiếu niên, sinh viên tỏ ra thờ ơ với lý tưởng đạo đức cách mạng, chạy theo lối
sống thực dụng, xa hoa. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải giáo dục đạo đức cho mọi
người, đặc biệt là thế hệ trẻ là những chủ nhân tương lai của đất nước học tập
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là vấn đề cấp bách.

Trang 5



Sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, đóng vai trò quan trọng trong
sự phát triển của nước nhà. Với sự phát triển của đời sống kinh tế, do cơ chế mở
cửa và thời kỳ hội nhập đã ảnh hưởng không nhỏ tới bộ phận này. Những giá trị
đạo đức truyền thống, những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam gần như
đang bị phai nhạt trong đời sống sinh viên. Chính vì vậy, việc rèn luyện, xây
dựng đạo đức cho sinh viên đang trở thành một vấn đề cấp thiết hiện nay.
Vì lẽ đó tôi đã chọn vấn đề: Vận dụng tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh
trong việc rèn luyện và xây dựng đạo đức cho sinh viên trường Đại Học Cần
Thơ, làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích
Luận văn tập chung nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức, giáo dục đạo đức cho thanh niên; làm rõ thực trạng công
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trường đại học Cần Thơ. Trên cơ sở đó đưa ra
một số giải pháp chủ yếu nhằm giáo dục đạo đức cho đối tượng thanh niên theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, giáo dục đạo
đức thanh niên.
- Phân tích thực trạng đạo đức sinh viên đại học Cần Thơ.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giáo dục đạo đức cho sinh viên
đại học Cần Thơ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và việc
rèn luyện, xây dựng đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.

Trang 6



Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức, giáo dục đạo đức thanh Niên; đạo đức và vấn đề giáo dục đạo
đức sinh viên đại học Cần Thơ từ năm 2007 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên những quan điểm, chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng
Sản Việt Nam.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn còn
sử dụng phương pháp phân tích, chứng minh, đối chiếu, so sánh, phương pháp
kết hợp giữa lôgic và lịch sử, thống kê
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận,tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương
và 7 tiết.

Trang 7


NỘI DUNG
Chương 1

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ TẦM QUAN
TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN
1.1 Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, nhà cách mạng bàn nhiều
đến vấn đề đạo đức. Mặc dù không phải là người chuyên nghiên cứu về vấn đề
đạo đức, cũng không có những tác phẩm lớn về đạo đức, nhưng tư tưởng đạo đức

của Hồ Chí Minh được thể hiện sinh động trong những bài nói, bài viết ngắn gọn
của Người, quan trọng hơn chính cuộc đời Người là một tấm gương sáng về đạo
đức cho chúng ta học tập và noi theo.
Đạo đức là một phạm trù rất rộng nhưng lại rất cụ thể. Trong cuộc sống
hàng ngày, chúng ta thường nhắc đến cụm từ đạo đức trên mọi lĩnh vực: đạo đức
gia đình, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp, v.v nói rộng
ra là đạo đức của cả một dân tộc.
Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức. Song, khi bàn về đạo đức,
Hồ Chí Minh rất hay sử dụng những khái niệm, phạm trù đạo đức đã quen thuộc
với dân tộc ta từ lâu đời, trong đó có đạo đức Nho giáo, Phật giáo, nhưng Người
đã đưa vào đó những nội dung mới, có khi hoàn toàn mới, đồng thời Người bổ
sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì thế mà có sự
hòa nhập những giá trị đạo đức mới với những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, làm cho quan niệm và tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh luôn luôn gần
gũi, dễ hiểu đối với nhân dân, với mọi người.
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là nền tảng của người cách mạng bởi vì,
theo Người, sự nghiệp cách mạng tiêu diệt xã hội cũ, xây dựng xã hội mới với
những lý tưởng và khát vọng cao đẹp, là một sự nghiệp khổng lồ, đầy gian khổ,
phức tạp, cần một sự phấn đấu không mệt mỏi, sự kiên định, lòng dũng cảm và
hy sinh lớn của nhiều thế hệ cách mạng. Không chăm lo xây dựng đạo đức mới
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, Đảng khó có thể thực hiện được đến cùng

Trang 8


mục tiêu cao cả của cách mạng. Theo cách diễn đạt bình dị của Người, đạo đức
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người, sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Ngay trong những năm kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, khi Đảng đang tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải phóng và
thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đã khái quát và cảnh báo: Một dân tộc, một

đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.[14,tr.367] Chính vì
vậy mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh Đảng phải là đạo đức, là văn
minh[8, tr. 34] và yêu cầu việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức phải là nhân tố có ý
nghĩa quyết định đối với phẩm chất nười cách mạng, người đảng viên.
Nền đạo đức của dân tộc ta bắt đầu hình thành và phát triển mạnh mẽ,
thấm sâu vào đời sống, trở thành một bộ phận hết sức quan trọng khắc họa diện
mạo và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, của Văn hiến Việt Nam hiện đại.
Nó đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và của nhân dân ta trong cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất
cả các dân tộc trên thế giới.
1.1.1 Vai trò của đạo đức cách mạng
Ngay từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý
thức rất rõ về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng. Chính vì lẽ đó, Người
đã dày công giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên và quần chúng nhân
dân. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay
trong tác phẩm: “Đường Kách mệnh”, ở chương đầu tiên Người đã nêu lên 23
điều tư cách của các cán bộ cách mạng, quần chúng nhân dân và thanh niên,
trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong 3 mối quan
hệ: với mình, với người và với việc, đây là tác phẩm đầu tiên Người viết để huấn
luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng nhất định sẽ thành công, đó là một điều
chắc chắn. Nhưng thời gian nhanh hay chậm, mức độ lớn hay nhỏ, thuận lợi hay
khó khăn…tất cả tuỳ thuộc vào đạo đức cách mạng, theo nghĩa đó là nhân tố chủ
Trang 9


quan của con người, là trình độ giác ngộ và ý chí của quần chúng, là yếu tố tinh

thần trong sự nghiệp cách mạng. Báo cáo tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
hai của Đảng lao động Việt nam, Hồ Chí minh nói: “Lực lượng ta và địch so le
nhiều như thế, cho nên lúc đó có người cho rằng: cuộc kháng chiến của ta là
“châu chấu đá voi”. Chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện trạng, chỉ lấy con mắt
hẹp hòi mà xem thì như thế thật. Vì để chống máy bay và đại bác của địch, lúc đó
ta phải dùng gậy tầm vông. Nhưng Đảng ta theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng
ta không những nhìn vào hiện tại mà còn nhìn vào tương lai, và tin chắc vào tinh
thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả
lời những người lừng chừng bi quan kia rằng:
Nay tuy châu chấu đá voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra
Tư tưởng “Người trước, súng sau” trong cách mạng giải phóng dân tộc và
“chiến lược trồng người” trong cách mạng xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh
khẳng định sức mạnh tinh thần, đạo đức của con người, và con người cần đạo
đức, cách mạng rất cần đạo đức. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội
cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm
vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh
mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [2. Tr 29].
Khi đánh giá về vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng:
Đạo đức là mẫu số chung, là thước đo lòng cao thượng của mỗi con người: Tuy
năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm
việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là cao thượng.[5.tr,118]
Đạo đức cách mạng phải là phẩm chất đầu tiên, phải được coi là vấn đề
gốc để giải quyết công việc cách mạng “gánh nặng, đường xa” chống đế quốc,
chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với mỗi
người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người,
như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người nêu: “Cũng như sông thì
có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có


Trang 10


gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [8.tr, 63]
Bên cạnh đó, Người còn nhấn mạnh, đạo đức cách mạng liên quan tới
thành bại của cách mạng. Vì vậy, đạo đức phải được đặt trước tài: “Mọi việc
thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay
không”. “Phải có chính trị trước rồi mới có chuyên môn; chính trị là đức chuyên
môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng…Đức phải có trước tài…” [16, tr 3]
Xác định được tầm quan trọng của vấn đề đạo đức, trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương mẫu mực, thực
hiện triệt để nhất những phẩm chất đạo đức cách mạng. Bác thường nhắc nhở:
“Trước mặt quần chúng , không phải ta cứ viết lên trán chữ “Cộng sản” mà ta
được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu quý những người có tư cách, đạo đức”
[9;tr 322].
Từ những nhận định trên, ta thấy đạo đức cách mạng có vai trò và sức
mạnh vô cùng to lớn. Đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong
mọi thử thách. Người viết “Người có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững
tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”
1.1.2 Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của người Việt Nam
Nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái phổ quát, chứa đựng giá trị
văn hóa của con người thì Người lại nêu ra yếu tố tư cách như là sự biểu hiện của
giá trị cá nhân con người trong mối quan hệ với nhân dân, với đồng chí, với bản
thân mình. Đi sâu nghiên cứu di sản tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta
thấy Bác có những lời dặn dò về những chuẩn mực đạo đức cụ thể cho từng đối
tượng, từ cán bộ, Đảng viên, nông dân, trí thức, công an, bộ đội, cho đến văn

nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, thiếu niên.

Trang 11


Từ những quan niệm phổ quát về đạo đức của con người Việt Nam nói
trên, Hồ Chí Minh đã đi đến làm rõ những chuẩn mực đạo đức của của người
Việt

Nam.
Một là, Trung với nước, hiếu với dân, quyết tâm phấn đấu suốt đời, hy

sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.
Với truyền thống yêu nước sẵn có, dân tộc Việt Nam cũng đã tiếp nhận tư
tưởng trung, hiếu của đạo đức Nho giáo một cách có chọn lọc. Trung, hiếu đã trở
thành một phần tài sản của văn hoá dân tộc, góp phần củng cố và xây dựng nền
độc lập dân tộc.
Hồ Chí Minh không gạt bỏ từ trung, hiếu đã ăn sâu bám rễ trong con
người Việt Nam với ý nghĩa trách nhiệm, bổn phận của người dân, con người.
Với khái niệm cũ, Người đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức cao
rộng hơn, không phải chỉ trung với vua và hiếu với cha mẹ mà là: “trung với
nước, hiếu với dân”.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ đất nước.
Bằng việc chuyển khái niệm trung với vua thành trung với nước, Hồ Chí Minh đã
loại bỏ công cụ thống trị đắc lực của bọn vua chúa phong kiến. Đây là một sự
độc đáo của Hồ Chí Minh trong việc sử dụng khái niệm đạo đức cũ để nói lên
đạo đức mới.
Khái niệm hiếu cũng được bắt nguồn từ đạo đức Nho giáo. Theo Nho
giáo, chữ hiếu áp dụng trong quan hệ gia đình, theo đó con cái phải tôn kính, thờ

phụng cha mẹ, mới là làm tròn đạo hiếu.
Hồ Chí Minh nói: “Đạo đức ngày nay cao rộng hơn, không phải chỉ có
hiếu với cha mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân” [22,tr.558] “Người kiên quyết
cách mạng nhất lại là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu không làm cách
mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị
đế quốc phong kiến giày vò. Mình không những cứu bố mẹ mình mà còn cứu bố
mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa. Phải hiểu chữ hiếu của cách mạng rộng
rãi như vậy” [17, tr.60]
Trang 12


Muốn trung với nước phải hiếu với dân, trung và hiếu gắn bó hữu cơ với
nhau. Vì thương dân, thông cảm với nỗi đau mất nước của dân, Hồ Chí Minh đã
phải xa những người thân của mình để ra đi tìm đường cứu nước. Điều này nói
lên rằng, ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã có quan niệm mới về đạo hiếu.
Theo Hồ Chí Minh, hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện
dân chủ cho người dân. Người đã đặt vấn đề: “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”
“bao nhiêu lợi ích đều vì dân” “Đảng, Chính phủ là “đầy tớ” của dân”.
Tuỳ theo từng đối tượng mà Hồ Chí Minh xác định nội dung trung, hiếu
cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh yêu cầu người đảng viên truớc
hết phải có lòng trung thành với Tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân: “Chính phủ
là công bộc của dân, chính phủ bao giờ cũng phải đặt quyền lợi của dân lên trên
hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức
tránh”[14, tr.22]
Đối với lực lượng quân đội, Hồ Chí Minh cho rằng, “Quân đội ta trung
với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội” [21, tr.350]. Theo Người, quân đội ta là của nhân dân, bộ đội ta là
con em của nhân dân, từ nhân dân mà ra, cho nên phải chiến đấu hy sinh quên
mình vì nhân dân. Trung với nước, hiếu với dân đã tạo nên sức mạnh vô địch của

quân đội ta nên khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Đối với công an nhân dân, Hồ Chí Minh đã khẳng định : “Phải nâng cao
lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, luôn cảnh giác, dũng cảm chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc,
với nhân dân” [22, tr.145]. Trong sáu điều dạy công an nhân dân, có hai điều rất
quan trọng đó là: “Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Với với nhân
dân, phải kính trọng lễ phép” [15, tr.406].
Đối với thanh niên, Hồ Chí Minh yêu cầu: Điều gì phải thì làm cho kỳ
được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ. Trong
thư gửi thanh niên ngày 2-9-1965, Bác căn dặn: “Phải luôn nâng cao chí khí cách

Trang 13


mạng, trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[16, tr.504].
Đối với các thầy cô giáo, “Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn
đức. Đức là đạo đức cách mạng …Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài
cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một
lòng phục vụ nhân dân”[11, tr.329] “Thầy và trò luôn phải nâng cao tinh thần yêu
Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội…tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách
mạng… sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ nào mà mà Đảng và nhân dân giao
cho…”[22, tr.403]
Như vậy, với luận điểm: trung với nước, hiếu với dân, Hồ Chí Minh đã
làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức. Người đã gạt bỏ cái cốt lõi nhất
trong Nho giáo là lòng trung thành tuyệt đối với ông vua phong kiến. Phẩm chất
trung với nước, hiếu với dân được coi là hạt nhân cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Là phẩm chất hàng đầu, quan trọng và bao trùm nhất.
Hai là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Vì sao Hồ Chủ tịch đề ra khẩu hiệu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính?

Vì Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của “đời sống mới”, nền tảng của
Thi đua ái quốc.
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bấn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Từ ngày cách mạng Tháng Tám thành công, lập nền Dân chủ Cộng hòa,
cho đến mấy năm kháng chiến, dân ta nhờ Cần, Kiệm, Liêm, Chính, mà đánh
thắng được giặc lụt, giặc dốt, giặc thực dân và giặc đói. Tuy vậy, đồng bào ta có
người đã hiểu rõ, có người chưa hiểu rõ. Có người thực hành nhiều, có người
thực hành ít. Cho nên cần phải giải thích rõ ràng, để cho mọi người hiểu rõ, mọi
người đều thực hành.
Trang 14


Đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một nội dung của cái
gốc đạo đức, cái gốc của sự phát triển trong triết lý hành động của Hồ Chí Minh.
Người mà nói và viết về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư nhiều nhất, người
mà kêu gọi mọi người thực hành và tự mình “xắn tay áo” lên để thực hành cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư nhiều nhất chính là Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh phân các mối quan hệ của con người thành ba loại: đối với
người, đối với việc, đối với mình. Tôi nghiệm thấy rằng, mối quan hệ tự mình
đối với bản thân mình là khó xử lý nhất. Tự thấy, tự phê bình, tự xử…vẫn là đòi
hỏi bản thân mình nhìn lại mình. Nhìn lại chính mình khó lắm, đánh giá bản thân
mình khó lắm.
Cũng như khái niệm “trung hiếu”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí
Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp
ứng yêu cầu của cách mạng.

Cần
Nói về Cần: “Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm
cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai.
Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi, nước mắt để trả lương cho ta trong những
thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”. Bác yêu cầu mọi người phải cần, cả
nước phải cần, Bác viết:
Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu.
Theo Hồ Chí Minh, cần là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong mọi công
việc. Bác đòi hỏi bản thân mình và mọi người đều cần và cho rằng, từ chủ tịch
nước đến người cấp dưỡng, quét rác, ai mà hoàn thành nhiệm vụ đều là người
cao thượng. Trong các biện pháp kinh tế, Hồ Chí Minh chú ý đến xây dựng kế
hoạch: “Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi

Trang 15


công việc” [15,tr.632], vì công việc bất kỳ to nhỏ, đều có điều nên làm trước,
điều nên làm sau. Nếu không có kế hoạch, điều nên làm trước mà để lại sau, điều
nên làm sau mà đưa làm trước, như thế thì sẽ hao tốn thì giờ, mất công nhiều mà
kết quả ít…Vì vậy, siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau .
Cần không phải là làm rổi. Nếu làm cố chết, cố sống trong một ngày, một
tuần, hay một tháng, đến nổi sinh ốm, phải bỏ việc. Như vậy không phải là cần.
Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời. Nhưng không làm
quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc cho
lâu dài.
Trong quan niệm về Cần của Hồ Chí Minh, ngoài những nội dung trên
đây, tôi thấy có hai điểm đặc sắc:

Một, Cần còn là kiên trì, bền bỉ, dẻo dai trong mọi công việc. Đó là đức
tính kiên tâm, quyết tâm làm bằng được những việc mà mình coi là đúng. Hồ Chí
Minh cả những lúc hòa bình, cả những lúc khẩn trương của chiến tranh, thường
có kế hoạch công việc thật tỷ mỷ và Bác cố gắng hoàn thành theo đúng kế hoạch;
nếu hôm nay chưa xong thì hôm sau phải làm bù trở lại. Kiên trì sẽ không làm
cho người ta nản lòng, nản chí; dù có 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa
vẫn kiên trì đánh đuổi quân xâm lược Mỹ. Làm việc gì thì quyết tâm, kiên nhẫn,
đời này chưa xong thì đời tiếp làm cho xong. Đây là sự thi gan của một đức tính
dẻo dai.
Hai, Cần còn là tăng năng suất lao động, là làm việc có hiệu quả, có kết
quả tốt. Không phải cứ làm hùng hục là siêng năng, tích cực, là Cần. Làm hùng
hục cả tuần, cả tháng mà không có kết quả, không có hiệu quả, không có năng
suất lao động cao thì không bằng làm chỉ có một ngày mà có kết quả tốt. Cái
năng suất lao động quan trọng lắm đối với thành quả lao động của từng cá nhân
và cả xã hội.
Thật ra, xét theo quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội của V.I. Lênin thì
chủ nghĩa xã hội chỉ chiến thắng được chủ nghĩa tư bản ở chỗ có năng suất lao
động xã hội cao hơn.
Kiệm
Trang 16


Kiệm trước hết là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi”[15,tr.636]. Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền
của dân, của nước, của bản thân mình. Người cũng nêu rõ: “tiết kiệm không phải
là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có
việc đáng làm…thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế
mới đúng là kiệm”[15,tr.637]. Thời của Hồ Chí Minh sống và hoạt động, đất
nước Việt Nam còn quá nghèo, hầu như khắp hàng chục năm đất nước phải cầm
súng đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ và giải phóng, thống nhất Tổ quốc. Đó là

những năm tháng gạo châu củi quế, mọi người phải thắt lưng buộc bụng dồn sức
tất cả vì sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Khi đó, tiết kiệm là một chủ trương và
biện pháp hữu hiệu trong mọi hành xử của con người và tổ chức. Những cái gì
liên quan đến cái ăn, nhất là lúa gạo, liên quan đến tiền là phải dè chừng.
Vì thế, Hồ Chí Minh về bản chất đã đành, nhưng do cả thời cuộc nữa, đi
công tác thăm nơi này nơi nọ không muốn ăn cơm ở đó mà tự mình mang cơm
nắm đi ăn, vì Bác ngại nơi đó làm cơm linh đình, mổ gà, giết lợn “khách ba chủ
nhà bảy” vừa bị mang tiếng, vừa hoang phí trong lúc đang nghèo. Bác kêu gọi
mọi người không nấu rượu và làm các loại bánh trái liên quan đến gạo. Bác kêu
gọi mọi người tiết kiệm từng đồ vật, từng mảnh giấy ở công sở và ông là người
gương mẫu thực hành. Bác thường chơi chữ rằng, đừng biến tiết kiệm thành tiết
canh. Tiết kiệm, theo Hồ Chí Minh, còn là tiết kiệm cả thời gian, là ở tăng năng
suất lao động chứ không phải bớt xén thời giờ làm việc.
Hồ Chí Minh tiết kiệm trong ăn, ở, mặc, chi tiêu hằng ngày. Bác vẫn
thường xuyên có sổ tiết kiệm từ dành dụm lương, tiền nhuận bút để mua quà tặng
mọi người, nhất là quà cho các cháu thiếu niên, nhi đồng. Bác là tác giả của “Thịt
Việt Minh”, loại thịt được chế biến là một phần thịt, một phần muối và ớt để đi
công tác đường xa, dùng dần những ngày thiếu thốn, không phiền nhiễu dân,
không tiêu phí đồng tiền của Chính phủ, lại hoà đồng cùng anh em đi cùng.
Trong đối ngoại, Hồ Chí Minh cho rằng, nếu chúng ta “thi” với nhiều
nước về cái giàu sang qua những việc đãi khách, qua xe cộ, qua trang phục của
những cán bộ tiếp khách thì chúng ta thua. Chúng ta không nên thi về những cái

Trang 17


đó, mà nên thi về tiết kiệm; về khoản thi này nếu chúng ta làm tốt thì chúng ta
vẫn thắng.
Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
Cần mà không kiệm, “thì làm chừng nào sào chừng ấy”. Cũng như một cái

thùng không có đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại
hoàn không. Kiệm mà không cần, thì không tăng thêm, không phát triển. Mà vật
gì đã không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không
tiếp tục dổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt.
Liêm
Liêm là trong sạch, không tham lam, là “không tham địa vị, không tham
tiền tài. Không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà
quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học,
ham làm, ham tiến bộ” [15,tr.251-253]
Người đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm như: “cậy quyền thế mà
đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư…Dìm người giỏi để
giữ địa vị và danh tiếng của mình…gặp việc phải mà sự khó nhọc nguy hiểm
không dám làm…”[15,tr.460, 461] Người cũng đã nhắc lại một số ý hay của
Khổng Tử, Mạnh Tử: “Cụ khổng Tử nói: “người mà không liêm, không bằng súc
vật”. Cụ Mạnh Tử nói “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”.
Trong các cuộc đấu tranh thì tự mình đấu tranh với chính mình là điều khó
khăn nhất, tức là con người phải biết chế ngự bản thân mình, thoát khỏi sự ham
hố hàng ngày. Những cái tham thường có của con người được Hồ Chí Minh chỉ
ra: tham tiền của, tham ăn ngon mặc đẹp, nhưng ông còn chỉ ra: tham địa vị,
tham danh tiếng, tham quyền lực để cậy thế làm bậy.
Hồ Chí Minh nghiêm khắc nêu: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những
kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Hồ Chí Minh coi
tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, thứ giặc ở trong lòng, nó nguy
hiểm hơn giặc ngoại xâm. Đây không đơn thuần là cách gọi tên mà liên quan đến
phương pháp xử lý. Nếu chỉ gọi là “nạn”, hoặc “quốc nạn” thì chúng ta chỉ dùng

Trang 18


phương pháp chống nạn và chống quốc nạn. Còn đã gọi là giặc thì đương nhiên

phải dùng phương pháp chống giặc, giết giặc, tiêu diệt giặc.
Do vậy, ở đây không có lối xử lý kiểu hành chính, xử lý nội bộ, mà phải
nghiêm, xử đúng người, đúng tội, đúng luật pháp, không nhẹ trên nặng dưới,
không ô dù bao che. Đã coi đó là giặc thì phải có tinh thần tiến công, có trận
tuyến rõ ràng, chứ không phải mờ mờ ảo ảo, miệng mình thì hô xung phong
nhưng bản thân mình lại kiếm cớ đảo ngũ, thậm chí thậm thụt với giặc để kiếm
chác.
Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất,
mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.
Chính
Bác viết: “Một người phải Cần, Kiệm, nhưng còn phải Chính mới là người
hoàn toàn”. Trên quả đất có hàng muôn triệu người sống, số người ấy có thể chia
thành hai hạng: Người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công nghìn
việc song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà.
Làm việc chính, là người thiện.
Làm việc tà, là người ác.
Siêng năng (cần), tiết kiệm (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện; còn
lười biếng, xa xỉ, tham lam là ác, là tà.
Chính còn có nghĩa là thẳng thắn, là không tà, là việc gì mà tốt thì dù nhỏ
cũng cố làm, việc gì mà xấu thì dù nhỏ cũng cố tránh. Muốn chính thì, như Hồ
Chí Minh viết: “phải có công tâm, có công đức. Chớ đem của công dùng vào việc
tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực,
không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì
phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà
kéo vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sự mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng
hơn mình. Phải trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan
cách mệnh”.

Trang 19



Bất kỳ ở tầng lớp nào, giữ địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, sự hoạt động
của một người trong xã hội có thể chia làm ba mặt: Mình đối với mình; Mình đối
với việc; Mình đối với công việc.
Đối với Mình:
Chớ tự kiêu, tự đại. Tự kiêu, tự đại là khờ dại. Vì mình hay, còn nhiều
người hay hơn mình. Mình giỏi, còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu, tự đại
tức là thoái bộ. Sông to, biển rộng, tức là bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ
lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn,
vì độ lượng nó hẹp hòi. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa
cạn.
Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình
dừng lại thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu.
Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi.
Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc
mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sữa đổi khuyết điểm của mình.
Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình.
Tự mình phải chính trước mới giúp được người khác chính; mình không
chính mà muốn người khác chính là vô lý.
Đối với Người:
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Phải học người và giúp người tiến tới.
Phải thực hành chữ Bác – Aí.
Đối với việc:
Để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn,
không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm.

Trang 20



Bất kỳ việc to, việc nhỏ phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cận
thận, phải quyết làm cho thành công.
Việc thiện thì dù khó mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
Chí công vô tư
Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc”[15,tr.186], “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước…khi
hưởng thụ thì mình nên đi sau”[13,tr.172]. Chí công vô tư là không nghĩ đến
mình trước, là lòng mình chỉ biết vì Tổ quốc, vì đồng bào.
Chí công vô tư thực chất là tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm,
liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại đã chí công vô tư một lòng vì
nước, vì dân thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiêm, liêm, chính .
Căn cứ vào yêu cầu của thực tiễn và đặc điểm của từng ngành, tùng lĩnh
vực công tác, các khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư được Hồ Chí
Minh sử dụng một cách phù hợp.
Đối với người cán bộ, đảng viên, cần kiệm, liêm chính là vô cùng cần thiết
bởi vì: “Cán bộ muốn cho xứng đáng, phải làm được việc. Muốn làm được việc,
thì phải được dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu,
cán bộ phải tự mình làm đúng đời sống mới. Nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm,
trong sạch, chính đáng”[15,tr.208]
Đối với những người làm việc ở các công sở, Hồ Chí Minh yêu cầu phải
giữ đúng cần, kiêm, liêm, chính. Nếu không dễ biến thành sâu mọt của nhân dân:
“Cần - Làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm…Kiệm - Giâý bút, vật
liệu đều tốn tiền của Chính phủ, tức là của dân, ta cần phải tiết kiệm…Liêm những người ở các công sở…phải lấy chữ liêm làm đầu…Chính - Mình là người
làm việc công, phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công vào việc tư…việc
gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư
oán…”[15,tr.104,105]
Đối với bộ đội, cần, kiệm, liêm, chính cũng được xem là đạo đức của
người quân nhân. Khi dặn cán bộ, chiến sĩ chuẩn bị vào tiếp quản thủ đô, Hồ Chí

Minh nói: Muốn giữ vững được nhân cách thì phải luôn thực hiện bốn chữ mà
Trang 21


Bác thường nói, đó là cần, kiệm, liêm, chính. Bộ đội phải “siêng tập luyện…bộ
đội cũng phải tăng gia sản xuất…Tiết kiệm thuốc đạn, bắn cho đúng, không bắn
phí đạn…Tiết kiệm lương thực và vải vóc…Bộ đội có hàng mấy vạn người…
Nếu mỗi người tiết kiệm một chút, sản xuất một chút, góp lại sẽ thành một số rất
to” [15,tr.103,104]
Đối với thanh thiếu niên, trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng nhân dịp
tết sắp đến (1946) Bác khuyên: Các cháu sang năm mới phải xung phong thực
hành “Đời sống mới”, phải siêng học, siêng làm, phải tiết kiệm. Người còn nêu ra
những công việc mà thanh niên kiên quyết phải làm được, đó là:
“Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng
thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước.
Các việc đáng làm thì khó mấy cũng cố chịu, quyết làm cho kỳ được
Ham làm những việc lợi ích quốc dân. Không ham địa vị và công danh
phú quý.
Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc.
Quyết tâm làm gương về mặt: siêng năng, tiết kiệm, trong sạch.
Chớ kiêu ngạo, tự mãn. Nói ít làm nhiều. Thân ái đoàn kết”[15,tr.185]
Đối với các cháu bé, Hồ Chí Minh có lời khuyên:
“Bé thì phải học, lớn thì hành
Với dân, đảng, nước dạ trung thành
Kiệm, cần, dũng cảm và liêm chính
Chớ phụ ông Lương dạy dỗ mình” [13,tr.413]

Trang 22



Đối với phụ nữ, trong Thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp xuân Bính Tuất
1946, Người viết:
“Việc thành là bởi.

Ta chớ tham làm.

Chúng ta siêng mần.

Thế tức là liêm.

Vậy nên chữ cần.

Đã liêm thì khiết.

Ta thực hành trước.

Giữ mình làm việc.

Lại phải kiệm ước.

Quảng đại công bình.

Bỏ thói xa hoa.

Vì nước quên mình.

Tiền của dư ra.

Thế tức là chính…”


Đem làm việc nghĩa.

[14,tr.172]

Thấy của bất nghĩa.

Bồi dưỡng được những phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
sẽ làm cho con người ta vững vàng trước mọi thử thách: “Giàu sang không thể
quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”
[22,tr.558].

Trang 23


Tư tưởng về cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư của Hồ Chí Minh là
một giá trị cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Người, nó có ý nghĩa thời sự đặc
biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay của đất nước ta, khi mà Đảng và Nhà
nước ta đang tập trung đẩy mạnh việc chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí.
Ba là, yêu thương con người, sống có tình nghĩa.
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ, cùng
với việc thể nghiệm của chính bản thân mình qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí
Minh xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất.
Tình yêu thương là tình cảm rộng lớn ở Hồ Chí Minh. Tình yêu thương đó
trước hết giành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc
lột. Tình yêu thương đó đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng ham muốn tột bậc
là làm cho nước được độc lập, dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành. Nếu không có tình yêu thương con người như vậy

thì không thể nói đến cách mạng, không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
Tình yêu thương đó không dừng lại ở trong nước mà Hồ Chí Minh còn
dành cho cả những người cùng khổ trên thế giới. Người thông cảm và đau xót
trước cảnh nhân dân các nước thuộc địa bị bóc lột và đàn áp dã man. Trong tác
phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Hồ Chí Minh đã lên án những tội ác của
chủ nghĩa thực dân đối với các nước thuộc địa. Từ đó, Người kêu gọi tất cả
những ngưòi cùng khổ trên thế giới đoàn kết lại để chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc.
Tình yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh còn phải được thể hiện
trong mối quan hệ bạn bè, đồng chí, với mọi ngưòi xung quanh. Nó đòi hỏi phải
tôn trọng con người, phải biết nâng con người lên chứ không phải hạ thấp, càng
không phải vùi dập con người. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người
ở cương vị lãnh đạo, ở bất cứ cấp nào.

Trang 24


Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: Đối với người cán bộ, đảng viên cần phải có
năm điều: nhân, nghĩa trí, dũng, liêm. Trong đó chữ nhân được Người đặt lên
hàng đầu và được Người giải thích: “Nhân là thật thà yêu thương, hết lòng giúp
đỡ đồng chí và đồng bào”[15,tr.251]. Trong Di chúc Người căn dặn Đảng phải có
tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đối với cán bộ quân đội Người yêu cầu phải
yêu thương các chiến sĩ như anh em ruột thịt…
Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã dành tình yêu thương cho tất cả mọi
người, từ các cụ già đến các cháu nhỏ, từ cán bộ đến công nhân viên, chiến sĩ…
Đối với chiến sĩ, là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Người thường
dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc ân tình, chu đáo nhất. Mùa đông thương
anh em chiến sĩ rét mướt ở rừng núi hay bưng biền, Người đem tấm áo lụa của
mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy tiền mua áo ấm gửi cho các chiến

sĩ…
Phụ nữ và trẻ em cũng là một trong những đối tượng mà Người dành
những tình cảm thương quý đặc biệt. Trong tác phẩm “Bản án chế dộ thực dân
Pháp”, Hồ Chí Minh đã dành một chương để nói về nỗi khổ nhục của người phụ
nữ ở thuộc địa. Đọc lại những dòng mô tả của Nguyễn Ái Quốc mà ta như thấy
những giọt nuớc mắt của Người rơi trên từng trang viết: “Khi bọn thực dân Pháp
đến một làng, tất cả dân chúng chạy trốn cả, chỉ còn hai cụ già, một thiếu nữ và
một thiếu phụ đang cho đứa con mới đẻ bú và tay dắt một em gái lên tám…
những tên khác thay phiên nhau hiếp cô thiếu nữ, người mẹ và đưa con gái nhỏ
của bà. Xong chúng vật ngửa cô thiếu nữ ra, trói lại nhét giẻ vào miệng, rồi một
tên cầm lưỡi lê đâm vào bụng cô, chặt ngón tay cô để lấy chiếc nhẫn và cắt đầu
cô để lột cái vòng cổ…” [12, tr. 109,110]
Nỗi khổ đau như thế cứ chất chồng, đè nặng lên những người dân lương
thiện mà không giấy mực nào kể xiết. Từ sự cảm thông với những nỗi đau ấy,
tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh đã biến thành hành động. Người quyết
đi tìm một con đường để cứu nước, cứu dân.
Tình yêu thương con người, theo Hồ Chí Minh còn được thể hiện đối với
những người có sai lầm, khuyết điểm nhưng đã biết nhận rõ những sai lầm
khuyết điểm và cố gắng sửa chữa, kể cả đối với kẻ thù bị thương, bị bắt hoặc đã
Trang 25


×