Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Đề cương môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.49 KB, 15 trang )

Câu 1: Cơ sở h/ thành TTHCM (Cơ sở khách quan).
a.Bối cảnh l/sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
* B/cảnh l/ sử VN cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
- Chính quyền triều Nguyễn từng bước khuất phục trước các cuộc x/lược của tư bản Pháp, lần lượt ký các
hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi VN. Cho đến cuối thế kỷ XIX, các cuộc
khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần vương” do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư
tưởng p/kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
- Các cuộc khai thác của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta có sự chuyển biến và phân hóa: giai cấp
công nhân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện, tạo tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước, giải
phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.
- Các “tân thư”, “tân văn”, “tân báo” và ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn
vào làm cho phong trào yêu nước của n/dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản.
- Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc ta, các sĩ phu Nho học có tư tưởng tiến bộ đã tổ chức những
cuộc vận động đ/tranh chống thực dân Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới: Chủ trương cầu ngoại viện, bạo
lực của Phan Bội Châu; chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ” của Phan Chu Trinh; con đường khởi nghĩa anh hùng
của Hoàng Hoa Thám. . . tất cả đều thất bại.Qua đó, đã thúc đẩy NAQ ra đi tìm đường cứu nước mới của nhân dân
VN.
* Bối cảnh quốc tế:
-CNTB trở thành CNĐQ, CNTB xác lập sự thống trị trên phạm vi thế giới. Lúc này không chỉ dừng lại ở sự
áp bức giai cấp trong chính quốc mà đã mở rộng ra sự áp bức đối với các dân tộc khác. Vì thế, cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc không chỉ còn là hành động riêng lẻ nữa mà trở thành cuộc đấu tranh chung của dân tộc thuộc địa
chống ĐQ.
- Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp. Cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc trở thành cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản trên TG.
- Sự thắng lợi của CM tháng 10 Nga, CNXH trở thành hiện thực trên TG, đánh dấu bước chuyển biến lớn
của thời đại. Thời đại quá độ lên CNXH và giúp HCM nhận ra một chân lý của thời đại “Chỉ có CNXH, CNCS mới
giải phóng được các d/tộc bị áp bức và những người lao động trên TG khỏi ách nô lệ”.
b.Những tiền đề tư tưởng – lý luận.
* Giá trị truyền thống của dân tộc VN.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từchủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam; từ tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, lá lành đùm lá


rách trong hoạn nạn khó khăn; từ truyền thống lạc quan yêu đời; từ truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh,
sáng tạo, quý trọng hiền tài, khiêm tốn . .
- Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là dòng chủ lưu chảy suốt chiều dài lịch sử dân
tộc, trở thành chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị tinh thần văn hóa Việt Nam, trở thành đạo lý sống cao cả nhất
của người Việt Nam, là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc
giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành đi tìm đường cứu nước.
* Tinh hoa văn hóa của nhân loạ
- Tiếp thu tư tưởng và văn hóa phương Đông:
+ Nho giáo


+ Phật giáo..
+ Tư tưởng tam dân của Tôn Trung Sơn.
- Tiếp thu tư tưởng và văn hóa phương Tây:
+ Ham mê môn lịch sử Pháp và tìm hiểu cuộc đại cách mạng Pháp năm 1789.
+ Ca ngợi ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập và quyền sống của con người ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập năm
1776 của nước Mỹ.
+ Chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng như Vonte, Monte, Croxo,…
+ Rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp.
* Chủ nghĩa Mác – Lênin
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tư
tưởng của Người cũng góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng
lên giành độc lập, tự do.
- Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin ở Hồ Chí Minh đã diễn ra dựa trên:
- Nền tảng của những tri thức văn hóa tinh túy.
- Mục tiêu cứu nước, giải phóng dân tộc.
- Khả năng độc lập, tự chủ và sáng tạo.
- Quá trình tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin ở Hồ Chí Minh đã diễn rất khó khăn, nhưng chân thành, giản dị.
- Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin từ cảm tính đến lý tính: theo phương pháp mác xít, nắm lấy cái tinh thần, cái
bản chất, vận dụng phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của

cách mạng Việt Nam, không dập khuôn, máy móc, giáo điều.
- Thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến thức và
kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới.

Câu 2: CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS.
a. Bài học từ sự thất bại của con đường cứu nước trước đó:
- Các cuộc đ/tranh giành độc lập cuối TK XIX diễn ra theo hệ tư tưởng p/kiến đều thất bại là do chưa có đường
lối và phương pháp CM đúng đắn
- Các cuộc đấu tranh giành độc lập đầu TK XX: con đường bạo động của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi
hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; con đường của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”;
con đường của Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.
- Con đường của Nguyễn Thái Học theo hệ tư tưởng tư sản, đã chứng tỏ giai cấp tư sản VN không đảm đương
được sứ mệnh dân tộc.
HCM sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân phải chịu cảnh lầm than,
HCM được chứng kiến phong trào cứu nước của ông cha Người nhận thấy con đường ấy đều mang nặng cốt cách
phong kiến. Người khâm phục tinh thần cách mạng của cha ông, nhưng không tán thành con đường CM của họ.
Người xuất ngoại, đến nhiều quốc gia trên TG để tìm một con đường cứu nước mới.
b. Cách mạng tư sản là không triệt để:


Người đọc Tuyên ngôn độc lâp của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng Tư sản Mỹ, đọc tuyên
ngôn dân quyền và nhân quyền của CM Pháp, tìm hiểu CMTS Pháp. Người nhận thấy: “Cách mệnh Pháp cũng như
cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong
thì tước lục c/nông, ngoài thì áp bức thuộc địa”. Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường CMTS
c. Con đường giải phóng dân tộc:
- HCM thấy được CM tháng 10 Nga không chỉ là một cuộc CM vô sản, mà còn là một cuộc CM giải phóng
dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải phóng các dân tộc thuộc địa và “Mở ra trước mắt họ thời đại CM chống
đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
- Người hoàn toàn tin theo Lênin và quốc tế III vì đã bênh vực cho các dân tộc bị áp bức. Người thấy trong lý

luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: Con đường CMVS.
Ý nghĩa :Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sỹ phu và của các nhà CM có xu hướng tư sản đương thời,
HCM đã đến với học thuyết CM của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường CMVS” chỉ có
CNXH, Chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ.
Câu 3: Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi
trứơc cách mạng vô sản ở chính quốc.
a. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
* Sức sống của chủ nghĩa tư bản chủ yếu tập trung ở các nước thuộc địa
- HCM nhận thấy sự tồn tại và phát triển của CNTB là dựa trên sự bóc lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân
dân các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp chặt chẽ với các
cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa thì mới tiêu diệt được hoàn toàn CNTB.
- Hơn nữa, theo đánh giá của HCM trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa sự tồn tại, phát triển của CNTB chủ yếu
dựa vào việc bóc lột nhân dân các nước thuộc địa.Vi vậy, cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc trước kia chẳng khác
nào đánh rắn đằng đuôi.
* Khả năng cách mạng to lớn của nhân dân các dân tộc thuộc địa.
- Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cách mạng thuộc địa có tầm quan trọng
đặc biệt. Trong đó, nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn.
- Chính sách khai thác thuộc địa hết sức tàn bạo của CNĐQ là mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với CNĐQ
ngày càng gay gắt. Vì vậy, mà tiềm năng cách mạng của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn.
- Trong khi yêu cầu Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản quan tâm đến cách mạng thuộc địa HCM vẫn khẳng
định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực tự giải phóng
* Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập
- Người đánh giá cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân. Người chủ trương phát huy
nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.“Một dân tộc không tự lực
cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
- Tinh thần yêu nước và Chủ nghĩa dân tộc của các dân tộc thuộc địa là một sức mạnh tiềm ẩn của cách mạng
giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu được Chủ nghĩa Mác – Lênin giác ngộ và soi đường thì CMGPDT ở các nước
thuộc địa sẽ có một sức bật rất lớn và có khả năng chủ động cao so với CMVS ở chính quốc.

b. Quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc


- Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình dung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phog
trào cách mạng ở thuộc địa. Hồ Chí Minh đã phê phán và chỉ ra sai lầm của quan điểm đó.
- Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc hay quan hệ chính - phụ.
Năm 1925 Người viết, “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và
một cái vời khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp
tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
- Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho
rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước và giúp đỡ cách mạng vô sản ở chính
quốc.
Bởi vì “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược
thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở thuộc địa”, và “Ngày mà hàng trăm nhân dân châu Á bị tàn
sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực
lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ
có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Ý nghĩa :Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận thực tiễn và lý luận to lớn; một cống hiến quan trọng
vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên
toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Câu 4: XD Nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm chủ của Nhân dân.
HCM có quan điểm nhất quán về xây dựng 1 nhà nước mới ở VN, đó là nhà nước do nhân dân lao động làm
chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của HCM về xây dựng nhà nước VN dân chủ cộng hòa cho người sáng lập. Quan
điểm đó xuyên suốt và có tính chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của nhà nước cách mạng ở Việt
Nam.
a. Nhà nước của dân

- Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều
thuộc về nhân dân. Quan điểm trên được thể hiện qua hai bản Hiến pháp mà Người đã lãnh đạo soạn thảo trong suốt
24 năm làm Chủ tịch nước là Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959.
- Nhân dân làm chủ Nhà nước tức là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước. Nhân dân có bầu ra các đại biểu,
ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời, nhân dân cũng có
quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân dân.
- Người cũng nêu lên quan điểm Dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác định vị thế của dân,
còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ của dân. Do đó, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc
của đất nước.
Trong nhà nước của dân, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật
không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để
thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là công bộc
của dân.
b. Nhà nước do dân


- Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra, do dân ủng
hộ, đóng thuế để hoạt động... Do đó, khi cơ quan Nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì
có quyền bãi miễn nó. Tuy nhiên, quyền lợi, quyền hạn của nhân dân bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ
của người công dân.
- HCM quan niệm phải xây dựng Nhà nước Việt Nam mới hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước do nhân dân tạo ra và
quản lý ở chỗ:
+ Toàn bộ công dân bàu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập
pháp.
+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ.
+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành pháp Nhà nước cao nhất, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp
hành p/luật.
+ Mọi công việc của bộ máy Nhà nước trong việc quản lý XH đều thực hiện ý chí của dân
c. Nhà nước vì dân

- Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vị lợi ích của nhân
dân, ngoài ra không có bất cứ lợi ích nào khác. Đồng thời, cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu cử,
được nhân dân thừa ủy quyền và cũng là người lãnh đạo, hướng dẫn của nhân dân.
- Nhà nước đó là một Nhà nước trong sạch, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm
chính. Phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học hành. Cán bộ nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
- Cán bộ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính...., là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người,
sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài....Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài. Cán bộ là
đầy tờ của dân chứ không phải là làm quan phát tài.
Ý nghĩa: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước của dân , do dân, vì dân có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, sâu
sắc định hướng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới ở VN. Học tập và quán triệt tư tưởng này để xây dựng được 1
nhà nước ngang tầm với nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới là vô cùng quan trọng
Câu 5: Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Đề cập các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và của
phong trào công nhân châu Âu, Lênin nêu hai yếu tố, đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân.
- Khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố là chủ nghĩa Mác – Lênin và
phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước. Đây là một quan điểm
quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam.
- Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với quá trình hình thành của Đảng Cộng
sản Việt Nam.Đồng thời Người cũng đánh giá rất cao vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhưng Người nêu
thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt
Nam là vì:
+ Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Là giá trị văn
hoá trường tồn trong văn hoá Việt Nam.
+ Phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào đó đếu có mục tiêu chung: giải
phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào yêu
nước có trước phong trào công nhân, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó nó lại là phong trào yêu nước.



+ Phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến
phong trào nông dân. Do đó giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ mật thiết với nhau.
+ Phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính những người này trở thành những yếu nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ý nghĩa: HCM là người sáng lập ra ĐCSVN và cũng là người trực tiếp lãnh đạo, rèn luyện ĐCSVN. Sự ra đời của
ĐCSVN là một sự sáng tạo to lớn của HCM phù hợp với thực tiễn CMVN đồng thời cũng đóng góp vào kho tang lý
luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin.
Câu 6: Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
- HCM khẳng định: ĐCSVN là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang
bản chất giai cấp công nhân.
- Nội dung quyết định bản chất g/cấp công nhân của Đảng là:
+ Mục tiêu của Đảng cần đạt tới CNVS
+ Nền tảng tư tưởng của Đảng: là Chủ nghĩa Mác–Lênin
+ Đường lối của Đảng: vì độc lập tự do và CNXH, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.
+ Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng: Đảng tuân thủ một cách nghiêm túc, chặt chẽ nhưng nguyên tắc XD Đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản.
- Từ việc xác định quy luật hình thành của ĐCSVN, Người nhiều lần khẳng định Đảng còn là đảng của dân tộc
VN.
+ Trong báo cáo chính trị tại Đại hội II (2/1951), HCM khi nêu lên Đảng ta còn là Đảng của nhân dân lao động và
của toàn dân tộc, Người nêu lên toàn bộ cơ sở lý luận và các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng mà những nguyên
tắc này tuân thủ một cách chặt chẽ thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản của Lênin.
+ Năm 1961, Bác viết: “Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc không thiên tư, thiên
vị”
+ Năm 1965, HCM khẳng định lại: Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của
nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Từ quy luật hình thành và phát triển đảng, HCM đã đi đến luận điểm ĐCSVN là Đảng của giai cấp công nhân
đồng thời là Đảng của cả dân tộc Việt Nam. Đảng là đội tiền phong của đạo quân vô sản, Đảng tập hợp vào hàng
ngũ của mình những người “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và quốc tế cộng sản… dám hy sinh
phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận của Đảng”.

Cách diễn đạt của HCM về bản chất giai cấp công nhân của Đảng xét về mặt ngôn từ có chỗ khác nhau nhưng
thực chất Người luôn khẳng định tính chất giai cấp công nhân của ĐCSVN.
Điều này thể hiện:
- Về tính giai cấp công nhân
+ Đảng tổ chức và sinh hoạt theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
+ Đảng đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội
+ Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân.
- Về tính dân tộc của Đảng


+ Đảng đại diện và tiêu biểu cho lợi ích của toàn dân tộc, hoạt động của Đảng là nhằm đem lại lợi ích cho toàn thể
dân tộc. Hồ Chí Minh viết: “ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”.
+ Cơ sở xã hội của Đảng rất rộng lớn cả dân tộc bao gồm cả quốc dân, trừ bọ phản quốc và tham ô ra ngoài+ Đảng
viên của Đảng bao gồm những người Việt Nam yêu nước, những người con ưu tú của dân tộc.
+ Thành phần xuất thân của đảng viên rất đa dạng: công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản…
Ý nghĩa: Quan niệm của HCM về bản chất ĐCSVN có ý nghĩa to lớn đối với CMVN. Đã tập hợp được sức mạnh
dại đoàn kết toàn dân tộc để tạo ra 1 sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng thời cũng quy
tụ vào trong tổ chức Đảng những người con ưu tú nhất của dân tộc VN đảm đương được sứ mệnh của mình, dẫn dắt
cả dân tộc VN đạt được nhiều thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc đổi
mới đất nước.
Câu 7: Quan niệm về Đảng Cộng sản VN cầm quyền.
* Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền trở thành đảng cầm quyền
- Qua những năm tháng thực tiễn tìm tòi học hỏi, nghiên cứu lý luận, HCM đã tìm thấy con đường cách mạng
ở chủ nghĩa Mác – Lênin và quyết định đi theo con đường của cách mạng tháng Mười vĩ đại. HCM người cộng sản
đầu tiên của VN đã sớm xác định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng
VN.
- Từ lý tưởng cao cả ấy, HCM thấy cần phải có một đảng lãnh đạo phong trào cách mạng để thực hiện mục tiêu
trên. Chính vì vậy, từ những năm 1920 trở đi, Người tích cực chuẩn bị cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức để
tiến tới thành lập Đảng, HCM nhất quán cho rằng cách mạng VN muốn thành công phải đi theo chủ nghĩa Mác –

Lênin.
- Đảng CSVN là Đảng CM chân chính, mang bản chất của giai cấp công nhân. Đảng không bao giờ “hy sinh
quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho giai cấp khác”. Đảng dìu dắt giai cấp vô sản, lãnh đạo giai cấp vô
sản, lãnh đạo cách mạng VN là để đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc. Đảng là “tận tâm”, “tận
lực”, “phụng sự” và “trung thành” với lợi ích của dân tộc VN, Đảng không còn lợi ích nào khác.
- Chỉ có một Đảng như thế mới có thể đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, phồn vinh
cho đất nước và đưa cả nước đi lên CNXH.
- Với đường lối chính trị đúng đắn, tổ chức chặt chẽ, Đảng đã lãnh đạo toàn thể dân tộc giành chính quyền,
thành lập nước VN trở thành Đảng cầm quyền.
- Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng VN qua 2 thời kỳ: từ năm 1930 đến năm 1945 là thời kỳ chưa giành được
chính quyền; từ năm 1945 đến nay là thời kỳ Đảng lãnh đạo nhân dân xóa bỏ được chính quyền thực dân phong kiến
để xây dựng chính quyền nhân dân, để trở thành Đảng cầm quyền.
* Quan niệm của HCM về Đảng cầm quyền.
“Đảng cầm quyền” là khái niệm khoa học dùng trong khoa học chính trị, chỉ đạo một đảng chính trị đại diện
cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của
giai cấp mình.
- Theo HCM, Đảng cầm quyền là Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong điều kiện Đảng đã lãnh
đạo quần chúng nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp
tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
- Phương thức lãnh đạo, công tác chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận động tổ chức quần chúng vào
đấu tranh giành chính quyền.


- Theo HCM, bản chất của Đảng không thay đổi. Mục đích, lý tưởng của Đảng vẫn là giải phóng giai cấp, triệt
để giải phóng con người, xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân và tiến lên CNXH. Với chủ tích HCM, “Độc lập
– Tự do – Hạnh phúc” là bản chất của CNXH. Đó là điểm xuất phát để xây dựng Đảng ta xứng đáng với danh hiệu
“Đảng cầm quyền”.
Đó là một điển hình mẫu mực về mối quan hệ gần gũi, thân thiết hiếm có giữa lãnh tụ với quần chúng, ngay ở
những giây phút lịch sử trang trọng nhất
Hai là, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải đi đúng đường lối quần chúng, đồng thời bản thân

Người nêu cao tấm gương về lòng yêu mến và tin tưởng rất mực vào khả năng và sức mạnh của nhân dân. Bác nói:
"Nước lấy dân làm gốc", "Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Bác thường xuyên căn
dặn các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải coi trọng mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, và phải thể hiện tinh
thần phụ trách trước nhân dân.
Ba là, cán bộ, đảng viên phải biết phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của tập thể, lợi ích của nhân dân. Bác nói: "Bao
nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng... Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào
không phù hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại...".
Bốn là, Hồ Chí Minh thường yêu cầu cán bộ, đảng viên “phải từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng".
Người đã nhiều lần phê phán tệ xa rời quần chúng, lên mặt "làm quan cách mạng”, "quan nhân dân”, không thấy
mình là đày tớ, người học trò của nhân dân. Bác đã nêu ra một quan điểm rất rõ: Không phải cứ viết lên trán hai chữ
"cộng sản" thì đương nhiên sẽ được mọi người quý trọng. Quần chúng nhân dân chỉ quý trọng những người có đức,
có tài, hết lòng phụng sự nhân dân.Phải yêu dân, kính dân thì dân mới dành sự yêu kính cho mình.
2. Phong cách dân chủ
Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể, phát huy
sức mạnh của tập thể, nhận trách nhiệm cá nhân và hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và tuyệt đối tuân
thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Trước hết, theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên phải gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong
tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng thời tinh thần ấy cũng thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của Người.
Hồ Chí Minh không bao giờ đặt mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, mà luôn luôn tranh
thủ bàn bạc với tập thể Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chính phủ và Quốc hội, khi cần thiết, triệu tập cả Hội nghị
chính trị đặc biệt - một hình thức “Diên Hồng” của thời đại mới - để xin ý kiến các đại biểu quốc dân.
Thứ hai, là phải mở rộng dân chủ đề phát huy sức mạnh của tập thể. Người thường nói: Đề ra công việc, đẻ ra
nghị quyết, không khó, vấn đề là thực hiện nó. Ai thực hiện? - Tập thể, quần chúng. Vì vậy, có dân chủ, bàn bạc tập
thể mới cùng thông suốt, nhất trí, mới cùng quyết tâm thực hiện, tránh được "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". Sở
dĩ xảy ra mất đoàn kết vì người đứng đầu ở nơi đó còn chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ quan, trong hội nghị thì
mọi người miễn cưỡng đồng tình, sau hội nghị, nếu đã không thông thì sẽ không quyết tâm thực hiện. Vì vậy, Người
yêu cầu: "Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình". "Có dân chủ mới làm cho
cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến"; "thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn". Bản thân Người là tấm gương mẫu mực về thực hành dân chủ.
Thứ ba, là nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và tuyệt đối tuân thủ

nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Là người đứng đầu Đảng cầm quyền, đứng đầu
Nhà nước, nhưng Hồ Chí Minh thường xuyên có phong cách làm việc tập thể và dân chủ. Người giải thích: "Tập thể
lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách, tức là tập trung.Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập
trung”.
3. Phong cách nêu gương


Theo Hồ Chí Minh, nêu gương thì trước hết phải làm gương trong mọi công việc từ nhỏ đến lớn, thể hiện
thường xuyên, về mọi mặt, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, nói phải đi đôi với làm.
Trước hết, cần nêu gương trên ba mối quan hệ đối với mình, đối với người, đối với việc. Đối với mình phải
không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo mà luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa
đổi điều dở của bản thân, phải tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày; đối với người, luôn giữ thái độ chân thành,
khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng; đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào
phải giữ nguyên tắc "dĩ công vi thượng" (để việc công lên trên, lên trước việc tư).
Thứ hai, muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đầy
gian khổ, hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là một tấm gương đạo đức mẫu mực cho mọi người học tập và noi
theo, ở Người đã đạt tới sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, đạt
tới sự nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức vĩ nhân và đạo đức đời thường. Khi địa vị càng cao, uy tín
càng lớn, Hồ Chí Minh càng ra sức tự hoàn thiện,
- là vì m/đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được c/quyền, ủy thác cho tôi gánh việc C/ phủ, tôi lo
lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một
m/đích, làm cho ích quốc lợi dân”.
3. Đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và khiêm tốn hết mực
Tấm gương đạo đức HCM được thể hiện trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, đó là đời tư trong sáng, cuộc
sống riêng giản dị và đức khiêm tốn hết mực. Người coi khinh sự xa hoa để sống một cuộc đời trong sạch, suốt đời
thực hành cần, kiệm, liêm, chính một cách cần mẫn.
HCM luôn luôn nói đi đôi với làm. Trong hành trình tìm đường cứu nước, dù ở đâu, làm gì, HCM chấp nhận
mọi công việc, miễn là việc đó có lợi cho tổ chức, cho cách mạng. Người là tấm gương sáng về người lãnh đạo,
người đứng đầu ở vị trí cao nhất nhưng luôn trung thành, tận tụy vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, không mưu cầu
lợi ích riêng cho cá nhân và gia đình. Người tâm sự khi phải giữ trọng trách Chủ tịch nước: “Tôi tuyệt nhiên không

ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng
sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận.Bao giờ đông bào cho tôi lui, thì
tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái
nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biết để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ
chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
Tư tưởng và tấm gương “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào” một lần nữa lại được
HCM trịnh trọng tuyên bố trước kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (31-10-1946): “Lần này là lần thứ hai Quốc hội
giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ một lần nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ
Quốc hội ủy cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm.Tôi xin nhận. Giờ tôi tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc
dân và trước thế giới rằng: HCM không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được thăng quan, phát tài” . Trong lời
tuyên bố của HCM, chúng ta chú ý rằng Người nhấn mạnh việc đảm nhận chức vụ trong một hoàn cảnh đất nước
khó khăn, đầy gian khổ, hy sinh khi “Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất”. Chức vụ đó là do Quốc
hội (nhân dân) ủy thác thì phải gắng sức làm. Còn khi đồng bào đã cho lui thì lại vui vẻ trở về cuộc sống của một
người dân bình thường.
Người luôn khẳng định: Sự nghiệp anh hùng cách mạng Việt Nam là của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta;
còn khuyết điểm thì Người nhận về mình. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới đứng trước toàn dân để Tự phê
bình, nhận lấy khuyết điểm của mình và cho rằng do mình “tài hèn đức mọn, cho nên chưa làm đầy đủ những sự
mong muốn của đồng bào”. Có lẽ, Hồ Chí Minh là lãnh tụ duy nhất trên thế giới có nhiều đóng góp vĩ đại cho Tổ
quốc mình, nhưng khi đi vào cõi vĩnh hằng trên ngực áo không hề có bất kỳ một tấm huân, huy chương nào.
* Phong cách của HCM


Phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cũng to lớn của Đảng, của dân tộc ta, mãi mãi là nguồn sáng
bất tận soi rọi vào mỗi tâm hồn con người Việt Nam, hướng cho mọi người đến với chân, thiện, mỹ của cuộc sống.
Người là tấm gương giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện chống lại thói
hư, tật xấu. Học tập và làm theo phong cách vì dân, trọng dân, gần dân của Người để không ngừng củng cố lòng tin
của nhân dân với cán bộ, đảng viên, cũng như củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
1. Phong cách quần chúng.
Phong cách quần chúng trong tư tưởng HCM bắt nguồn từ sự thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghía

Mác - Lênin: quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. HCM luôn có lòng
tin vô tận đối với quần chúng. Người luôn luôn chăm lo tăng cường mối liên hệ với quần chúng, coi đó là nguồn sức
mạnh tạo nên mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Phong cách quần chúng trong tư tưởng HCM thể hiện bằng phong cách sâu sát quần chúng, vì lợi ích của quần
chúng, đi đúng đường lối quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, của những người chiến sĩ cộng sản suốt đời
phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Trước hết, HCM yêu cầu cán bộ, đảng viên gần dân, thấu hiếu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và bản thân
Người là tấm gương sáng về phong cách gần dân. Sự gần gũi đó được thể hiện ngay từ phút đầu tiên Người ra mắt
quốc dân. Khi vừa đọc một đoạn Tuyên ngôn Độc lập, Người đã dừng lại hỏi: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không?".
Chỉ là một câu hỏi thôi, một câu hỏi bình dị, tự nhiên mà thực sự đã làm xúc động trái tim hàng chục triệu đồng bào
toàn quốc! "Cả muôn triệu một lời đáp: Có! Như Trường Sơn say gió Biển Đông".
Câu 8: Xây dựng Đảng – Quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
-

Trình bày quan điểm HCM về xây dựng Đảng

+ XD Đảng CSVN trong sạch, vững mạnh chiếm 1 vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng HCM.///+
XD Đảng là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài vì khi CM gặp khó khăn hay cả khi CM đang trên đà thắng lợi cũng
rất cần đến XD Đảng.
+ XD Đảng gắn liền với sự tồn tại của Đảng.
- Tính tất yếu khách quan của công tác XD và chỉnh đốn Đảng được HCM lý giải theo các căn cứ sau:
+ XD chỉnh đốn đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trước
những diễn biến hết sức phức tạp của những điều kiện khách quan và chủ quan do đó bản thân Đảng phải tự chỉnh
đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc.
+ Hoàn cảnh KT – XH có cả mặt tốt và mặt xấu, cái xấu có thể ảnh hưởng đến cán bộ Đảng viên => ảnh hưởng tới
đảng do đó phải XD và chỉnh hướng Đảng.
+ XD và chỉnh đốn Đảng là cơ hội của mỗi ván bộ Đảng viên tự rèn luyện giáo dục tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành
nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Đặc biệt là giữ gìn những phẩm chất tốt đẹp.
+ Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền thì việc XD và chỉnh đốn Đảng được HCM coi là công việc
phải tiến hành thường xuyên vì HCM thấy rõ được tính 2 mặt của quyền lực.

Ý nghĩa: XD Đảng theo tư tưởng HCM có 1 ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Đảng ta đã trở thành Đảng
cầm quyền. Chính vì vậy XD Đảng mang tính chất quy luật và là nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân Đảng.
Đổi mới Đảng sẽ làm cho toàn Đảng trở thành 1 khối thống nhất về nhận thức và tư tưởng làm cơ sở cho sự thống
nhất về hoạt động đủ sức trèo lái con thuyền CMVN vượt qua thử thách.
Câu 9: Vai trò và sức mạnh của đạo đức
* Đạo đức là cái gốc của Người cách mạng


- Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của
sông suối. Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì".
- Đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm quyền. Hồ Chí Minh trăn trở với nguy cơ của Đảng
cầm quyền, đó là sự sai lầm về đường lối và suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Đảng cầm
quyền, lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước, nếu cán bộ, đảng viên của Đảng không tu dưỡng về đạo đức cách
mạng thì mặt trái của quyền lực có thể làm tha hóa con người.
-Tư tưởng đạo đức HCM là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, HCM
luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Người nói:
“hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản
xuất”.
-Trong tư tưởng đạo HCM, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó:
đức là gốc của tài; hồng là gốc của chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài là thể hiện cụ thể của đức trong hiệu
quả hành động
*đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội.
- Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là lí tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi
dào, ở tư tưởng tự do giải phóng, mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của người cộng sản
ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
- Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ
do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho

chủ nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch.
- Tấm gương đạo đức trong sáng của HCM chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân VN,
mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương đó từ lâu đã là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với
nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội
Câu 10: Quan niệm về những chuẩn mực của đạo đức cách mạng
* Trung với nước, hiếu với dân
- "Trung" và "hiếu" vốn là những k/niệm đạo đức cũ chứa đựng nội dung hạn hẹp: "Trung với vua, hiếu với cha
mẹ", phản ánh bổn phận, t/nhiệm của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. HCM đưa vào khái niệm cũ một n/dung
mới, mang tính c/mạng, đó là trung với nước, hiếu với dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu.
+ Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên
của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho c/mạng. Trong mối q/hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội,
phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của c/mạng lên trên hết, trước hết; Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục
tiêu cách mạng; Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Hiếu với dân là thương dân, tin dân, phục vụ n/dân hết lòng. Muốn vậy phải gần dân, kính trọng và học tập n/dân,
phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, Người yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân
tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
Vì vậy, Người cho rằng “trung với nước phải gắn liền hiếu với dân”, vì nước là nước của dân, còn dân là chủ
nhân của nước, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, cán bộ là đày tớ của dân chứ không phải là “quan c/mạng”
*Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.


- Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất lao động cao; lao động với
tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.
-Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm
từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không phô trương, hình thức…”.Tiết kiệm không phải là bủn
xỉn, nhưng phải kiên quyết chống xa xỉ
-Liêm là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm đến một đồng xu,
hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”…
- Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình, không tự cao, tự đại; đối với người

không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, đối với việc thì
việc công lên trên, lên trước việc tư, tiệc nhà. Được giao nhiệm vụ thì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ
mấy cũng phải làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh”.
- Cần mà không kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà kiệm. Cần,
kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh. Cần,
kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả mọi người.
- Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu cán bộ, đảng viên mắc sai lầm,
khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung của cách mạng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Mặt khác,
những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ
trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.
- Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ
của một d/tộc. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua yêu nước; là cái cần để làm
việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại
- Chí công vô tư là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào; là đặt lợi ích của
cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành chí công vô tư cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
*Thương yêu con người, sống có nghĩa tình.
- Yêu thương con người được HCM xác định là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người nói,
người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương con người,
yêu thương nhân dân mà chấp nhân mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm cho con người.
- Tình thương yêu con người ở HCM không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận
thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ.
Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương
đối với từng số phận con người
* Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung
- C/nghĩa quốc tế là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó bắt nguồn
từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượ ra khỏi quốc gia dân tộc.
- Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng HCM rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng và thương yêu tất cả
các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Người khẳng
định: bốn phương vô sản đều là anh em; giúp bạn là giúp mình; thắng lợi của mình cũng là thắng lợi của nhân dân

thế giới. Người đã góp phần to lớn, có hiệu quả xây đắp tình đoàn kết quốc tế, tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế mới:
đối thoại thay cho đối đầu, kiến tạo một nền văn hóa hòa bình trên thế giới.


trở thành tấm gương đạo đức trọn vẹn. HCM cho rằng: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm,
và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Người đòi hỏi mỗi cán
bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần
chúng noi theo.
Thứ ba, để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Người chủ trương: "Lấy gương người tốt, việc tốt để
hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng,
xây dựng con người mới, cuộc sống mới". Trong gia đình, cha mẹ có thể là tấm gương cho các con, anh chị là tấm
gương đối với các em; trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò; trong cơ quan, tổ chức thì cán
bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác. Trong /sống hằng ngày, người
cán bộ, đảng viên chẳng những phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, mà
còn phải là tấm gương giúp n/dân nhìn vào đó làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
Câu 11: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách của HCM.
Tử tưởng, đạo đức, tác phong, phong cách là một chỉnh thể, tạo nên nhân cách mẫu mực HCM, là các mặt có
liên quan chặt chẽ với nhau.Tư tưởng chi phối đạo đức, tác phong, phong cách; tác phong, phong cách là sự thể
hiện, cụ thể hóa tư tưởng, đạo đức. Sinh thời, Bác Hồ là tấm gương thể hiện sinh động các mặt đó và luôn giáo dục
cán bộ những nội dung đó. Do vậy, cần đẩy mạnh việc học tập và làm theo tác phong, phong cách Bác Hồ cùng với
học tập và làm theo tư tưởng và đạo đức của Bác.
* Đạo đức HCM
1. Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
HCM khẳng định: Đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “Đạo đức
cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.Người quan niệm: đã là người thì ai cũng có chỗ
hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình,
không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc
phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện thường xuyên trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như
trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người

dạy: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm
nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa
cá nhân”
Chính tấm gương đạo đức trong sáng, suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là sự quy tụ đặc
sắc nhất những giá trị của đạo đức cách mạng của Người. Đặc biệt, việc HCM giải thích cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư bằng thực tiễn, bằng tấm gương rèn luyện đạo đức cần mẫn hằng ngày của Người, đã củng cố thêm giá
trị những phẩm chất này, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống nhân dân.
Theo HCM, cần có nghĩa là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong học tập, trong lao động, trong chiến đấu và
trong sản xuất; cần còn có nghĩa là làm việc có phương pháp, có khoa học và có trí tuệ. Cần mà không có trí tuệ thì
đó cũng chỉ là bán thân bất toại.
2. Suốt đời vì dân, vì nước, làm người công bộc tận tụy trung thành của nhân dân
Sinh ra, lớn lên ở một vùng quê nghèo khổ nhưng giàu truyền thống yêu nước, văn hiến, Hồ Chí Minh được
nuôi dưỡng, thấm nhuần sâu sắc triết lý sống của cha ông: Muốn dựng làng và giữ nước phải bắt đầu từ việc làm
người một cách thành thật, đúng nghĩa. Người cũng bộc lộ rất sớm một nét tính cách lớn: Sống có lý tưởng trong
tâm hồn, trung kiên trong bản chất. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ thuở nhỏ HCM đã có ý thức gắn vận mệnh
cá nhân mình với vận mệnh chung của đồng bào, đất nước, luôn đau đáu một nỗi niềm: Hỏi xem non nước mất hay
còn! Đấy chính là những biểu hiện ban đầu của một nhân cách lớn, một trí thức chân chính: luôn trăn trở, đau đớn


trước nỗi nhục mất nước, đồng bào nô lệ, lầm than, suy nghĩ về những vấn đề liên quan đến số phận con người và
các giá trị làm người. Bài học đạo đức lớn nhất mà Hồ Chí Minh để lại cho mọi thế hệ người Việt Nam chính là bài
học ở đời và làm người mà nội dung và chiều sâu nhân văn của nó là yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau
khổ bị áp bức, bóc lột.
Gia đình, quê hương, đất nước đã hình thành nên một HCM mang nhân cách vĩ đại, giàu lòng yêu nước,
thương dân, nhất là những người nghèo khổ, giúp Người thấu hiểu được sức mạnh của ý chí tự cường, tinh thần tự
tôn dân tộc. HCM luôn tâm niệm: Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn,
đó là tất cả những gì tôi hiểu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”.
Yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước là suy nghĩ thường trực, nhất quán trong con người HCM. Người
đi sang Pháp, sang các nước phương Tây nhằm mục đích học hỏi xem bên ngoài người ta làm thế nào để rồi về nước

giúp đồng bào mình giải phóng khỏi gông cùm nô lệ, áp bức. Và HCM đấu tranh không ngừng, không nghỉ, thậm
chí phải hy sinh bằng mọi giá giành được độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.
Sau C/mạng Tháng Tám, HCM phát biểu mục đích cuộc sống mà Người theo đuổi là: “Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”. Nói chuyện với đồng bào trước khi sang thăm Pháp (30-5-1946), HCM khẳng định: “Cả đời tôi
chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi
núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo.




×