Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Towards a strategic framework on climate change and development for the world bank group (vol 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 54 trang )

Public Disclosure Authorized
Public Disclosure Authorized

Public Disclosure Authorized

Public Disclosure Authorized

76429 v2

HƯỚNG TỚI MỘT KHUNG HÀNH ĐỘNG CHIẾN LƯỢC VỀ
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁT TRIỂN
CHO CÁC TỔ CHỨC THUỘC NGÂN HÀNG THẾ GIỚI
BẢN DỰ THẢO LẤY Ý KIẾN

Ngày 27 tháng 3 năm 2008


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AAA
AfDB
AFR
BNPP
C02
CCRIF
CDM
CEA
CEB
CEIF
CF
CFL
CFU


CIF
CODE
COP
CPF
CSD
DEC
EAP
ECA
EE
ESMAP
FCPF
FLEG
GDP
GEF
GFDRR
GHG
GPG
IBRD
IDA
IEA
IEG
IFC
IFI
IGCC
IPCC
ISDR
KAP
LAC
LDCF
MDB

MDG

Hỗ trợ Tư vấn và Phân tích
Ngân hàng Phát triển Châu Phi
Các nước Châu Phi
Chương trình Hợp tác Ngân hàng Hà Lan
Cácboníc
Quỹ Bảo hiểm rủi ro khu vực Caribê
Cơ chế phát triển sạch
Phân tích môi trường vùng
Tóm lược Ban điều phối hợp tác của Liên hợp quốc
Năng lượng sạch cho Khung hành động về Đầu tư Phát triển
Tài chính cácbon
Đèn compắc huỳnh quang
Đơn vị tài chính cácbon
Quỹ Đầu tư Khí hậu
Cam kết về Phát triển Hiệu quả
Hội nghị các bên liên quan
Quỹ Cộng tác về Cácbon
Uỷ ban Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc
Cục Phát triển Kinh tế
Khu vực Đông Á Thái Bình Dương
Khu vực Trung Á và Châu Âu
Hiệu quả năng lượng
Chương trình Hỗ trợ Quản lý Ngành Năng lượng
Quỹ Hợp tác Cácbon liên quan đến rừng
Quản lý và thực thi Luật Lâm nghiệp
Tổng sản phẩm quốc dân
Quỹ Môi trường Toàn cầu
Quỹ Toàn cầu về Giảm thiểu và Phục hồi sau Thảm hoạ

Khí nhà kính
Hàng hoá công cộng toàn cầu
Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển
Hiệp hội Phát triển Quốc tế
Tổ chức Năng lượng Quốc tế
Nhóm đánh giá độc lập
Hợp tác Tài chính Quốc tế
Viện Tài chính Quốc tế
Chu trình lồng ghép khí hoá
Ủy ban Quốc tế về Biến đổi Khí hậu
Chiến lược Quốc tế về Giảm thiểu Thảm hoạ
Chương trình Thích nghi Kiribati
Các nước Châu Mỹ La tinh và Vùng Caribê
Quỹ Các quốc gia kém phát triển
Ngân hàng Phát triển Đa phương
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ

2


MENA
MER
MFI
MIGA
NAPA
NGO
ODA
OECD
OVP
PHRD

PPP
PREM
PROFOR
PSIA
RDB
RE
RE/EE
REDD
SAR
SCCF
SDN
SEA
SFCC
SPA
SSA
TA
TFESSD
UNDP
UNEP
UNFCCC
UNISDR
WB
WBG
WDR
WEF
WRI
WTO

Vùng Bắc Phi và Trung Đông
Tỉ lệ Trao đổi thị trường

Viện Tài chính Đa quốc gia
Đảm bảo đầu tư Đa phương
Chương trình Hành động Quốc gia về Giảm thiểu
Tổ chức Phi chính phủ
Hỗ trợ Phát triển quốc tế
Tổ chức về Hợp tác Kinh tế và Phát triển
Phó Chủ Tịch điều hành
Phát triển Nguồn nhân lực và Chính sách
Bình đẳng trong mua bán năng lượng
Mạng lưới Quản lý Kinh tế và Giảm Đói nghèo
Chương trình về Rừng
Phân tích Tác động Xã hội và Nghèo đói
Ngân hàng Phát triển vùng
Tái lượng có khả năng tái sinh
Hiệu quả Năng lượng và Năng lượng tái tạo
Phát thải từ Thoái hoá và Phá rừng
Vùng Nam Á
Quỹ Biến đổi Khí hậu
Mạng lưới Phát triển Bền vững
Đánh giá Môi trường Chiến lược
Khung Chiến lược về Biến đổi Khí hậu
Ưu tiến chiến lược đối với Quá trình Thực hiện và Thích nghi
Vùng Saharan, Châu Phi
Hỗ trợ Kỹ thuật
Quỹ Uỷ thác về Phát triển Bền vững Xã hội và Môi trường
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
Chương trình Môi trường Liên hợp quốc
Công ước Khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu
Chiến lược Quốc tế về Giảm thiểu thảm hoạ của Liên hợp Quốc
Ngân hàng Thế giới

Các Tổ chức trực thuộc Ngân hàng Thế giới
Báo cáo Phát triển Thế giới
Diễn đàn Kinh tế Thế giới
Viện Tài nguyên Thế giới
Tổ chức Thương mại Thế giới

3


MỤC LỤC
Tóm tắt nội dung: ............................................................................................................... 5
A. Thông tin chung và lý do ............................................................................................. 11
B. Mục tiêu và các nguyên tắc hướng dẫn: ....................................................................... 15
C. Khuôn khổ hành động: Các nguyên tắc chính ............................................................ 18
D. Triển khai Khung Hành động: Các Vấn đề Cơ bản và Phương pháp tiếp cận. ........ 22
Nguyên tắc 1: Mở rộng Hoạt động Tiếp cận nhằm lồng ghép Quá trình Thích nghi và
Giảm thiểu với các Chiến lược Phát triển..................................................................... 22
Nguyên tắc 2: Củng cố các nỗ lực huy động và phân bổ tài chính ............................... 30
Nguyên tắc 3: Mở rộng vai trò của WBG trong phát triển các thị trường mới............ 36
Nguyên tắc 4: Khai thác nguồn lực của khối tư nhân cho phát triến thân thiện với môi
trường ............................................................................................................................ 37
Yếu tố 5: Làm rõ vai trò của WBG trong việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công
nghệ ............................................................................................................................... 38
Nguyên tắc 6: Đẩy mạnh Nghiên cứu Chính sách, quản lý tri thức và xây dựng năng
lực .................................................................................................................................. 40
E. Khung kết quả: ............................................................................................................. 42
G. Kết luận và phản hồi .................................................................................................... 44
H. Nguy cơ ........................................................................................................................ 45
I. Khung thời gian và các mốc quan trọng ...................................................................... 46
PHỤ LỤC 1: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ CÁC KHU VỰC ẢNH HƯỞNG: CÁC RỦI RO,

TÁC ĐỘNG VÀ MỨC PHÁT THẢI ................................................................................. 47
PHỤ LỤC 2: KHUNG HÀNH ĐỘNG CHIẾN LƯỢC VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁT
TRIỂN: CÁC NỘI DUNG CHÍNH CỦA BẢN DỰ THẢO ............................................... 54

4


HƯỚNG TỚI MỘT KHUNG HÀNH ĐỘNG CHIẾN LƯỢC
VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁT TRIỂN
CHO CÁC TỔ CHỨC THUỘC NGÂN HÀNG THẾ GIỚI

Tóm tắt nội dung:
1. Giải quyết vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu là trung tâm của chương trình nghị
sự về giảm đói nghèo và phát triển. Trong báo cáo đánh giá lần thứ tư, Hội đồng liên
Chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC) chỉ rõ rằng khí hậu toàn cầu đang nóng lên và
sự chậm trễ trong việc giảm phát thải khí nhà kính (GHG) sẽ hạn chế các cơ hội đạt
được sự ổn định cao hơn và làm tăng nguy cơ diễn ra những ảnh hưởng nghiêm trọng
do biến đổi khí hậu. Cùng với sự gia tăng về mức độ biến đổi khí hậu và các rủi ro do
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, các quốc gia và cộng đồng nghèo nhất sẽ là những đối
tượng phải chịu các tác động tiêu cực sớm nhất và nặng nề nhất. Biến đổi khí hậu có
thể làm đảo ngược những thành tựu phát triển và gây khó khăn trong quá trình thực
hiện các Mục Tiêu Phát triển Thiên Niên Kỷ như xoá đói giảm nghèo, chống lại các
bệnh truyền nhiễm và đảm bảo bền vững về môi trường. Để đối phó một cách hiệu quả
với biến đổi khí hậu, cần kết hợp giữa việc giảm thiểu - để tránh tình trạng không thể
quản lý được – và thích nghi - để quản lý những rủi ro không thể tránh khỏi.
2. Năm vừa qua là năm chứng kiến sự nhất trí rất cao về tầm quan trọng của việc
giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu như đã được trình bày rất cô đọng trong
thoả thuận về Công ước Khung của Liên Hợp Quốc vế biến đổi khí hậu (UNFCCC) tại
Hội nghị các bên tham gia (COP) 13 tại Bali, là Hội nghị được tổ chức nhằm khởi động
các cuộc đàm phán nhằm đạt được sự hợp tác lâu dài từ tất cả các quốc gia. Khuôn khổ

của các cuộc đàm phán xoay quanh việc giảm nhẹ mức độ biến đổi khí hậu (kể cả việc
lần đầu tiên có xem xét đến việc giảm phát thải khí nhà kính do quá trình phá hủy rừng
và suy thoái đất), các biện pháp thích nghi, chuyển giao và phát triển công nghệ cũng
như cung cấp các nguồn tài chính để hỗ trợ cho các hoạt động ở các nước đang phát
triến. Nếu so với các nước phát triển, các nước đang phát triển có tổng lượng phát thải
khí nhà kính từ trước đến nay và mức tiêu thụ năng lượng trên đầu người thấp hơn song
lại có nguy cơ hứng chịu những tác động do biến đổi khí hậu cao hơn. Do vậy, các
quốc gia đang phát triển hi vọng đạt được các thỏa thuận hợp tác hỗ trợ về tài chính
theo nguyên tắc chung nhưng vẫn trên cơ sở đảm bảo trách nhiệm riêng đối với từng
quốc gia để giúp họ trong quá trình chuyển dịch nhằm đạt được sự tăng trưởng phát
thải ít cácbon mà đồng thời vẫn không làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nhiên liệu,
mục tiêu phát triển và các nỗ lực thích nghi. Điểm quan trọng là những nguồn tài chính
này phải là các nguồn hỗ trợ bổ sung vào nguồn Viện trợ Phát triển chính thức (ODA)
hiện tại để không cạnh tranh với các hoạt động hướng tới đạt được các Mục tiêu Phát
triến Thiên Niên Kỷ (MDGs).
3. Các tổ chức thuộc Ngân hàng Thế giới (WBG) đã tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm trong việc giải quyết biến đổi khí hậu trong bối cảnh phát triển và giảm đói
nghèo, gần đây nhất là thông qua Khung hành động về Năng lượng Sạch cho Đầu tư

5


Phát triển (CEIF) (xem Phụ lục 1). CEIF đã đạt được những kết quả đáng khen ngợi:
cho vay để tiến hành tiếp cận các nguồn năng lượng và các dự án sử dụng nguồn năng
lượng phát thải ít cácbon, và kinh doanh tín chỉ phát thải cácbon đã tăng đáng kể. Nhận
thức ngày càng tăng về những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu được phản ánh trong
Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CASs) và một chương trình ngày càng gia tăng về các báo
cáo phân tích và dự án thí điểm. Hiện đang bắt đầu triển khai các công việc về những
cơ chế đổi mới đối với nguồn ngân sách chi cho khí hậu ở cả hai khía cạnh là giảm
thiểu và thích nghi. WBG là cơ quan thực thi của GEF, vốn là nhà cho vay chính cho

các hoạt động về năng lượng có khả năng tái tạo và hiệu quả sử dụng năng lượng
(RE/EE), một đơn vị tiên phong trong thị trường kinh doanh tín chỉ cácbon và là người
hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc cải cách ngành năng lượng, đưa ra các sáng kiến tiết kiệm
và sử dụng năng lượng có hiệu quả và các hoạt động bảo vệ môi trường tốt hơn.
4. Diễn tiến của CEIF đã dẫn đến nhiệm vụ xây dựng Khung Hành động
Chiến lược về biến đổi khí hậu với sự tham gia của WBG. CEIF là một bước quan
trọng trong việc đẩy nhanh tốc độ đầu tư cho ngành năng lượng phát thải ít carbon
trong khi thúc đẩy nhận thức của WBG về hành động bảo vệ khí hậu bao gồm cả việc
giảm thiểu và thích nghi với sự biến đổi. Tại cuộc họp thường niên năm 2007, Uỷ ban
Phát triển đã hoan nghênh những tiến bộ đạt được trong việc áp dụng CEIF, ghi nhận
tầm quan trọng sống còn của việc tiếp cận năng lượng tới sự phát triển, kêu gọi quản lý
để xây dựng một khung hành động chiến lược có sự tham gia của WBG, bao gồm trợ
giúp nỗ lực của các nước đang phát triển trong việc thích nghi với biến đổi khí hậu và
đạt được mục tiêu phát triển năng lượng phát thải ít carbon trong khi vẫn có thể giảm
đói nghèo. Uỷ ban cũng kêu gọi đề cao hợp tác và sự đồng thuận giữa các đối tác phát
triển khác trong khi thúc đẩy những nguồn lực bổ sung rất quan trọng cả từ nguồn công
và tư nhân.
5. Khung hành động Chiến lược về Biến đổi Khí hậu và Phát triển (SFCCD)
cho WBG sẽ được đề xuất để Ban giám đốc phê duyệt vào tháng 9 năm 2008 và theo đó
sẽ được đem ra thảo luận vào Hội nghị thường niên năm 2008. Bản thảo đầu tiên, nêu
lên mục tiêu, nguyên tắc, cách tiếp cận và các vấn đề cơ bản, sẽ được phát ở cuộc họp
mùa xuân năm 2008 cùng với Báo cáo thực hiện Kế hoạch Hành động về Năng lượng
sạch cho Đầu tư Phát triển kèm theo Báo cáo thực hiện Kế hoạch hành động của WBG.
Đây chính là nền tảng để khởi động Khung hành động chiến lược về biến đổi khí hậu
mang tính toàn diện và đa lĩnh vực.
6. Việc đề xuất SFCCD là cách để làm rõ tầm nhìn của WBG trong quá trình
lồng ghép các vấn đề biến đổi khí hậu với những thách thức phát triển, mà vẫn đảm bảo
không làm giảm hiệu quả của các nỗ lực phát triển và giảm đói nghèo thông qua các
hoạt động cả ở các quốc gia (bao gồm đối thoại chính sách, cho vay và các nghiên cứu
phân tích về các quốc gia khách hàng) cũng như ở cấp địa phương và toàn cầu. SFCCD

sẽ tạo nên khuôn khổ hành động chung, trong đó có chỉ rõ các ưu tiên, phương pháp tổ
chức thực hiện và lộ trình cụ thể cho các hành động (kể cả việc giải quyết các trở ngại
nội bộ) nhằm đạt được kết quả như đã định.
7. Việc mở rộng hoạt động của WGB về biến đổi khí hậu được đề xuất trên cơ

6


sở nắm rõ các nguyên tắc sau: (a) phát triển kinh tế, giảm đói nghèo và đạt được các
Mục tiêu Phát triển Thiên Niên Kỷ tại các quốc gia đang phát triển vẫn là những ưu tiên
chính, (b) tiếp cận với các dịch vụ năng lượng và gia tăng sử dụng năng lượng ở các
quốc gia đang phát triển có ý nghĩa cơ bản đối với việc đạt được những mục tiêu trên,
và (c) việc thích nghi tốt với những biến đổi khí hậu đang diễn ra có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng để có thể duy trì và đẩy mạnh thành tựu phát triển đã đạt được ở đa số các
quốc gia đang phát triển. Giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu không được làm ảnh
hưởng tới việc sử dụng các nguồn tài nguyên cơ bản phục vụ nhu cầu phát triển. WBG
coi đây là những vấn đề trọng yếu nhất và đã chứng tỏ các cam kết của mình bằng việc
cung cấp các nguồn tài chính từ các quỹ của mình nhằm tăng nguồn lực cho Hiệp hội
Phát triển Quốc tế (IDA).
8. WBG sẽ tiếp tục mở rộng các hoạt động đã cam kết của mình về tăng
cường khả năng tiếp cận năng lượng thông qua Kế hoạch Hành động về Cơ sở Hạ
tầng Bền vững (sắp tới) và Kế hoạch Hành động cho Châu Phi. SFCCD sẽ giúp khai
thác những cơ hội liên kết giữa các chương trình tiếp cận năng lượng với các chương
trình về tài chính carbon và cung cấp các giải pháp chi phí - hiệu quả và đáng tin cậy
thông qua các biện pháp sử dụng năng lượng có hiệu quả và năng lượng có khả năng tái
tạo được.
9. Do tính chất đa chiều và đa khu vực của những thách thức, các hoạt
động được đề xuất trong SFCCD sẽ bao trùm lên nhiều lĩnh vực, gồm năng lượng,
giao thông vận tải, phát triển đô thị, tài nguyên nước, nông nghiệp, lâm nghiệp, công
nghiệp, chính sách kinh tế và phát triển xã hội và con người. SFCCD sẽ xác nhận và

giải quyết nhiều khía cạnh tác động tới phát triển do biến đổi khí hậu như kinh tế, tài
chính, xã hội, giới và môi trường (kể cả những tác động có khả năng gây ảnh hưởng tới
các điều kiện môi trường ở cấp toàn cầu khác, ví dụ như đa dạng sinh học).
10. Việc xây dựng SFCCD cũng được định hướng theo các nguyên tắc sau đây:
(a) hỗ trợ quá trình UNFCCC; (b) giữ vai trò trung lập trong các cuộc đàm phán giữa
các bên; (c) trợ giúp các quốc gia đang phát triển quản lý những thách thức mà biến đổi
khí hậu mang lại và xác định được các cơ hội để cải thiện điều kiện khí hậu; (d) coi
biến đổi khí hậu như là một vấn đề phát triển và kinh tế tổng thể thay vì chỉ xem xét nó
như một vấn đề môi trường đơn thuần, điều này đòi hỏi sự tham gia và lãnh đạo của các
bộ chịu trách nhiệm trực tiếp về phát triển và tài chính; (e) hiểu rõ tầm quan trọng của
việc phối hợp hoạt động do trên chính trường quốc tế sẽ có rất nhiều bên liên quan với
các trách nhiệm khác nhau cùng tham gia để giải quyết một vấn đề; và (f) xây dựng
SFDCCF như một phần không thể thiếu trong chiến lược của Ngân hàng Thế giới để
thực hiện toàn cầu hoá một cách toàn diện và vững chắc.
11. Biến đổi khí hậu là thách thức toàn cầu diễn ra trên một quy mô không
thể lường trước nên đòi hỏi phải có sự hợp tác của rất nhiều đối tác phát triển,
như hệ thống Liên Hợp Quốc, GEF, các ngân hàng phát triển khu vực, các nhà tài trợ
song phương, khu vực tư nhân, các viện nghiên cứu và các nhóm xã hội dân sự.

7


SFCCG sẽ quy định chi tiết vai trò và trách nhiệm của những nhân vật cốt cán trên
chính trường quốc tế, định ra vị trí thích hợp mà WBG sẽ đảm nhận cũng như đề xuất
những bước cụ thể để đạt được sự hợp tác bền vững giữa các bên chủ chốt trên cơ sở
cùng nỗ lực và chia sẻ trách nhiệm. Tăng cường hợp tác với GEF trong lĩnh vực hỗ trợ
tài chính cho các vấn đề biến đổi khí hậu sẽ được xem như trọng tâm hành động.
12. Để khai thác thế mạnh tương đối, WBG sẽ thông qua một khung hành động
dựa trên sáu nội dung trụ cột sau đây: (a) tăng cường các biện pháp thực thi để lồng
ghép những hoạt động hướng tới thích nghi với sự biến đổi và các hoạt động hướng tới

giảm nhẹ mức độ biến đổi khí hậu trong các chiến lược phát triển; (b) tăng cường huy
động và phân bổ tài chính; (c) mở rộng vai trò của WBG trong phát triển thị trường
mới; (d) khai thác các nguốn lực từ khu vực tư nhân trong phát triển thân thiện với khí
hậu; (e) làm rõ vai trò của WBG trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển và ứng dụng
công nghệ; (f) tăng cường nghiên cứu chính sách, quản lý tri thức và xây dựng năng
lực.
13. SFCCD xác định rõ tính cần thiết và nhu cầu khác biệt của các nhóm
quốc gia khác nhau dựa trên các tiêu chuẩn: thu nhập (các cách tiếp cận khác nhau với
các quốc gia thuộc Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) và Ngân hàng Tái thiết và Phát
triển Quốc tế (IBRD)), năng lực thực hiện và áp lực xã hội (ví dụ như cần phải có chiến
lược riêng cho các quốc gia không ổn định và đang có xung đột), nguy cơ bị tốn thương
do các rủi ro từ biến đổi khí hậu (đặc biệt liên quan đến các quốc gia châu Phi, các quốc
đảo nhỏ, các nước có bờ biển dài, sức ép về tài nguyên nước và tan chảy các sông
băng), hồ sơ phát thải các khí nhà kính (ví dụ như mức độ phổ biến của việc sử dụng
các nguồn năng lượng từ tài nguyên lâm nghiệp, nguồn phát thải chính khí nhà kính) và
cơ cấu kinh tế cũng như sự phụ thuộc vào ngành năng lượng. Điểm mấu chốt cơ bản
của SFCCD chính là việc đảm bảo được quyền sở hữu quốc gia trên nền tảng chiến
lược về phục hồi các điều kiện khí hậu được thiết kế để đáp ứng nhu cầu cho từng quốc
gia cụ thể trong đó có tận dụng cơ hội phát triển đã thấy rõ ở từng nước nhằm đạt được
cùng lúc nhiều lợi ích khác nhau do việc phát thải ít carbon. Một yếu tố quan trọng nữa,
đó là, phải tạo cơ hội phát triển cho tất cả các quốc gia đang phát triển, kể cả những
nước phải phụ thuộc vào xuất khẩu nhiên liệu (ví dụ như các quốc gia dựa chủ yếu vào
sản xuất dầu lửa).
14. SFCCD sẽ chỉ rõ cách thức khai thác sự phối hợp các nỗ lực chung
trong nội bộ WBG nhằm giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu. Đã bắt đầu triển
khai các hoạt động nhằm xác định rõ các chiến lược cụ thể của từng cơ quan/tổ chức
trong một khung hành động chung. Trong quá trình xây dựng SFCCD, sẽ tiếp tục phát
triển các hoạt đồng này. Cần phải nhấn mạnh rằng, trong SFCCD sẽ xác định rất rõ các
định hướng, nguyên tắc hành động và đề xuất một cách cụ thể các công cụ, sáng kiến
để triển khai, những sản phẩm đầu ra sẽ đạt được ở cấp toàn cầu, cũng như nêu rõ biện

pháp theo dõi quá trình thực hiện trên cơ sở đạt được sự đồng thuận và nhất trí chung
về những thông điệp chính sẽ được truyền đạt tới các khách hàng và các bên liên quan
khác không thuộc nội bộ. SFCCD không phải là khung chiến lược thay thế cho Tập
đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) hay Cơ quan Đảm bảo Đầu tư Đa phương (MIGA) cũng
như các chiến lược kinh doanh cấp vùng và cấp ngành mà nó chỉ xác định một cách cụ

8


thể và chi tiết hơn những hoạt động nhằm lồng ghép các vấn đề về khí hậu vào các hoạt
động và dịch vụ của những tổ chức/cơ chế tài chính được đề cập ở trên.
15. Sự cần thiết phải huy động và cải tiến các cơ chế tài chính phục vụ cho
biến đổi khí hậu nảy sinh từ bài học thực tiễn quan trọng đúc rút từ quá trình
thực thi CEIF. Trong SFCCD, với việc chú trọng tới mở rộng quy mô của các hoạt
động liên quan đến khí hậu thì một lẫn nữa sự cần thiết này lại được khẳng định
mạnh mẽ hơn nữa. Trong quá trình lấy ý kiến các bên liên quan, WGB và các Ngân
hàng Phát triển cấp vùng (RDBs) đang cùng nhau nỗ lực thành lập một danh mục các
Quỹ Đầu tư Khí hậu (CIF). Các quỹ này sẽ bổ xung, xây dựng và tăng cường các hoạt
động của các tổ chức/cơ chế tài chính hiện có như GEF, IDA, IBRD và IFC. Để xây
dựng các đề xuất chi tiết hơn cho các quỹ Đầu tư Khí hậu, WBG sẽ cam kết triển khai
các hoạt đông tham vấn rộng nhằm thu thập ý kiến bình luận của các bên liên quan để
mở rộng danh sách các nhà tài trợ, tìm kiếm quan điểm của các nước nhận viện trợ tiềm
năng cũng như các bên liên quan khác, và cải thiện hơn nữa việc thiết lập các quỹ và
công cụ tài chính. Các sáng kiến khác để gia tăng hỗ trợ tài chính cho hoạt động liên
quan đến khí hậu cũng đang được thảo luận. Là người tiên phong và tạo ra những tiến
bộ đáng kể trong việc cung cấp tài chính cho hoạt động của thị trường tín chỉ carbon,
WBG đang tiếp tục tạo điều kiện để phát triến và cải tiến thị trường carbon.
16. Hướng tới tương lai, SFCCD sẽ xem xét phương án huy động vốn từ
cổ phiếu và vạch rõ các hoạt động bổ sung vào hệ thống các công cụ tài chính có
sẵn và ngày càng gia tăng cũng như phác thảo một kế hoạch hành động nhằm: (a)

thúc đẩy việc sử dụng sáng tạo và hiệu quả những công cụ tài chính đã có hoặc mới
thiết lập trong các hoạt động của WGB như IBRD, IDA, IFC, MIGA, GEF, các quỹ CF,
các sáng kiến về bảo hiểm khí hậu, v.v.; (b) tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng các công
cụ tài chính mới trong phạm vi đã xác định; (c) xác định những hạn chế và nhu cầu
trong việc phát triển các sản phẩm mới, đặc biệt chú ý tới sự hợp tác giữa chính phủ và
tư nhân trong điều chỉnh nguồn tài chính; và (d) tăng cường năng lực của các quốc gia
đang phát triển nhằm sử dụng rộng rãi những công cụ này.
17. Do kiến thức và hiểu biết về biến đổi khí hậu vẫn đang trong giai đoạn
tiếp tục khám phá và còn thiếu chắc chắn, đặc biệt trên khía cạnh kinh tế và xã
hội, nên SFCCD sẽ được thiết kế một cách linh hoạt nhằm kịp thời bổ sung những
hiểu biết mới và hỗ trợ cho các hoạt động mà lợi ích thực tế của nó vẫn sẽ còn tiếp tục
được củng cố và khẳng định trong tương lai do tác động do biến đổi khí hậu cũng như
kết quả của các đàm phán về biến đổi khí hậu. SFCCD sẽ có hiệu quả cao hơn nếu
được phối hợp chặt chẽ với đề xuất “Báo cáo Phát triển Thế giới 2010 về Biến đổi Khí
hậu” và các báo cáo phân tích khác (ví dụ như chương trình nghiên cứu toàn cầu về
kinh tế để thích ứng với biến đổi khí hậu, hay nghiên cứu về chính sách kinh tế và biến
đổi khí hậu trong khuôn khổ PREM cũng như các chương trình nghiên cứu đang được
tiến hành và mở rộng trong khuôn khổ DEC). Những phát hiện có được từ các chương
trình này cũng như các nghiên cứu khác sẽ cung cấp thông tin cho quá trình xây dựng
và thực thi SFCCD.
18. Thông qua thực hiện một quy trình tham vấn rộng, SFCCD sẽ được
xây dựng trên cơ sở các ý kiến góp ý của rất nhiều bên liên quan chính như các

9


khách hàng là các nước đang phát triển, các đối tác phát triển (các cơ quan của Liên
Hợp Quốc, các Ngân hàng Phát triển khu vực, các nhà tài trợ song phương), khối tư
nhân và các tổ chức xã hội dân sự. Trong quá trình xây dựng SFCCD, sẽ đặc biệt quan
tâm tới việc tìm hiểu và nắm rõ các nhu cầu cũng như mối quan tâm của những cố đông

của WBG từ các quốc gia đang phát triển và chứng thực được việc lồng ghép và phản
ánh những quan điểm của các quốc gia này trong khi xây dựng SFCCD .

10


HƯỚNG TỚI MỘT KHUNG HÀNH ĐỘNG CHIẾN LƯỢC
VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁT TRIỂN
CHO CÁC TỔ CHỨC THUỘC NGÂN HÀNG THẾ GIỚI
Biến đổi khí hậu là “một thách thức đối với phát triển, kinh tế và đầu tư”. Nó mở ra
một cơ hội chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xã hội mà có thể sẽ là cơ sở để đạt được toàn
cầu hoá một cách vững chắc và toàn diện. Chính vì thế mà giải quyết các vấn đề biến
đổi khí hậu trở thành nội dung cốt lõi của chương trình nghị sự về phát triển.”
Robert Zoellick
Hội nghị về Biến đổi Khí hậu của LHQ tại Bali, Inđônêxia, Tháng 12 năm 2007

A. Thông tin chung và lý do
1. Biến đối khí hậu thể hiện thách thức cấp thiết đối với sự thịnh vượng của mọi
quốc gia… Trong báo cáo đánh giá lần thứ tư, Hội đồng liên Chính phủ về Biến đổi
Khí hậu (IPCC) chỉ rõ rằng khí hậu toàn cầu đang nóng lên và sự chậm trễ trong việc
giảm phát thải khí nhà kính (GHG) sẽ hạn chế các cơ hội đạt được sự ổn định cao hơn
và làm tăng nguy cơ diễn ra những ảnh hưởng nghiêm trọng do biến đổi khí hậu. Gia
tăng tần xuất và mức độ ác liệt của của hạn hán, lụt và bão, căng thẳng về nguồn nước,
suy giảm năng xuất nông nghiệp và an ninh lương thực, gia tăng mức độ lan truyền và
phổ biến các bệnh liên quan đến nước đặc biệt là tại các vùng nhiệt đới, di dân và
những xung đột diễn ra do tranh chấp các nguồn tài nguyên khan hiếm là những tác
động chính trong số rất nhiều tác động khác nữa do biến đổi khí hậu gây nên. Thế giới
đang phải gánh chịu những ảnh hưởng của biến đối khí hậu như những thay đổi về thời
tiết và các hệ sinh thái. Việc tiếp tục phát thải khí nhà kính với tốc độ như hoặc cao hơn
mức hiện tại chắc chắn sẽ làm cho thế giới ấm hơn nữa.

2…và đặc biệt là các quốc gia nghèo nhất cũng như những người nghèo nhất sống
tại các vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng cao. Trong thập niên 1990, ở các quốc gia đang
phát triển, trung bình mỗi năm có khoảng 200 triệu người phải hứng chịu ảnh hưởng
của các thảm họa liên quan đến khí hậu so với khoảng 1 triệu người bị ảnh hưởng tại
các quốc gia phát triển. Với sự gia tăng biến đổi khí hậu và các nguy cơ của nó, những
quốc gia nghèo và cộng đồng nghèo nhất, đặc biệt ở tiểu vùng Sahara Phi châu và Đông
Nam Á, có thể sẽ phải chịu ảnh hưởng sớm nhất và nặng nề nhất do điều kiện địa lý,
thu nhập thấp và năng lực thể chế hạn chế cũng như sự phụ thuộc cao hơn vào các lĩnh
vực nhạy cảm với khí hậu như nông nghiệp (xem phụ lục 2). Những ảnh hưởng này và hậu quả về chính trị và xã hội - có thể tàn phá nghiêm trọng các quốc gia khan hiếm
tài nguyên nước và các nền văn minh chỉ phát triển được trên cơ sở đảm bảo duy trì
được các nguồn tài nguyên nước như khu vực Trung Đông, và các khu vực được dự
đoán là sẽ xảy ra những thay đổi mạnh mẽ về tính sẵn có của nguồn nước do sự tan
chảy các sông băng, ví dụ như dãy Hymalaya ở châu Á và dãy Andes ở châu Mỹ Latin.
3. Đối phó với biến đổi khí hậu là vấn đề trung tâm của chương trình nghị sự về
phát triển và giảm đói nghèo. Biến đổi khí hậu có khả năng đảo ngược lại những
thành tựu phát triển và quá trình đạt được những Mục Tiêu Phát triển Thiên Niên Kỷ
như xoá đói nghèo, chống lại các bệnh truyền nhiễm và đảm bảo bền vững môi trường

11


mà các quốc gia đang phát triển phải rất nỗ lực mới đạt được trong vòng vài thâp kỷ trở
lại đây. Việc giảm thiểu phát thải các khí nhà kính một cách kịp thời sẽ giúp giảm chi
phí cho việc thích nghi trong tương lai, đặc biệt là gánh nặng đối với các nước nghèo.
Thậm chí ngay cả khi các nỗ lực về ổn định mức phát thải nhà kính có diễn ra thành
công, sự ấm lên toàn cầu và những ảnh hưởng của nó cũng sẽ vẫn diễn ra ở một mức độ
nhất định nào đó trong vài thập kỷ tới. Đối phó hiệu quả với biến đổi khí hậu nghĩa là
phải kết hợp cùng lúc các hoạt động nhằm giảm mức độ biến đối để tránh những vấn đề
không quản lý được và và các hoạt động nhằm thích nghi với sự biến đổi đang diễn ra
để quản lý những vấn đề không tránh được.

4. Giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu là hoạt động có tính khả thi… Một chuỗi
các nghiên cứu chính như Báo cáo đánh giá lần thứ tư IPCC (2007), Báo cáo về các
dòng đầu tư UNFCCC (2007), Viễn cảnh Năng lượng Thế giới của Tổ chức Năng
lượng Quốc tế (IEA) (2007), và báo cáo sắp tới về Viễn cảnh môi trường của Tổ chức
về Hợp tác kinh tế và Phát triển (OECD) đã và đang nâng cao hiểu biết của chúng ta về
tính khả thi và chi phí đối với việc hạn chế phát thải khí nhà kính. Việc ổn định lượng
phát thải khí nhà kính trong mức độ nhất định để có thể kiểm soát được những tác động
của biến đổi khí hậu đòi hỏi hạn mức khí thải nhà kính toàn cầu thông qua các hoạt
động đa phương liên quan đến các chính sách khuyến khích và triển khai ở phạm vi
toàn cầu các công nghệ phát thải ít carbon hiện có và trong tương lai trong các lĩnh vực
như năng lượng, vận tải, xây dựng, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp và quản lý
chất thải. Điều này có nghĩa là các quốc gia phát triển cắt giảm một cách đáng kể lượng
khí thải với mục tiêu cuối cùng là ổn định hoá lượng khí thải về lâu dài. Ước tính chí
phí kinh tế từ các nghiên cứu gần đây dao động từ 3%/năm GDP toàn cầu (IPCC, 2007)
và đến 2050 chi phí hàng năm sẽ chỉ chiếm 0,1%/năm GDP toàn cầu (OECD, 2008).
5…Nhưng vấn đề chính ở đây là ai sẽ phải chi trả và phải chi bao nhiêu. Nghiên
cứu của OECD cũng chỉ ra rằng các quốc gia đang phát triển có thể sẽ đối mặt với thiệt
hại về GDP lớn hơn nhiều so với các quốc gia công nghiệp hoá. Do đóng góp vào tổng
lượng phát thải khí nhà kính ít hơn, tiêu thụ năng lượng trên đầu người thấp hơn nhiều
và có nguy cơ bị tổn thương cao do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, các nước đang
phát triển kỳ vọng vào các hoạt động hợp tác hỗ trợ tài chính cho họ để chuyển hướng
phát triển kinh tế theo hướng phát thải ít cácbon mà vẫn đảm bảo không gây ảnh hưởng
đến khả năng tiếp cận nguồn nhiên liệu, mục tiêu phát triển và nỗ lực thích nghi trong
một khuôn khổ chung song phải phù hợp với các trách nhiệm và năng lực riêng của
từng quốc gia. Ban thư ký của UNFCCC ước tính rằng đến năm 2030 các nguồn hỗ trợ
tài chính cho các quốc gia đang phát triển cần phải đạt khoảng 100 tỷ đôla hàng năm đế
hỗ trợ quá trình giảm thiểu các tác động và khoảng từ 28 tỷ đến 67 tỷ đôla cho quá trình
thích nghi. Điều quan trọng nhất, đó là những nguồn tài chính này phải là nguồn bổ
sung (thêm vào) cho các khoản Hỗ trợ Phát triển Nước ngoài (ODA) ở mức hiện tại để
không xung đột với nỗ lực hướng tới Mục tiêu Phát triến Thiên Niên Ký (MDGs).

6. Năm vừa qua là năm chứng kiến sự nhất trí rất cao về tầm quan trọng của việc
giải quyết các vấn đề về biến đổi khí hậu như đã được trình bày rất cô đọng trong
thoả thuận về Công ước Khung của Liên Hợp Quốc vế biến đổi khí hậu (UNFCCC) tại
Hội nghị các bên tham gia (COP) 13 tại Bali, là Hội nghị được tổ chức nhằm khởi động
các cuộc đàm phán nhằm đạt được sự hợp tác lâu dài từ tất cả các quốc gia. Khuôn khổ
12


của các cuộc đàm phán xoay quanh việc giảm nhẹ mức độ biến đổi khí hậu (kể cả việc
lần đầu tiên có xem xét đến việc giảm phát thải khí nhà kính do quá trình phá hủy rừng
và suy thoái đất), các biện pháp thích nghi, chuyển giao và phát triển công nghệ cũng
như cung cấp các nguồn tài chính để hỗ trợ cho các hoạt động ở các nước đang phát
triến. (xem Hộp 1).
7. WBG đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong việc giải quyết các vấn đề biến
đổi khí hậu trong bối cảnh phát triển và giảm đói nghèo, gần đây nhất là thông
qua CEIF (xem Phụ lục 1). WBG là cơ quan thực thi của GEF, là nhà cho vay chính
đối với các chương trình sử dụng năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả
(RE/EE) cũng như là người tiên phong trong thị trường kinh doanh tín chỉ cácbon và là
người tạo điều kiện cho các cải cách trong lĩnh vực năng lượng, tạo ra động lực tiết
kiệm, sử dụng năng lượng hiệu quả và những thói quen tốt hơn để bảo vệ môi trường.
Nhận thấy nhu cầu cần phải mở rộng các hoạt động liên quan đến đổi khí hậu, cùng lúc
phải tăng khả năng tiếp cận năng lượng cho các quốc gia nghèo, WBG đã xây dựng
CEIF cùng với Kế hoạch Hành động trong năm 2006/2007. CEIF tập trung vào ba lĩnh
vực chính mà WBG liên quan: (a) Năng lượng cho phát triển, đặc biệt chú trọng vào
khả năng tiếp cận với năng lượng của các quốc gia tiểu vùng Sahara châu Phi; (b)
chuyển hướng sang một nền kinh tế phát thải ít carbon hơn; và (c) thích nghi với những
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu.
Hộp 1: Các điểm nổi bật trong kế hoạch hành động tại Bali
Kế hoạch Hành động Bali đã được các nước thành viên của UNFCCC tại COP 13 xây
dựng nhằm tăng cường việc thực hiện công ước và đàm phán về các hành động tiếp

theo cho giai đoạn đến 2012. Trong khi xác nhận lại rằng phát triển kinh tế xã hội và
giảm đói nghèo là các ưu tiên toàn cầu, Kế hoạch Hành động Bali kêu gọi:
• Tăng cường các hoạt động nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của biến đổi khí
hậu:
o Các cam kết hoặc các hoạt động giảm thiểu phù hợp, có khả năng thực hiện và
báo cáo, như các mục tiêu giảm thiểu và hạn chế lượng khí phát thải của các
nước đang phát triển, được thực hiện linh hoạt để phù hợp với đặc điểm của
từng quốc gia.
o Các kế hoạch giảm thiểu phù hợp ở cấp quốc gia của các nước đang phát triển
hướng tới phát triển bền vững được hỗ trợ bởi công nghệ, và có khả năng thực
hiện thông qua xây dựng năng lực và tài chính theo một cách rõ ràng, hợp lý
o Các biện pháp khuyến khích và chính sách liên quan đến giảm thiểu lượng khí
phát thải từ sự phá rừng và thoái hoá đất ở các nước đang phát triển
o Các hoạt động hợp tác giữa các ngành và các hoạt động riêng của từng ngành
cũng như các phương pháp dựa vào thị trường
• Các hoạt động tăng cường nhằm thích nghi với biến đổi khí hậu:
o Các hoạt động quốc tế hỗ trợ thực hiện các kế hoạch hành động về giảm thiểu
o Các chiến lược quản lý và giảm thiểu rủi ro, gồm cơ chế chuyển giao và chia
sẻ các thông tin liên quan đến rủi ro như bảo hiểm
o Các chiến lược giảm nhẹ thiên tai
o Đa dạng hoá nền kinh tế để tăng khả năng phục hồi
• Các hoạt động tăng cường phát triển và chuyển giao công nghệ hỗ trợ cho hoạt động

13


giảm thiểu và thích ứng:
o Các cơ chế hiệu quả nhằm thúc đẩy phát triển và chuyển giao các công nghệ
thân thiện với môi trường cho các nước đang phát triển và đẩy mạnh các hoạt
động triển khai và phố biến

o Hợp tác về nghiên cứu và phát triển các công nghệ hiện có, mới và đổi mới
o Các cơ chế và công cụ trong hợp tác phát triển công nghệ trong từng ngành cụ
thể
• Các hoạt động tăng cường cung cấp nguồn tài chính và đầu tư nhằm hỗ trợ các hoạt
động giảm thiểu và thích ứng:
o Tăng cường tiếp cận các hỗ trợ tài chính bền vững, có thể dự đoán được và
đầy đủ và cung cấp các nguồn tài chính bổ sung như ngân sách từ nhượng
quyền cho các nước đang phát triển
o Khuyến khích các nước đang phát triển chủ động tăng cường các hoạt động về
giảm thiểu và thích nghi
o Các công cụ mới hỗ trợ các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước dễ bị
tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm hỗ trợ về tài chính và
kỹ thuật cho hoạt động xây dựng năng lực
o Khuyến khích thực hiện các hoạt động thích nghi dựa trên các chính sách phát
triển bền vững
o Huy động khối tư nhân và công cộng tài trợ và đầu tư, như tạo điều kiện thuận
lợi cho các lựa chọn thân thiện với cácbon
8. WBG nhận ra rằng giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu không được gây ảnh
hưởng đến việc đảm bảo các nguồn tài nguyên phục vụ nhu cầu phát triển cơ bản.
WBG sẽ tiếp tục tham gia chương trình về tiếp cận năng lượng, và khai thác các cơ hội
để phối hợp nó với một nền tài chính liên quan đến cácbon và cung cấp các giải pháp
đáng tin cậy, mang lại chi phí - hiệu quả cao thông qua các thiết bị sử dụng năng lượng
và tái tạo năng lượng hiệu quả. WBG có vai trò quan trọng - đã chứng minh cam kết
của mình bằng việc cung cấp nguồn tài chính – trong việc tăng các nguồn IDA. Trong
năm 2007, Ngân hàng Thế giới đã xem xét ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới các quốc
gia IDA, làm nổi bật mối liên hệ giữa đói nghèo và nguy cơ bị ảnh hưởng từ thay đổi
khí hậu. Họ cũng nêu ra nhu cầu gia tăng các nguồn trợ cấp phụ vào các nguồn trợ cấp
phát triển cơ bản để đạt được. Mục tiêu Phát triển Thiên Niên Kỷ để trợ giúp các quốc
gia mà (a) chí phí lớn hơn cho quản ly nguy cơ khí hậu và phục hồi tài sản; (b) để thích
ứng trong khung chiến lược phát triển cơ bản. Bài học từ kinh nghiệm của WBG cũng

chứng tỏ rằng quá trình giảm thiểu và thích nghi với thay đổi khí hậu có thể tạo ra sự
kết hợp rõ rệt giữa các ưu tiên phát triển địa phương và đem đến các cơ hội kinh doanh
mới.
9. Diễn tiến của CEIF đã làm nảy sinh nhiệm vụ phải xây dựng Khung Hành động
Chiến lược toàn diện cho WBG. Báo cáo thực hiện Kế hoạch Hành động của CEIF
phát hành vào tháng 9 năm 2007 nhấn mạnh những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực
cho vay trong ngành năng lượng và lưu ý rằng sự tham gia của WBG để hỗ trợ các cơ
hội phát triển năng lượng ít chứa carbon đã được mở rộng ra ngoài lĩnh vực năng lượng
tới các lĩnh vực khác như đô thị, vận tải, công nghiệp (chủ yếu bởi IFC), nông nghiệp

14


và lâm nghiệp. Bản báo cáo cũng chỉ ra sự gia tăng nhu cầu mở rộng các hoạt động của
WBG về thích nghi với biến đổi khí hậu. Tại cuộc họp thường niên năm 2007, Uỷ ban
Phát triển đã hoan nghênh những tiến bộ đạt được trong việc áp dụng CEIF, ghi nhận
tầm quan trọng sống còn của việc tiếp cận năng lượng đối với sự phát triển, kêu gọi
phát triển một khung chiến lược toàn diện cho WBG bao gồm trợ giúp nỗ lực của các
quốc gia đang phát triển trong việc thích nghi với thay đổi khí hậu và đạt được mục tiêu
phát triển năng lượng chứa ít carbon trong khi vẫn có thể giảm đói nghèo. Uỷ ban cũng
kêu gọi đề cao hợp tác và sự đồng thuận với các đối tác phát triển khác trong khi thúc
đẩy những nguồn trợ cấp quan trọng bổ sung từ các nguồn tư nhân và công cộng.

B. Mục tiêu và các nguyên tắc hướng dẫn:
10. Bản đề xuất về SFCCD sẽ là một công cụ để làm rõ tầm nhìn của WBG về việc
làm sao để có thể kết hợp các hoạt động về biến đổi khí hậu với các thách thức phát
triển mà không làm tổn hại đến nỗ lực phát triển và giảm nghèo thông qua các hoạt
động của các quốc gia như đối thoại về chính sách, cho vay tiền và phân tích về cách
quốc gia đang phát triển cũng như thông qua các hành động ở cấp địa phương và toàn
cầu. Việc mở rộng hoạt động của WGB về biến đổi khí hậu được đề xuất trên cơ sở

hiểu rõ rằng (a) phát triển kinh tế, giảm đói nghèo và đạt được Mục tiêu Phát triển
Thiên Niên Kỷ tại các quốc gia đang phát triển vẫn tiếp tục được ưu tiên, (b) tiếp cận
với các dịch vụ năng lượng và gia tăng sử dụng năng lượng từ các quốc gia đang phát
triển có ý nghĩa cơ bản cho những mục tiêu trên, và (c) việc thích nghi với sự biến đổi
khí hậu là vấn đề then chốt để duy trì và đẩy mạnh phát triển ở đa số các quốc gia đang
phát triển.
11. Do tính chất đa chiều và đa khu vực của thách thức, các hoạt động được đề
xuất trong SFCCD sẽ bao trùm nhiều lĩnh vực như năng lượng, giao thông, phát
triển đô thị, nước, nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, chính sách kinh tế và phát
triển xã hội và con người. SFCCD sẽ xác định và tập trung giải quyết nhiều khía cạnh
liên quan đến kinh tế, tài chính, xã hội, giới, và môi trường bao gồm những tác động
lên các điều kiện môi trường toàn cầu khác như đa dạng sinh học thông qua đó sẽ thay
đổi được các ảnh hưởng xấu của khí hậu đến phát triển.
12. Do các hiểu biết về biến đổi khí hậu vẫn đang trong giai đoạn tiếp tục được
khám phá và còn chưa chắc chắn, đặc biệt ở khía cạnh kinh tế và xã hội, SFCCD
sẽ được xây dựng và thực hiện một cách linh hoạt nhằm liên tục cập nhật với những
hiểu biết mới cũng như những lợi ích có được trong tương lai do các hoạt động hỗ trợ
và các cuộc đàm phán liên quan đến biến đổi khí hậu và tác động của các hoạt động,
đàm phán này.Việc xây dựng SFCCD cũng được định hướng theo các nguyên tắc sau
đây: (a) hỗ trợ quá trình UNFCCC; (b) giữ vai trò trung lập trong các cuộc đàm phán
giữa các bên; (c) trợ giúp các quốc gia đang phát triển quản lý những thách thức mà
biến đổi khí hậu mang lại và xác định được các cơ hội để cải thiện điều kiện khí hậu;
(d) coi biến đổi khí hậu như là một vấn đề phát triển và kinh tế tổng thể thay vì chỉ xem
xét nó như một vấn đề môi trường đơn thuần, điều này đòi hỏi sự tham gia và lãnh đạo

15


của các bộ chịu trách nhiệm trực tiếp về phát triển và tài chính 1 ; (e) hiểu rõ tầm quan
trọng của việc phối hợp hoạt động do trên chính trường quốc tế sẽ có rất nhiều bên liên

quan với các trách nhiệm khác nhau cùng tham gia để giải quyết một vấn đề; và (f) xây
dựng SFDCCF như một phần không thể thiếu trong chiến lược của Ngân hàng Thế giới
để thực hiện toàn cầu hoá một cách toàn diện và vững chắc.
13. SFCCD đang được xây dựng dựa trên các đánh giá rộng rãi hơn do WGB thực
hiện về các ưu điểm trong việc đóng vai trò lớn hơn trong hỗ trợ tài chính cho
Hàng hoá Công cộng Toàn cầu (GPGs). Để làm nên điều khác biệt cho GPGs nói
chung và biến đổi khí hậu nói riêng đòi hỏi những nỗ lực chung từ các đối tác phát triển.
Trong hoàn cảnh đó, WBG có một số ưu thế riêng và có thể đóng góp một cách đáng kể
để đạt được mục tiêu và nắm vai trò lãnh đạo trong hàng loạt lĩnh vực trong quá trình
hợp tác với các đối tác khác trong khi xây dựng nhiệm vụ cho các cơ quan khác nhau
thuộc WBG:
• Viễn cảnh đa lĩnh vực. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến đa số các lĩnh vực.
Tương tự như vậy, sự hỗ trợ của WBG trong nỗ lực đối phó với biến đổi khí
hậu hiện diện trong nhiều lĩnh vực phát triển, vì thế tạo thuận lợi cho xu thế
hành động một cách hoà thuận, hợp tác và nhiệt tình.


Nguồn tài chính và khả năng thực hiện. Các khoản cho vay, tín dụng, cũng
như các trợ cấp tài chính khác cho thấy sức mạnh của WBG đối với các cơ
quan tài trợ tiềm năng khác về khả năng sở hữu và năng lực thực hiện các hoạt
động liên quan đến khí hậu trong các dự án phát triển.



Làm việc với khu vực tư nhân. IFC và MIGA đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao nhận thức và sự tham gia của khối tư nhân trong các vấn đề liên
quan đến biến đổi khí hậu thông qua các khoản đầu tư vào việc hỗ trợ quá
trình giảm thiểu và thích nghi như cải tiến công nghệ, vì hệ thống lâm nghiệp
phát triển vững chắc, gia tăng và phát triển việc sử dụng các phương thức bảo
hiểm rủi ro môi trường.




Xây dựng mối quan hệ hợp tác với các cơ quan và nhà tài trợ. WBG có khả
năng xây dựng mối hợp tác đa dạng, từ việc cùng nhau đầu tư các dự án khoa
học đến hợp tác tài chính, theo đó xúc tiến liên kết giữa các đối tác.



Nền tảng hiểu biết và cố vấn chính sách. Các hoạt động phân tích và cố vấn
tại WBG bao gồm một chương trình nghiên cứu đang được thực hiện về biến
đổi khí hậu tạo ra một đóng góp quan trọng vào chiến lược phát triển tại các
nước và các lĩnh vực, và điều này hỗ trợ cho các hoạt động trao đổi và đối phó

1 Cuộc họp đâu tiên của các Bộ trưởng Tài chính và Phát triển về biến đổi khí hậu diễn ra tại Bali tháng
12 năm 2007 cùng với các cuộc đàm phán của UNFCCC. Tại cuộc họp này, đã thừa nhận sự thay đổi khí
hậu và các vấn đề phát triển khác và chỉ ra tầm quan trọng của việc tiếp tục các cuộc đàm thoại giữa các
nhà cung cấp vốn. Một cuộc gặp không chính thức của các Bộ trưởng Thương mại để thảo luận về mối
liên hệ và các vấn đề cơ bản trong trao đổi mậu dịch liên quan đến thay đổi khí hậu cũng đã được tổ chức

16


với biến đổi khí hậu tại một quốc gia.


Sức mạnh tổng lực, tiếp cận toàn cầu, có sự tham gia của địa phương. WBG
hợp tác chặt chẽ với các cơ quan phát triển khác và một loạt các bên liên quan
ở cấp quốc gia. Trong khi các nước đang phát triển là những nước nhạy cảm
với các biến đổi khí hậu thì họ lại coi đó là một vấn đề của các quốc gia giàu

có, vai trò WBG như một bên trung gian và không thiên vị là một thế mạnh
quan trọng của WBG. Thêm vào đó, WBG có những kinh nghiệm đa quốc gia
và các bài học thực tế có thể áp dụng ở các quốc gia thu nhập trung bình đến
các quốc gia thu nhập thấp. Đội ngũ nhân viên của WBG tại các văn phòng tại
các nước có thể chia sẻ kinh nghiệm và hiểu biết của họ với các khách hàng
mỗi ngày.



Sự uỷ thác mạnh mẽ, các chính sách môi trường và xã hội. WBG đảm bảo
chắc chắn rằng mọi hoạt động cho vay (kể cả những hoạt động giảm thiểu và
thích nghi) hợp tác song phương với các cơ quan liên quan về bảo vệ môi
trường và xã hội. Ngân hàng Thế giới đã và đang hoạt động trong vấn đề đối
phó với biến đổi khí hậu trong các bản đánh giá về nguồn nước, nông nghiệp
và các lĩnh vực chủ đạo khác cũng như trong các báo cáo Phân tích Môi
trường tại các Quốc gia (CEAs).

14. Khung Hành động Chiến lược về Biến đổi Khí hậu và Phát triển (SFCCD) cho
WBG sẽ được đề xuất để xin uỷ ban phê chuẩn vào tháng 8 năm 2008 và theo đó
sẽ được đem ra thảo luận tại hội nghị thường niên năm 2008. SFCCD sẽ bao gồm
một khung kết quả, các ưu tiên, cách tiếp cận, phương pháp thực hiện và lộ trình hoạt
động gồm giải quyết những khó khăn, hạn chế nội bộ nhằm đạt được các kết quả (theo
các lĩnh vực và nhóm các quốc gia có nhu cầu), và các sản phẩm chính hưóng tới Hội
nghị COP 15 ở Copenhagen. Bản Ghi nhớ chung sẽ được phân phát vào cuộc họp mùa
xuân năm 2008 cùng với Khung hoạt động về Đầu tư và Phát triển - Báo cáo thực hiện
về Kế hoạch hành động của các tổ chức thuộc Ngân hàng Thế giới, đóng vai trò nền
tảng trong việc khởi động SFCCD.
15. Hướng tới tương lai, việc mới rộng quy mô tiếp cận các dịch vụ năng lượng
mới sẽ được giải quyết trong Kế hoạch Hành động về Cơ sở Hạ tầng Bền vững và
Kế hoạch Hành động Châu Phi. Mặc dù vấn đề tiếp cận sẽ song hành với vấn đề biến

đổi khí hậu, các mối liên hệ và hợp tác sẽ được cân nhắc kỹ lưỡng. Ví dụ, sự lựa chọn
năng lượng có khả năng tái tạo sẽ là một thành tố quan trọng trong các chọn lựa về
nguồn cung cấp điện kể cả trong và ngoài hệ thống đường dây, thu hút nguồn viện trợ
để hỗ trợ cho các chi phí huy động vốn một khi việc này mang lại hiệu quả kinh tế.
Phương án chọn lựa hiệu xuất năng lượng như những dự án liên quan đến Đèn Huỳnh
quang Cô đặc (CFL) và chương trình Thắp sáng Châu Phi của WBG gần đây sẽ tiếp tục
là một công cụ phát triển quan trọng và là một cách để thu hẹp khoảng cách giữa nhu
cầu và khả năng cung cấp năng lượng và phát triến cường độ carbon. SFCCD sẽ đẩy
mạnh việc khám phá các cơ hội liên kết các chương trình tiếp cận năng lượng và hỗ trợ
tài chính carbon trong khi cung cấp các giải pháp tiết kiệm chi phí và đáng tin cậy
thông qua các thiết bị tái chế và tiết kiệm năng lượng.
17


16. SFCCD dự tính tăng cường hợp tác giữa IDA/IBRD, IFC và MIGA trong khi
ghi nhận sự cấp thiết của các phương pháp giải quyết vấn đề khác nhau cho từng
nhóm các khách hàng khác nhau của các cơ quan/tổ chức này. Việc vạch rõ chiến
lược cụ thể cho từng cơ quan và xác định các lĩnh vực hợp tác chủ đạo đã được bắt đầu
và sẽ được mở rộng trong suốt quá trình chuẩn bị. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh
rằng SFCCD được xem như một khung hành động để định ra phương hướng và nguyên
tắc và đề xuất các công cụ, động lực, sản phẩm toàn cầu, các phương pháp giám sát
thực hiện để đạt được sự đồng thuận về các thông điệp quan trọng gửi tới các khách
hàng và các đối tác liên quan bên ngoài. Nó không thay thế cho các chiến lược kinh
doanh tại địa phương và trong từng lĩnh vực cụ thể. Các chiến lược kinh doanh này
đang được xây dựng hoặc lên kế hoạch cụ thể và chi tiết hơn rất nhiều để gắn kết các
hoạt động khí hậu với hoạt động và dịch vụ. Vì thế, SFCCD sẽ được chuẩn bị để cung
cấp một giá trị mới khác biệt tránh lập lại hoặc chồng chéo với các chiến lược trong
từng lĩnh vực khác. Cụ thế SFCCD sẽ tập trung vào các hành động liên quan đến phát
triến và phổ biến công cụ, chia sẻ hiểu biết, tạo ra động lực từ bên trong và năng lực
xây dựng đế giải quyết các ưu tiên liên quan đến vấn đề GDP, phát triến các sản phẩm

tài chính và hơn thế, củng cố hợp tác với các đối tác bên ngoài để đạt được kết quả, xây
dựng một hệ thống giám sát báo cáo thực hiện và ảnh hưởng.
17. SFCCD sẽ được chuẩn bị song song và đem lại hiệu quả cao do phối hợp chặt
chẽ với Báo cáo Phát triển Thế giới 2010 về Biến đổi Khí hậu đã được đề xuất
cùng với hàng loạt các báo cáo phân tích quan trọng khác, ví dụ như một chương
trình nghiên cứu toàn cầu về sự thích nghi của các nền kinh tế với biến đổi khí hậu do
mạng lưới SD chủ trì thực hiện, và công trình nghiên cứu về chính sách kinh tế và biến
đổi khí hậu tại PREM, cùng với các chương trình nghiên cứu đang được tiến hành và
mở rộng tại DEC. Việc khai thác các chương trình này cũng như các nghiên cứu khác
sẽ cung cấp thông tin để xây dựng và thực hiện SFCCD.

C. Khuôn khổ hành động: Các nguyên tắc chính
18. Dựa vào các lợi thế của mình, WBG sẽ đạt được các mục tiêu của SFCCD bằng
cách thông qua một kế hoạch hành động dựa trên sáu nguyên tắc chính:
• Mở rộng các phương pháp tiếp cận nhằm kết hợp các hành động thích
nghi và giảm thiểu trong chiến lược phát triển;
• Củng cố nỗ lực trong việc huy động và phân phối nguồn tài chính;
• Mở rộng vai trò của WBG trong việc phát triển thị trường mới;
• Đề cập đến các nguồn tái đầu tư từ khu vực tư nhân dành cho việc phát
triển các chương trình thân thiện với khí hậu;
• Làm rõ vai trò của WBG trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển và ứng
dụng công nghệ;
• Đẩy nhanh nghiên cứu chính sách, quản lý kiến thức và năng lực xây
dựng;
19. IDA đã nổi lên như một nền tảng thích hợp cho việc gắn kết quá trình thích
ứng với các chương trình phát triển ở tại các quốc gia nghèo (với sự hỗ trợ từ các
nguồn trợ cấp bổ sung và các phương tiện tài chính ưu tiên). Trong việc giải quyết nhu
cầu về năng lực và đầu tư của các nước IDA liên quan đến các tác động của biến đổi
khí hậu, SFCCD sẽ xây dựng dựa trên luận điểm gần đây về IDA và biến đổi khí hậu
18



(xem Hộp 2). Khi các quốc gia thuộc IDA bị ảnh hưởng xấu từ thay đổi khí hậu, một
ưu tiên của WBG là ủng hộ quá trình phát triển bền vững và ổn định tại các quốc gia
này nhằm giải quyết biến đổi khí hậu. Việc này đòi hỏi chính thức hoá việc quản lý các
rủi ro gây ra do biến đổi khí hậu trong các hoạt động và chương trình của IDA, được hỗ
trợ về tài chính và củng cố năng lực xây dựng, bổ sung vào các hỗ trợ phát triển hiện tại.
Các quốc gia thuộc IDA có mức độ tiếp cận với năng lượng thấp và có lượng khí thải
nhà kính cũng ở mức độ thấp, vì vậy mục tiêu tiếp cận với năng lượng phải là ưu tiên
hàng đầu. WBG sẽ ủng hộ các cơ hội giảm thiểu rủi ro tại các quốc gia này bằng các
giải pháp phát triển hai bên cùng có lợi như các thước đo hiệu quả năng lượng, các cách
sử dụng tiết kiệm và đáng tin cậy năng lượng có khả năng tái tạo, tạo thuận lợi cho việc
tiếp cận thị trường carbon. Xa hơn nữa, tình trạng chặt phá rừng và thoái hoá đất là
nguyên nhân chính gây ra khí thải nhà kính tại các quốc gia thuộc IDA cũng như gây ra
các vấn đề ở quy mô địa phương. Các khoản đầu tư cho việc giải quyết các vấn đề trên
có thể mang lại lợi ích phát triển cũng như môi trường.
Hộp 2: Các điểm nổi bật của IDA và bản Báo cáo về Biến đổi Khí hậu
Các quốc gia thuộc IDA là những nước có mức độ tổn thương cao. Các nước IDA cùng
với IBRD-IDA là các nước bị tổn thương nặng nề nhất từ các rủi ro của biến đổi khí
hậu với (a) các hiện tượng thời tiết cực đoan như lũ lụt, hạn hán và bão; (b) tăng mực
nước biển và các vấn đề liên quan tới vùng ven biển; và (c) biến đổi năng suất nông
nghiệp. Hơn nữa, gánh nặng bệnh tật hiện tại ở các nước nghèo như bệnh sốt rét, các
bệnh liên quan đến nguồn nước sẽ càng trở nên nghiêm trọng hơn dưới tác động của
biến đổi khí hậu.
Thích ứng là vấn đề then chốt. Tuy nhiên, không nên theo đuổi đến cùng việc thích
nghi với biến đổi khí hậu, mà coi nó như một công cụ để đáp ứng được các nhu cầu
phát triển của quốc gia IDA
Do các tác động của biến đổi khí hậu, cần có các nguồn tài chính bổ sung để trợ cấp
phát triển hiệu quả. Các quốc gia IDA sẽ cần nguồn tài chính bổ sung chỉ để duy trì các
lợi ích cho sự phát triển của các dự án ở cấp độ ‘không chịu ảnh hưởng của biến đổi khí

hậu’. Sự gia tăng về nợ của IDA được ước tính là từ 600 triệu đô la Mỹ đến 1,9 triệu đô
la Mỹ một năm (ví dụ tăng từ 6-21% từ tổng số nợ năm 2006 của IDA), cho mỗi kịch
bản suy thoái khí hậu theo dự đoán của bản Đánh giá Nghiêm túc về Kinh tế của Biến
đổi khí hậu.
Tiến hành các biện pháp giảm thiểu thông qua các lợi ích của địa phương. Các quốc
gia IDA đóng góp lượng phát thải khí nhà kính thấp nhất do đó, giảm thiểu phát thải
không phải là vấn đề cấp bách về ngắn và trung hạn. Nhưng, các hoạt động giảm thiểu
– như tăng khả năng tiếp cận với năng lượng sạch (như thông qua các dự án vùng) hoặc
các chương trình cải thiện tài chính trong quản lý rừng và đất đai – có thể mang lại các
cơ hội tốt cho các nước IDA, ở cả khía cạnh hỗ trợ phát triển địa phương lẫn giảm thiểu
phát thải khí nhà kính.
Nguồn: IDA và Biến đổi Khí hậu, Ngân hàng Thế giới, 2007
20. Cần chỉ rõ hơn chương trình nghị sự về biến đổi khí hậu, bao gồm cả hai hoạt
động giảm thiểu và thích nghi ở các quốc gia có thu nhập trung bình (MIC).
SFCCD ghi nhận hàng loạt các trường hợp trong khối các quốc gia này liên quan đến
việc cân bằng các ưu tiên giữa viêc thích nghi và các cơ hội hạn chế sử dụng carbon.

19


SFCCD cũng ủng hộ việc hỗ trợ quản lý các rủi ro về khí hậu và quá trình thích nghi tại
các quốc gia trong khối mà có khả năng bị ảnh hưởng cao (ví dụ như các nền kinh tế
phải chịu sự khan hiếm nước tại Trung Đông và Bắc Phi hay các quốc gia châu Mỹ La
Tinh phải đối mặt với sư tan chảy của băng tại dãy Andes và các hiểm họa khí hậu
khác). Cùng lúc đó, SFCCD sẽ đặc biệt quan tâm tới việc phát triển các sản phẩm có
tính cạnh tranh cao để hỗ trợ tài chính cho các dự án đầu tư nhằm giảm thiểu lượng
carbon tại các quốc gia có thu nhập trung bình. Để làm được điều đó, SFCCD thiết lập
CEIF, Kế hoạch Hành động Xây dựng Cơ sở Hạ tầng Bền vững (sắp tới), chiến lược
phát triển đô thị (đang trong thời gian chuẩn bị) và WDR về phát triển không gian.
SFCCD tập trung vào việc tìm ra các sản phẩm cải tiến chung trong IBRD, IFC, MIGA,

CF và các quỹ khí hậu khác mà có thể tăng cường khả năng cạnh tranh của các dịch vụ
tài chính do WBG ở các quốc gia có thu nhập trung bình.
21. Mô hình sử dụng năng lượng ở các nước có thu nhập trung bình rất khác nhau
giữa các nước nghèo hơn và các nước đang tăng trưởng, cũng như tầng lớp trung
lưu giàu có ngày càng tăng. Điều này đặt ra những thử thách mới trong việc lên kế
hoạch cho các chương trình hạn chế sử carbon mà giải quyết được các nhu cầu phát
triển khác nhau. Bên cạnh nhu cầu bảo vệ các nhóm dân số có nguy cơ bị ảnh hưởng
bởi biến đổi khí hậu, một điều cũng quan trọng là phải thấu hiểu kỳ vọng vào khả năng
các hành động giảm thiểu có thể cải thiện tình trạng bất bình đẳng trong 1 quốc gia và
vạch rõ một con đường tiếp cận cho WBG tới vấn đề này trong chiến lược tại các quốc
gia trên.
22. SFCCD cũng sẽ cân nhắc phân tích chi tiết hơn nữa các quốc gia khách hàng
của WBG theo nhu cầu và khả năng của họ trong việc giảm thiểu và thích nghi với
biến đổi khí hậu. Mặc dù các cách tiếp cận khác nhau cho các quốc gia thuộc IDA và
IBRD là cần thiết, nhưng chúng không phản ánh hết được sự khác biệt trong năng lực
và những hạn chế tồn tại trong chính hai nhóm quốc gia này. Hơn thê nữa, các nước với
điều kiên địa lý khác nhau có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi khí hậu khác nhau không phụ
thuộc vào mức độ thu nhập. Việc này ảnh hưởng tới quan điểm của họ trong việc chi
trả cho các nỗ lực phòng chống và giảm thiểu và trong các hoạt động ưu tiên. Trong
hoàn cảnh đó, các mối quan tâm, nguy cơ và các hạn chế ở các quốc gia nhỏ và các
lãnh thổ đảo cần được ghi nhận
23. Các quốc gia không ổn định, bị ảnh hưởng bởi các xung đột phải chịu các nguy
cơ liên quan đến khí hậu. Những quốc gia này đối mặt với với các thử thách đặc biệt
đáng được ghi nhận trong quá trình giảm thiểu và thích nghi với biến đổi khí hậu. Để
tạo ra các sản phẩm kinh doanh có tác dụng tại các quốc gia này, chúng ta cần cân nhắc
tới các hạn chế trong nội bộ quốc gia, khả năng huy động vốn bị giới hạn và nănng lực
yếu để có thể công thức hóa và áp dụng các hành động hướng tới phát triển. Các mối
hiểm họa đặt ra bởi ảnh hưởng của biến đổi khí hậu sẽ bị hạn chế hơn nữa do năng lực
vốn đã yếu kém của họ.
24. SFCCD sẽ nỗ lực giải quyết các nhu cầu cụ thể của từng quốc gia cũng như

xây dựng một nhóm quốc gia có chung một nhu cầu về xây dựng các chiến lược
riêng của mình để đối phó với biến đổi khí hậu. Lấy ví dụ, một số quốc gia sẽ tập
trung vào nhu cầu của họ trong việc phổ biến và hỗ trợ tài chính cho công nghệ sạch.
Một số khác mà phải đối mặt với gánh nặng chính là lụt lội, sa mạc hóa và các ành
20


hưởng của biến đối khí hậu đặc biệt quan tâm đến việc tìm kiếm đủ nguồn tài chính để
thích nghi với các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu. Với nhóm các quốc gia sản
xuất dầu mỏ, sự hỗ trợ cho việc đa dạng hóa nền kinh tế sẽ là chiến lược trọng tâm
trong nỗ lực giúp các quốc gia này đối phó với biến đổi khí hậu. Nhiều quốc gia sẽ phải
đối mặt với hàng loạt vấn đề cùng lúc, và tại hầu hết các quốc gia tồn tại các khác biệt
đáng kể trong các ưu tiên giữa thành thị và nông thôn
25. SFCCD sẽ làm rõ hơn nữa cách thức mà WB, IFC, MIGA có thể củng cố hợp
tác trong việc đối phó với biến đổi khí hậu dựa trên các thế mạnh tương đối của
họ. Để đạt được mục đích này, SFCCD sẽ rút ra các bài học từ CASs chung và các ví
dụ tốt về dự án bao gồm sáng kiến Thắp sáng Châu Phi, hợp tác trong lĩnh vực thủy
điện (như đập Bujagali), một dự án chung của WB, IFC và GEF trong hỗ trợ tài chính
cho năng lượng sạch tại Nam Thái Bình Dương. Khung hành động này cũng sẽ có sự
khác biệt trong cách tiếp cận và trọng tâm giữa các cơ quan này để đáp ứng những nhu
cầu và mối quan tâm đặc biệt của các khách hàng. Lấy ví dụ IFC đang tích cực trong
vai trò lãnh đạo xúc tiến và đáp ứng mối quan tâm ngày càng lớn về các cơ hội kinh
doanh mới trong khu vực tư nhân. Việc này là kết quả của nhu cầu thích nghi và giảm
thiểu tác động của biến đổi khí hậu (xem hộp 3 dưới đây) với một bản tóm lược về tiến
triển IFC đạt được trong biến đổi khí hậu.
Hộp 3: Hướng tới một chiến lược về biến đổi khí hậu IFC
Cách tiếp cận. IFC đang phát triển chiến lược biến đổi khí hậu của riêng mình như một phần trong
chương trình biến đổi khí hậu toàn diện của WBG. Chiến lược này sẽ nằm trong năm tài chính 2009 của
WBG. Cách tiếp cận của IFC sẽ được xây dựng và hỗ trợ các nỗ lực của ngân hàng thế giới nhằm vạch ra
cách chính sách toàn vẹn hơn liên quan đến vấn đề quản lý. Thêm vào đó, IFC sẽ cộng tác với WB,

MIGA, và các cơ quan khác nhằm nâng cao hiệu quả trong trường hợp khả thi.
IFC đề xuất một phương án tiếp cận cân bằng dựa trên nhu cầu song hành với việc ủng hộ các nỗ lực
phát triển kinh tế tại các quốc gia khách hàng cùng lúc giúp đỡ quá trình giảm thiểu và thích nghi với
biến đổi khí hậu toàn cầu. Theo sau các vòng thảo luận tại Bali gần đây xuất hiện những viễn cảnh về
đồng thuận quốc tế mới và kỳ vọng IFC thành một nhà lãnh đạo tư tưởng đối với khu vực tư nhân về
biến đổi khí hậu tại các quốc gia đang phát triển. Biến đổi khí hậu cũng mang đến cho IFC cơ hội mở
rộng hoạt động và ảnh hưởng phát triển của mình.
Vấn đề biến đổi khí hậu được đề xuất là một phần trong các ưu tiên chính của IFC. Trong khi vẫn đang
tiến triển các đặc điểm cơ bản thuộc cách tiếp cận của IFC đến biến đổi khí hậu bao gồm: (i) nâng cao
mức hỗ trợ đầu tư cho RE/EE; (ii) hợp tác để tiến hành các biện pháp giảm thiểu và thích nghi với biến
đổi khí hậu; và (iii) mở rộng tài trợ giảm thiểu carbon. IFCsẽ cân nhắc kỹ hơn nữa (i) vai trò của mình
trong việc thích nghi với biến đổi khí hậu; (ii) kiểm soát các loại khí thải nhà kính trong danh mục của
IFC; và (iii) việc cân nhắc chi phí về phát thải cácbon trong thẩm định dự án. Như một phần trong cách
tiếp cận của mình, IFC sẽ tăng cường hỗ trợ đầu tư và nhắm tới vai trò xúc tiến trong việc tạo điều kiện
thuận lợi cho việc chuyển giao các công nghệ và cách tiếp cận với khu vực tư nhân hợp lý tại các nước
đang phát triển.
IFC đã khởi động hàng loạt sáng kiến trong việc hợp tác với Ngân hàng Thế giới. Lấy ví dụ họ đang
hoàn thành một hệ thống các phương án để đánh giá các khí thải nhà kính của IFC, khởi động các nghiên
cứu về các hoạt động thích nghi. IFC đang thảo luận với Ngân hàng Thế giới về khả năng tiếp cận hiệu
quả cho khu vực tư nhân trong CIFs.
Tiến trình và các bước tiếp theo: một bản báo cáo tóm lược về cách tiếp cận mới của IFC về biến đổi khí
hậu sẽ được đính kèm với lược đồ và sẽ được mang ra các ủy ban trong Hội đồng thảo luận vào ngày 5
và 27 tháng 3 năm 2008. IFC đang hợp tác chặt chẽ với Ngân hàng Thế giới trong việc xây dựng phương

21


pháp thực hiện và sẽ thảo luận với các cổ đông của mình.
Nguồn: IFC.


D. Triển khai Khung Hành động: Các Vấn đề Cơ bản
và Phương pháp tiếp cận.
Nguyên tắc 1: Mở rộng Hoạt động Tiếp cận nhằm lồng ghép Quá trình Thích nghi
và Giảm thiểu với các Chiến lược Phát triển.
26. Quyền sở hữu quốc gia và nhu cầu khách hàng là chìa khóa cho thành công
của nguyên tắc này. Việc cải thiện hiểu biết về mối liên hệ giữa các quá trình “phát
triển-thích nghi-giảm thiểu” và các hành động hỗ trợ mà mang lại nhiều lợi ích là trung
tâm của cách tiếp cận của SFCCD. Trên phương diện rộng, mối liên kết chủ đạo có thể
được tóm tắt như sau. Quản lý hiểm họa khí hậu đóng vai trò quyết định trong việc bảo
tồn và phát triển tại nhiều quốc gia đang phát triển-ngay cả với những biến đổi thời tiết
hiện tại và nhu cầu quản lý thiên tai. Các nỗ lực giảm thiểu thành công của cộng đồng
quốc tế sẽ giảm được gánh nặng thích nghi. Việc thich nghi với các nguy cơ khí hậu
ngày một xấu đi và các phương án chọn lựa nhằm hạn chế lượng carbon thường được
liên hệ với các ưu tiên phát triến quốc gia và các cơ hội kinh doanh năng lượng hiệu
suất cao, năng lượng tái chế, các ngành nghề bền vững và bảo vệ môi trường cũng như
xây dựng khả năng chống chọi với biến đổi khí hậu (xem Hộp 4). Đấy nhanh tốc độ
phát triến kinh tế là cần thiết trong việc tăng cường năng lực thích nghi và tận dụng các
cơ hội kinh doanh việc hạn chế carbon.
27. Hành động liên quan đến khí hậu có thể - và nên – mang lại nhiều lợi ích địa
phương cho các quốc gia đang phát triển về khía cạnh thương mại, phát triển và
môi trường. Bài học kinh nghiệm từ sự tham gia lâu dài của WB và IFC chỉ ra rằng
cách tiếp cận tốt nhất tới đối thoại với khách hàng và chương trình phát triển chống lại
sự biến đổi khí hậu nảy sinh từ sự hỗ trợ lẫn nhau giữa quá trình phát triển, kiểm soát
và thích ứng với bệnh dịch, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và cơ sở hạ tầng. Lợi
ích bao gồm cả thu nhập thêm từ việc quản lý rừng và đất đai; và các cơ hội kinh doanh
đầu tư vào hiệu suất năng lượng, tái tạo năng lượng và các dự án giảm thiểu việc sử
dụng carbon. Phạm trù của các khoản đầu tư vào tiết kiệm chi phí, ủng hộ phát triển
cho hiệu suất năng lượng, tái tạo năng lượng hay đặc biệt chống lại việc tăng giá dầu
thô là thực sự rõ ràng. Điều đó trở thành mục tiêu then chốt cho khu vực mà IFC tăng
cường sự ủng hộ đâu tư của họ cho việc giảm thiểu sử dung carbon. Tập trung của IFC

vào sự biến đổi khí hậu đã được thúc đẩy bởi các đòi hỏi đến từ khu vực kinh tế tư nhân
và mở rộng các cơ hội làm ăn liên quan đến biến đổi khí hậu. Các công cụ hỗ trợ tài
chính mang tính ưu tiên hiện có và mới dành cho cả quá trrình giảm thiểu và gần đây
nhất quá trình thích nghi tạo ra đòn bẩy quan trọng nhất cho nhu cầu khách hàng. Điều
này rõ ràng là từ sự lớn lên mạnh mẽ của công nghệ kinh doanh hỗ trợ giảm thiểu các
bon. Việc đẩy mạnh các mối liên hệ và sự liên quan mang tính hợp tác giữa các chương
trình về sự thích nghi và quản lý bệnh dịch cũng rất quan trọng. WBG có những kỹ
năng mà có thể giúp các quốc gia và các vùng tiên đoán và lên kế hoạch đối phó với
các thiên tai xuất hiên trong tương lai gần ngay cả khi họ đầu tư vào các chiến lược dai
hạn nhằm thích nghi và giảm thiểu nguy cơ.
22


Hộp 4: Hoạt động đối phó với biến đổi khí hậu được xem như một Cơ hội Phát
triển
Sự phát triển ‘có trách nhiệm với khí hậu’ tạo ra các cơ hội cho:
z
Sự đa dạng và sử dụng năng lượng hiệu quả hơn

Các hoạt động kinh doanh và tăng thu nhập mới

Các doanh nghiệp ở nông thôn về năng lượng có khả năng tái tạo (giảm thiểu)
z
Tăng tính ổn định về thu nhập của người dân thành thị để có thể thích nghi với
những rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra
z
Đổi mới công nghệ nhằm tăng tính cạnh tranh
z
Cơ sở hạ tầng có chất lượng cao hơn để có thể chống đỡ được các thảm hoạ liên
quan đến khí hậu

z
Cải thiện chất lượng không khí và giảm sự tác nghẽn
z
Các hoạt động quản lý đất, rừng tốt hơn, cũng mang lại lợi ích cho cộng đông dân
cư địa phương, và có thể đóng góp vào nỗ lực giảm thiểu tác động tiêu cực và thích
nghi với biến đổi khí hậu
z
Cải thiện các quy hoạch và quản lý địa phương có trách nhiệm sẽ mang lại rất
nhiều lợi ích cho cộng đồng dân cư địa phương
28.Các mối liên hệ này và kinh nghiệm của WBG làm rõ tầm quan trọng của các
kế hoạch xây dựng đã được đề xuất nhằm gắn biến đổi khí hậu với phát triển bằng
cách giúp các quôc gia đang phát triển:
• Nhận ra hiểm hoạ về biến đổi khí hậu và nhu cầu quản lý thiên tai trong khi cân
nhắc năng lực xây dựng để đối phó với nhu cầu thích nghi dài hạn; ưu tiên hỗ trợ những
quốc gia có nguy cơ bị ảnh hưởng cao nhất và có năng lực yếu cách quản lý chi phí hiệu quả và không làm tổn thương tới lợi ích ngắn hạn của những nhóm nghèo nhất và
dễ bị ảnh hưởng nhất.
• Tận dụng các cơ hội phát triển việc hạn chế phát thải carbon mang lại lợi ích cho cộng
đồng, doanh nghiệp, nền kinh tế và môi trường. Các cơ hội này có thể được tài trợ bởi
hoạt động tài chính ưu tiên để chi trả cho các chi phí ngày một lớn bao gồm trong cả
lĩnh vực nông nghiệp, ưu tiên cho các can thiệp mang lại hiệu quả kinh tế với tiềm năng
lớn giảm thiêu khí thải nhà kính;
• Xác định và hỗ trợ các chương trình mang lại nhiều lợi ích môi trường và phát
triển cũng như sự liên hệ mạnh mẽ giữa quá trình thích nghi và giảm thiểu đặc biệt
quan trọng trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi và đô thị.
• Tiếp cận với nhượng quyền tài chính ở mức độ cần thiết nhằm nhận được sự hỗ trợ về
công nghệ và xây dựng năng lực, thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư vào dự
án phát triển thân thiện với môi trường (bao gồm cả những khoản đầu tư giúp đa dạng
hoá các nền kinh tế dựa trên xuất khẩu dầu mỏ) thông qua các động lực cải tiến và các
biện pháp thị trường.
29. Tăng cường các chương trình nghị sự mới nhằm lồng ghép các vấn đề về biến đổi


23


khí hậu vào trợ cấp phát triển sẽ đòi hỏi cách tiếp cận lưỡng cực gồm (i) dựa trên các
ưu thế của các mô hình kinh doanh đang tồn tại của WGB như mô hình trợ cấp theo
từng quốc gia và sự tham gia trong các lĩnh vực chi phối bới nhu cầu của khách hàng,
trong khi (ii) phát triển các cách tiếp cận mới và các sản phẩm toàn cầu. Cần phải nhấn
mạnh rằng cách tiếp cận đơn giản để rút lui khỏi các lĩnh vực sử dụng nhiều carbon như
nhiệt điện hay giao thông sẽ phục vụ cho việc đối phó với thay đổi khí hậu hoặc các
vấn đề phát triển. Hỗ trợ công nghệ tiên tiến và hiệu quả hay những lựa chọn bền vững
là cách phát triển được yêu thích hơn. Các quyết định cụ thể cần dựa trên sự cân nhắc
tình hình của một quốc gia. Và có nhiều quốc gia nghèo trong số này phải đối mặt với
tình trạng thiếu năng lượng nghiêm trọng (ví dụ như tại Phi châu)
30. Các nguyên tố cơ bản trong phương thức tiếp cận được đề xuất như sau:
• Thấu hiểu các nhu cầu riêng và vai trò của các quốc gia hay nhóm các quốc gia khác
nhau: trong khi vấn đề trên mang tính toàn cầu, hầu hết các hành động và ảnh hưởng
xảy ra trên quy mô khu vực và địa phương, và một cách áp dụng kiến thức thận trọng ở
phạm vi khu vực (như tại một nước hay địa phương) và ở mức toàn cầu là cần thiết để
xác định những vấn đề này;
•Nhân ra các “chiến thắng nhanh”,ví dụ như cơ hội để giải quyết ngay những vấn đề
thích nghi và giảm thiểu dựa trên sự đánh giá các ưu tiên trong khu vực, các nhu cầu
sẵn có của khách hàng, mức độ tham gia trong từng lĩnh vực được cụ thể hóa trong
CASs và các chương trình kinh doanh tại địa phương hay các công cụ có sẵn;
• Xác định các ưu tiên cho việc phát triển lĩnh vực kinh doanh mới và phạm vi tham gia
để giúp cho các khách hàng vượt qua được các thử thách trong việc trung hòa giữa bảo
vệ khí hậu và các mục tiêu phát triển bền vững trong hoàn cảnh quốc tế không ngừng
thay đổi, cùng lúc đó lưu lại sự chọn lựa và tính liên kết của chương trình trong một
quốc gia.
• Tham gia vào các vấn đề chính sách xã hội trong nội bộ liên hệ với mục tiêu đương

đầu với biến đổi khí hậu, kể cả thông qua đàm thoại giữa các Bộ trưởng Tài chính và
Phát triển;
• Xây dựng sự hợp tác giữa nhà nước và tư nhân tại các quốc gia đang phát triển hay
các khu vực khác mà có mong muốn đầu tư vào các quốc gia này, thấu hiểu nhu cầu
của họ, đẩy mạnh hợp tác giữa nhà nước và tư nhân, chia sẻ kinh nghiệm tốt nhất của
mỗi bên.
• Giải quyết nhu cầu về sản phẩm và công cụ mới bao gồm kiến thức, xây dựng năng
lực và các sản phẩm tài chính tại mức độ quốc gia, khu vực hay toàn cầu và trong việc
hợp tác với tất cả các cơ quan để mở rộng ảnh hưởng; và
• Tăng cường năng lực và kỹ năng – trong nội bộ WBG và giữa các khách hàng - nhằm
phát triển, phổ biến và áp dụng các kiến thức cũng như thể hiện trong chương trình
nghị sự mới

24


Hình 1: Các khoản cho vay của WBG theo khu vực 2 , Năm tài chính 2007.

Giải thích hình vẽ
Các Khoản cho vay của IBRD
Nguồn: Kho hàng Doanh nghiệp (đến 27/01/08); ‘các khoản khác’ bao gồm Quản trị Công cộng & Luật
(21.3%), Giáo dục (3.3%), Tài chính & Phát triển Tư nhân (8.9%), Dịch vụ Sức khỏe và Xã hội (6.9%),
Thông tin và Liên lạc (0.01%).
Các Khoản cho vay của IDA
Nguồn: Kho hàng Doanh nghiệp (đến 27/01/08); ‘các khoản khác’ bao gồm Quản trị Công cộng & Luật
(21.3%), Giáo dục (13.5%), Tài chính & Phát triển Tư nhân (4.0%), Dịch vụ Sức khỏe và Xã hội (15.7%),
Thông tin và Liên lạc (1.2%).
Các khoản Đầu tư của IFC
Nguồn: Báo cáo Thường niên năm 2007 của IFC. ‘Tài chính’ bao gồm thị trường tài chính toàn cầu, tài
chính nội địa, vốn tư nhân từ cổ phần hóa & các quỹ đầu tư. Các khoản khác bao gồm công nghê thông

tin liên lạc, y tế và giáo dục.
Các Khoản Đảm bảo của MIGA
Nguồn: Báo cáo Tài chính năm 2007 của MIGA.
Các khoản cho vay ở khu vực đô thị không được tách thành một mục riêng trong biểu đồ tròn này
(trình bày các hoạt động theo ngành) vì nó được coi là một chủ để chứ không phải là một ngành.

2

25


×