Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Pháp luật việt nam về luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thực tiễn và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.62 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CAO PHƢƠNG NGỌC

PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
THỰC TIỄN VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NÔNG QUỐC BÌNH

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Bản luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu kiến thức lý thuyết,
nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Nông Quốc Bình.
Các số liệu, kết quả trong bài luận văn là hoàn toàn trung thực.
Học viên

Cao Phƣơng Ngọc




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc
nhất tới PGS.TS. Nông Quốc Bình, người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và
giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em cũng trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo tại Khoa Sau đại
học, đặc biệt là các thầy cô giáo đã giảng dạy lớp cao học khóa XX – Khoa
Pháp luật quốc tế; cảm ơn hệ thống Thông tin thư viện của Trường cùng các
anh chị em học viên khóa XX đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014.
Học viên

Cao Phƣơng Ngọc


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG

5

HÓA QUỐC TẾ VÀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG
1.1. Khái quát về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế


5
5

1.1.2. Đặc điểm của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

10

1.2. Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

13

1.2.1. Nguồn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

14

1.2.2. Xác định pháp luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc 20
tế

Tiểu kết chƣơng 1

24

CHƢƠNG 2 : QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LUẬT
ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
2.1. Các văn bản pháp luật điều chỉnh về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế tại Việt Nam
2.2. Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam điều chỉnh Hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế
2.2.1. Luật áp dụng cho hình thức Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

2.2.2. Luật áp dụng cho nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
2.2.3. Luật áp dụng xác định tư cách chủ thể giao kết hợp đồng

25

Tiểu kết chƣơng II

46

25
28
29
35
43

CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN VỀ LUẬT ÁP DỤNG CHO HỢP ĐỒNG 47
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM VÀ HƢỚNG
HOÀN THIỆN
3.1.Thực tiễn về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của 47

Việt Nam
3.1.1. Thực tiễn còn tồn tại trong các quy định của pháp luật Việt Nam

47


3.1.2. Thực tiễn còn tồn tại đối với các doanh nghiệp
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
HĐMBHHQT và nâng cao năng lực của doanh nghiệp khi ký kết
HĐMBHHQT

3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý
3.2.2. Nâng cao năng lực của các doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế
3.2.3. Nâng cao năng lực của các cơ quan giải quyết tranh chấp về Hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế

56

Tiểu kết chƣơng III

74

KẾT LUẬN

75

62

62
69
72


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong đời sống xã hội, hợp đồng là một hình thức pháp lý thích hợp và
hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hóa và tiền tệ. Khi nền
kinh tế phát triển thì việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng ngày

càng cần thiết, càng được coi trọng và hoàn thiện. Nền kinh tế Việt Nam đang
trong giai đoạn phát triển, đặc biệt phải kể đến việc trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) khiến cho các quan hệ thương
mại quốc tế giữa thương nhân trong nước và thương nhân nước ngoài được
thiết lập ngày càng nhiều. Đồng nghĩa với nó là số lượng ngày càng tăng của
các hợp đồng giao dịch thương mại quốc tế, trong đó phải kể đến hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Có thể khẳng định, vai trò của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế ngày càng quan trọng; phần vì đối tác là những doanh nhân
chuyên nghiệp, rất am hiểu luật trong việc giải quyết tranh chấp; phần vì các
hợp đồng quốc tế không được mặc nhiên công nhận là sẽ được luật Việt Nam
điều chỉnh.
Chính những “yếu tố nước ngoài” trong hợp đồng dân sự nói chung và
HĐMBHHQT nói riêng dẫn đến hiện tượng cùng một lúc có thể có nhiều hệ
thống pháp luật cùng tham gia điều chỉnh hợp đồng. Từ đó, việc xác định luật
áp dụng cho HĐMBHHQT để bảo vệ lợi ích của các bên khi giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, sự khác
nhau về quốc tịch, về khoảng cách địa lý, về môi trường kinh doanh, phong
tục tập quán khiến cho các bên tham gia ký kết gặp nhiều khó khăn trong việc
tìm hiểu hệ thống pháp luật của phía đối tác.
Để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hiểu biết pháp luật của
các doanh nghiệp Việt Nam cũng như góp phần đưa hệ thống pháp luật Việt


2

Nam tiến gần hơn đến các chuẩn mực pháp lý chung của quốc tế, việc tìm
hiểu, nghiên cứu về vấn đề xác định luật áp dụng trong HĐMBHHQT là một
điều cần thiết.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Pháp luật Việt Nam áp
dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Thực tiễn và hướng

hoàn thiện”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề “Luật áp dụng trong HĐMBHHQT”có rất nhiều
công trình nghiên cứu đã được công bố. Mỗi một công trình tập trung nghiên
cứu ở những khía cạnh khác nhau. Cụ thể:
PGS.TS Nông Quốc Bình với một số công trình nghiên cứu đã công
bố trên các tạp chí chuyên ngành như: “Phạm vi áp dụng và không áp dụng
của Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”;“Sự mềm
dẻo trong một số điều khoản của Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế” đăng trên Tạp chí Luật học số 04/2011 hay “Xác định
pháp luật áp dụng điều chỉnh Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - một số
vấn đề lý luận và thực tiễn.”
Tiến sỹ Nguyễn Minh Hằng với một số công trình như: “Giải quyết
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” trên tạp chí diễn đàn Doanh nghiệp
năm 2007; “Sửa đổi Điều 769 BLDS 2005” hay “Việt Nam và việc gia nhập
Công ước Viên năm 1980”.
Thạc sỹ Nguyễn Bá Bình với công trình nghiên cứu đã được công bố
năm 2008 như: “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, vài suy nghĩ về nội
hàm khái niệm cũng như việc xác định tính hợp pháp của Hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế” và một số bài viết liên quan đăng trên trang web:
nguyenbabinh.blogspot.com.


3

Thạc sỹ Bùi Thị Thu với bài viết“Một số vấn đề về chọn Luật áp dụng
trong hợp đồng thương mại quốc tế theo Công ước Rome 1980 về luật áp
dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng.”đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật.
Thạc sỹ Bành Quốc Tuấn với bài viết như: “Thỏa thuận luật áp dụng
trong hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài.”

3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Bằng việc phân tích và nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật quốc tế, mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số
vấn đề cơ bản về các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật
quốc tế về Luật áp dụng cho HĐMBHHQT, phân tích những vướng mắc còn
tồn tại của pháp luật Việt Nam cũng như thực tiễn lựa chọn luật áp dụng của
các bên tham gia hợp đồng và các cơ quan giải quyết tranh chấp. Từ đó đưa ra
khuyến nghị cũng như phương hướng hoàn thiện pháp luật.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
Nghiên cứu các vấn đề cơ bản của HĐMBHHQT và luật áp dụng trong
HĐMBHHQT
Phân tích, lập luận, đánh giá các quy định của Pháp luật Việt Nam và
so sánh với các quy định trong các Điều ước quốc tế và pháp luật một số quốc
gia trên thế giới. Từ đó chỉ ra những vướng mắc còn tồn tại của Pháp luật Việt
Nam.
Đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp thực tế
nhằm nâng cao hiệu quả lựa chọn luật áp dụng cho HĐMBHHQT.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn trước hết nêu những vấn đề lý luận cơ bản về HĐMBHHQT
và đi vào phân tích, đánh giá các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam
về vấn đề luật áp dụng cho HĐMBHHQT. Tiếp đó, đi sâu tìm hiểu các vấn đề
thực tiễn về luật áp dụng cho HĐMBHHQT tại Việt Nam, từ đó đưa ra những


4

kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành cũng như
đề ra một số giải pháp cho những vướng mắc mà các doanh nghiệp Việt Nam
mắc phải về vấn đề này trong quá trình kinh doanh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Tác giả luận văn kết hợp sử dụng phương pháp luận theo chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tập trung nghiên cứu các quy
định của pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng thêm phương
pháp so sánh để xem xét, đối chiếu với quy định của pháp luật quốc tế; sử
dụng phương pháp hệ thống, phân tích và tổng hợp để đánh giá thực trạng
pháp luật Việt Nam. Tất cả đều nhằm mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận của
vấn đề Luật áp dụng trong HĐMBHHQT tại Việt Nam, từ đó góp phần nâng
cao hiệu quả của hoạt động này trên thực tế.
6. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và luật áp
dụng trong hợp đồng.
Chương II: Quy định của pháp luật Việt Nam về luật áp dụng trong hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế.
Chương III: Thực tiễn chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế của Việt Nam và hướng hoàn thiện.


5

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
VÀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG
1.1. Khái quát về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Có thể nói rằng việc làm rõ khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn hết sức quan trọng bởi nó gắn liền với
việc xác định luật nào được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của các bên trong
hợp đồng. Nếu hợp đồng là hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường (hợp
đồng nội địa) thì sẽ được luật trong nước điều chỉnh. Nếu là hợp đồng mua

bán hàng hóa quốc tế thì nó sẽ được điều chỉnh bằng pháp luật thương mại
quốc tế: có thể là luật pháp của các quốc gia khác nhau, các Điều ước quốc tế,
và trong nhiều trường hợp liên quan đến cả tập quán thương mại quốc tế, nên
cần thiết phải lựa chọn luật nào trong số đó để áp dụng cho hợp đồng. Không
những thế mà trong một số trường hợp còn cho phép xác định được pháp luật
của quốc gia nào được sử dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng. Tuy nhiên, việc xác định tính quốc tế của hợp đồng hiện nay
dường như được hiểu không giống nhau.
Theo quan điểm của Luật Thương mại Pháp đã được giới học giả
nghiên cứu: khi xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp lý. Theo các tiêu chuẩn
kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo nên sự di chuyển qua lại biên
giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói cách khác, hợp đồng đó
thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế. Theo tiêu chuẩn pháp lý, một hợp
đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp
lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng…


6

Theo Luật thương mại Trung Quốc: “hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế là những hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa được xác lập giữa các
doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế khác của Trung Quốc với doanh nghiệp,
cá nhân, tổ chức nước ngoài.” Như vậy, tính chất quốc tế của hợp đồng được
xác định cũng dựa trên dấu hiệu quốc tịch của các bên. Trước khi sửa đổi, ban
hành Luật Thương mại 2005 thì Luật Thương mại 1997 của Việt Nam trong
Điều 80 xác định yếu tố quốc tế của HĐMBHHQT giống như cách xác định
của Trung Quốc, tức là cũng dựa trên dấu hiệu quốc tịch của thương nhân:
“Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua

bán hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên
là thương nhân nước ngoài”.
Tuy nhiên, nếu xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế dựa trên dấu hiệu quốc tịch thì sẽ gặp phải những khó khăn, phức tạp
trong thực tiễn bởi:
Thứ nhất, pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau xác định quốc tịch
của pháp nhân không giống nhau. Có quốc gia xác định quốc tịch pháp nhân
theo nơi đăng ký pháp nhân (các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Anh Mỹ);
có quốc gia xác định quốc tịch theo địa chỉ thường trú của pháp nhân –
thường là nơi thường trú của cơ quan điều hành - nơi có cơ quan quản lý thực
tế (các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa như Pháp, Đức, Ba
Lan…); có quốc gia xác định quốc tịch của pháp nhân tại nơi pháp nhân tiến
hành các hoạt động thương mại…Vì có nhiều cách xác định quốc tịch như
vậy nên để xác định tính quốc tế của một HĐMBHHQT là không hề đơn giản,
có thể với quốc gia này thì đó là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng
với quốc gia khác thì không phải.


7

Thứ hai, nếu xác định tính quốc tế của hợp đồng dựa trên dấu hiệu
quốc tịch trong một số trường hợp sẽ gặp khó khăn khi xác định pháp luật áp
dụng.
Ví dụ, công ty A được đăng ký thành lập trên lãnh thổ Pháp nhưng lại
có trụ sở điều hành trên lãnh thổ của Anh, như vậy theo pháp luật Pháp, công
ty A có quốc tịch Anh, còn theo pháp luật của Anh thì công ty A lại có quốc
tịch Pháp. Công ty A ký kết hợp đồng bán hàng cho một công ty B ở Việt
Nam và xuất phát từ quy phạm xung đột, luật áp dụng cho hợp đồng là luật
của quốc gia người bán, vậy trong trường hợp này, luật của quốc gia nào sẽ
được áp dụng, luật của Pháp hay luật của Anh?

Chính vì lý do trên mà trong mua bán hàng hóa quốc tế người ta thường
không xác định tính quốc tế của hợp đồng dựa trên dấu hiệu quốc tịch.
Theo Công quốc Lahaye năm 1964 về mua bán hàng hóa quốc tế các
động sản hữu hình(Convention relating to a Uniform Law on the International
Sale of Goods)tại khoản 1 Điều 1 thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
phải thỏa mãn hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh
thổ của các quốc gia khác nhau;
Thứ hai, phải thỏa mãn ít nhất một trong ba yếu tố sau đây:
- Hàng hóa phải được chuyên chở hoặc phải được chuyên chở từ lãnh thổ của
quốc gia này đến lãnh thổ của quốc gia khác;
- Khi mà những hành vi thể hiện sự chào hàng và chấp nhận chào hàng được
thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau;
- Khi việc giao hàng phải được thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia khác
không phải là nơi thực hiện những hành vi chào hàng và chấp nhận chào
hàng.


8

Như vậy, theo Công quốc Lahaye năm 1964thì tính chất quốc tế thể
hiện ở các tiêu chí như: các bên giao kết có trụ sở thương mại ở các nước
khác nhau và hàng hóa, đối tượng của hợp đồngđược chuyển qua biên giới
một nước, hoặc là việc trao đổi ý chí giao kết hợp đồng giữa các bên được lập
ở những nước khác nhau. Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại
thì sẽ dựa vào nơi cư trú thường xuyên của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên
không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của HĐMBHHQT.
Được thông qua năm 1964 và đã có hiệu lựa nhưng Công ước Lahaye
không được áp dụng một cách rộng rãi cũng như không gây được ảnh hưởng
trong thực tiễn ký kết và thực hiện HĐMBHHQT vì nhiều lý do như: nó được

soạn thảo bởi đại diện của các quốc gia phát triển, chưa tính đến quyền lợi của
các quốc gia đang phát triển, và đặc biệt lý do quan trọng nhất là các tiêu
chuẩn chủ quan và khách quan được Công ước sử dụng để xác định tính quốc
tế của HĐMBHHQT chồng chéo và không có ý nghĩa thực tiễn. Ví dụ trường
hợp người bán có trụ sở thương mại trên lãnh thổ của Việt Nam giao hàng cho
người mua có trụ sở thương mại trên lãnh thổ của Thái Lan theo
HĐMBHHQT, khi hàng hóa đã nằm trên lãnh thổ của Thái Lan, vì một lý do
nào đó người mua từ chối nhận hàng và khi đó người bán buộc phải sang Thái
Lan để bán số hàng này cho người mua khác có trụ sở thương mại cũng nằm
trên lãnh thổ Thái Lan. Như vậy, tất cả các hoạt động liên quan đến việc mua
bán lần thứ hai đều diễn ra trên lãnh thổ Thái Lan: Hàng hóa đã nằm tại Thái
Lan – không thỏa mãn điều kiện thứ nhất; các hành vi chào hàng và chấp
nhận chào hàng cũng như việc giao hàng được thực hiện ngay trên lãnh thổ
của Thái Lan – không thỏa mãn điều kiện thứ hai và thứ ba. Như vậy, theo
quy định của Điều 1 Công ước Lahaye 1964 thì hợp đồng này không thể được
coi là HĐMBHHQT và vì vậy không thể áp dụng các quy định của Luật


9

Thương mại quốc tế mà cụ thể là không thể áp dụng ngay chính Công ước
Lahaye 1964 để điều chỉnh nó.
Chính vì lý do đó mà hiện nay trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc
tế người ta thường sử dụng Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về mua
bán quốc tế hàng hóa (gọi tắt là CISG) để xác định tính quốc tế của hợp đồng.
Điều 1 CISG quy địnhHĐMBHHQT là hợp đồng mua bán hàng hóa trong đó
các bên ký kết có trụ sở thương mại đặt ở những nước khác nhau. Như vậy,
tính chất quốc tế của HĐMBHHQT theo CISG chỉ dựa trên dấu hiệu duy nhất
là trụ sở thương mại của các bên phải nằm trên những nước khác nhau. Việc
xây dựng khái niệm HĐMBHHQT dựa trên yếu tố lãnh thổ, hay trụ sở giao

dịch giống như quy định của CISG sẽ cho phép xác định tính chất quốc tế của
hợp đồng trở nên đơn giản hơn nhiều so với việc dựa trên dấu hiệu quốc tịch
và các dấu hiệu khác. Tuy nhiên, theo tiêu chí này sẽ gặp khó khăn trong
trường hợp các bên có nhiều trụ sở thương mại. Điều 10 Công ước đã giải
quyết vấn đề này khi quy định rằng: trường hợp nếu một trong các bên hay tất
cả các bên có nhiều hơn một trụ sở thương mại thì cần phải chú ý đến trụ sở
thương mại liên quan mật thiết với hợp đồng, còn nếu các bên không có trụ sở
thương mại thì cần phải xác định địa điểm thường trú của họ.
Theo pháp luật Việt Nam: Luật Thương mại 2005 không đưa ra tiêu chí
để xác định tính chất quốc tế của HĐMBHHQT mà liệt kê những hoạt động
được coi là mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 27 nêu rõ mua bán quốc tế được
thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm
xuất tái nhập và chuyển khẩu. Các hình thức này được giải thích rõ tại Điều
28, Điều 29, Điều 30 của Luật thương mại năm 2005. Thông qua nội dung
này có thể thấy Luật Thương mại Việt Nam đã sử dụng tiêu chí hàng hóa phải
là động sản, hàng có thể được di chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua
biên giới của một nước (vùng lãnh thổ, hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu


10

vưc hải quan riêng…) để xem xét tính quốc tế của HĐMBHHQT. Như vậy,
nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là bất động sản thì hợp đồng đó không
phải là HĐMBHHQT cho dù bất động sản được bán cho người nước ngoài.
Mua bán bất động sản với người nước ngoài phải theo một cơ chế pháp lý
riêng.
Từ những phân tích trên có thể khái quát về HĐMBHHQT như sau:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu
tố nước ngoài. Tuy nhiên, yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế được viện giải theo pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế

theo những tiêu chí khác nhau. Trong đó, tiêu chí trụ sở thương mại của các
bên trong hợp đồng đặt tại các quốc gia khác nhau được pháp luật nhiều
quốc gia thừa nhận như một tiêu chuẩn cơ bản và quan trọng trong việc xác
định một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trước hết HĐMBHHQT mang đầy đủ những đặc điểm của một hợp
đồng mua bán hàng hóa nói chung. Về mặt bản chất, HĐMBHHQT là sự thỏa
thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ mua bán
hàng hóa. Đối tượng của HĐMBHHQT là hàng hóa được phép lưu thông trên
thị trường theo pháp luật quốc gia nhất định.Chủ thể của HĐMBHHQT cũng
bao gồm bên bán và bên mua, bình đẳng với nhau trong quan hệ mua bán,
không phụ thuộc vào quốc tịch, quy mô, loại hình doanh nghiệp…
HĐMBHHQT cũng là hợp đồng song vụ, có đền bù.
Khác với hợp đồng mua bán hàng hóa nội địa, HĐMBHHQT có những
nét đặc trưng sau:
Thứ nhất, về chủ thể HĐMBHHQT. Trên thực tế thì pháp luật thương
mại quốc tế không có sự điều chỉnh đặc biệt nào đối với chủ thể của
HĐMBHHQT. Điều này được giải thích bởi chủ thể của hoạt động này (cá


11

nhân hay pháp nhân – thương nhân) có được quyền ký kết hợp đồng phù hợp
với pháp luật quốc gia áp dụng đối với các chủ thể đó. Theo quy định của
pháp luật Việt Nam, HĐMBHHQT được coi là hợp pháp khi chủ thể của hợp
đồng hợp pháp, tức là có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đồng
thờingười ký kết có thẩm quyền ký kết hợp đồng.
Đối với chủ thể bên nước ngoài, các thương nhân là cá nhân thì dựa
vào yếu tố quốc tịch. Cụ thể tại khoản 1 Điều 761 BLDS 2005 quy định:
“năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định

theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch.”Đối với các thương nhân
là pháp nhân thì xác định trên nơi đăng ký thành lập, cụ thể khoản 1 Điều 765
BLDS 2005 quy định “năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài
được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó thành lập.”
Thứ hai, về đối tượng của HĐMBHHQT. Hàng hóa là đối tượng của
HĐMBHHQT là động sản, tức là hàng có thể chuyển qua biên giới của một
nước. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là những hàng hóa nào có thể là đối tượng của
HĐMBHHQT. Công ước Viên 1980 không đưa ra định nghĩa mà chỉ liệt kê
phạm vi hàng hóa không áp dụng trong Điều 2 của Công ước như sau:
“Công ước này không áp dụng vào việc mua bán:
a. Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người
bán, vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp
đồng, không biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử
dụng như thế.
b. Bán đấu giá.
c. Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật.
d. Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc
tiền tệ.
e. Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí.


12

f. Ðiện năng.”
Vậy, việc mua bán hàng hóa ngoài những hàng hóa mà Điều 2 CISG
quy định thì đó chính là đối tượng của HĐMBHHQT.
Ở Việt Nam, khái niệm hàng hóa được quy định tại khoản 2 Điều 3
Luật Thương mại 2005. Theo đó, hàng hóa là tất cả các loại động sản, kể cả
động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất.
Như vậy, pháp luật các nước nói chung có những quan niệm khác nhau

về hàng hóa. Sự khác nhau này dẫn đến hệ quả là cùng một thực thể nhưng
theo pháp luật nước này thì được phép mua bán, còn theo pháp luật nước khác
thì có thể bị cấm mua bán.
Đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hàng hóa sẽ được
dịch chuyển qua lại biên giới hải quan một hoặc nhiều quốc gia khác nhau, dễ
thấy nhất là các hợp đồng xuất nhập khẩu. Cho nên, những hàng hóa này
không chỉ đơn thuần là được phép mua bán mà phải còn được phép xuất nhập
khẩu theo quy định của pháp luật quốc gia hữu quan. Ở Việt Nam, chỉ những
hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu không thuộc danh mục cấm lưu
thông, cấm xuất khẩu, được ban hành kèo theo Nghị định 12/2006/NĐ-CP
quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại 2005 và các văn bản luật chuyên
ngành mới có thể trở thành đối tượng của HĐMBHHQT. Ví dụ như Nhà nước
ta quy định cấm xuất khẩu vũ khí đạn dược; di vật, cổ vật; động thực vật
hoang quý hiếm. Nhà nước ta cũng cấm nhập khẩu một số mặt hàng như: vũ
khí, đạn dược; pháo các loại; phế liệu, phế thải, hóa chất độc hại…Như vậy,
các mặt hàng trên không thể trở thành đối tượng của HĐMBHHQT.
Khi gia nhập WTO, những mặt hàng xuất – nhập khẩu mà Nhà nước
kiểm soát phải thay đổi cho phù hợp với các quy định chung của Tổ chức:
đồng ý cho nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà từ thời điểm gia nhập, nhưng chỉ có
doanh nghiệp Nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ mặt hàng này.


13

Thứ ba, về đồng tiền thanh toán trong HĐMBHHQT. Đối với các hợp
đồng mua bán trong nước, đồng tiền thanh toán là nội tệ. Trong
HĐMBHHQT, các bên có thể thỏa thuận chọn đồng tiền thanh toán là đồng
tiền của nước người mua, nước người bán hoặc của một nước thứ ba nào
đó…Do đó, đồng tiền thanh toán trong HĐMBHHQT thường là ngoại tệ đối
với ít nhất một bên hoặc cả hai bên của hợp đồng.

Thứ tư, về hình thức HĐMBHHQT. Nguyên tắc tự do lựa chọn hình
thức của hợp đồng cũng được áp dụng trong HĐMBHHQT. Theo Điều 11
Công ước Viên: HĐMBHHQT không nhất thiết phải được ký kết hoặc xác
nhận bằng văn bản hay tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức hợp đồng.
Sự tồn tại của hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, trong đó có
cả lời khai của người làm chứng. Với quy định như vậy ta thấy thuận lợi cho
các bên giao kết hợp đồng. Công ước Viên 1980 đã quy định thêm ở Điều 96,
nếu luật một quốc gia thành viên nào quy định hợp đồng phải được ký kết
dưới hình thức văn bản mới có giá trị thì yêu cầu phải được thể hiện dưới hình
thức văn bản phải được tôn trọng.
1.2. Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Đối với HĐMBHHQT nói riêng và hợp đồng quốc tế nói chung, vấn đề
mà các bên quan tâm nhất là giá trị pháp lý của những thỏa thuận trong hợp
đồng, liệu hợp đồng có được thừa nhận và có hiệu lực pháp lý hay không?
Để giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng đó phải căn cứ vào
một hệ thống pháp luật nhất định. Như vậy, một hợp đồng luôn phải có mối
liên hệ với một hệ thống pháp luật nhất định. Không thể có hợp đồng nằm
ngoài các quy định của pháp luật.
Trong thực tiễn không có hợp đồng nào là hoàn hảo, đặc biệt đối với
các hợp đồng có tính chất quốc tế. Các bên không thể luôn dự tính được
những điều sẽ xảy ra trong tương lai, trong trường hợp các bên không thống


14

nhất với nhau về một vấn đề trong quá trình giao kết, hoặc trong quá trình
thực hiện hợp đồng có thể dẫn đến tranh chấp, khi đó một loạt vấn đề pháp lý
được đặt ra nhằm xét hiệu lực pháp lý của hợp đồng như: cơ quan nào có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp? Pháp luật được áp dụng giải quyết tranh
chấp của các bên là pháp luật nước nào?...Tất cả đều phụ thuộc vào các quy

định của hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng đó.
Hệ thống pháp luật được áp dụng đề xem xét hiệu lực của hợp đồng
chính là Luật áp dụng điều chỉnh quan hệ hợp đó.
Vậy nên, việc xác định Luật áp dụng đối với hợp đồng là một vấn đề có
ý nghĩa quan trọng, nó không chỉ quyết định trong việc xem xét giá trị pháp lý
của hợp đồng mà còn có ý nghĩa trong việc giải thích, bổ sung những khiếm
khuyết trong các hợp đồng có tính chất quốc tế, nhất là khi các bên giao kết
thường đến từ các quốc gia khác nhau, ít am hiểu về pháp luật, thông lệ của
nhau. Mục đích của việc xác định pháp luật áp dụng đối với hợp đồng là
nhằm bảo đảm trật tự, an toàn, sư ổn định và công bằng cho các bên.
1.2.1. Nguồn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Xuất phát từ quan điểm “ý chí tự nguyện” nên bản thân HĐMBHHQT
đã là một văn bản có tính pháp lý quy định quyền và nghĩa vụ của các bên ký
kết. Về mặt lý luận, nếu mọi quy định về quyền và nghĩa vụ được thỏa thuận
đầy đủ và chi tiết trong hợp đồng thì người ta không phải vận dụng đến các
nguồn luật khác. Song, trong thực tiễn ít có trường hợp này bởi vì không một
tổ chức, cá nhân nào có đủ điều kiện để thỏa mãn một bản hợp đồng chi tiết
đến mức không cần viện dẫn đến bất cứ nguồn luật nào. Cho dù
HĐMBHHQT được ký kết hoàn chỉnh, chi tiết đến đâu thì bản thân nó cũng
không thể dự kiến, chứa đựng tất cả những tình huống có thể phát sinh trong
thực tế. Chính vì vậy, HĐMBHHQT phải được điều chỉnh bằng những nguồn
luật nhất định. Đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, luật trong


15

nước sẽ đương nhiên được áp dụng, nghĩa là chỉ xem xét đến nguồn pháp luật
quốc gia. Trong khi đó, HĐMBHHQT do có yếu tố nước ngoài nên có nguồn
luật điều chỉnh phức tạp hơn, bao gồm điều ước quốc tế, pháp luật quốc gia,
tập quán thương mại và án lệ.

1.2.1.1. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế về mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận bằng văn bản
giữa các quốc gia, tổ chức quốc tế hoặc chủ thể khác của pháp luật quốc tế
trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm ấn định, thay đổi, hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong quan hệ có liên quan đến hàng hóa quốc
tế.
Một trong những vấn đề vô cùng quan trọng khi đề cập đến Điều ước
quốc tế là trong trường hợp nào điều ước quốc tế được áp dụng. Đó là những
trường hợp sau:
- HĐMBHHQT quy định.
- Hợp đồng không quy định, tuy nhiên quốc gia mà chủ thể mua bán
mang quốc tịch lại là thành viên điều ước quốc tế điều chỉnh lĩnh vực các bên
đang tham gia, nên nó đương nhiên là nguồn luật điều chỉnh cho hợp đồng.
Chẳng hạn, theo Điều 1 của CISG thì CISG được áp dụng cho các
HĐMBHHQT giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau
trong các trường hợp sau:
- Khi các quốc gia này là thành viên của CISG.
- Khi theo các quy tắc của Tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật
quốc gia thành viên của CISG.
Như vậy, những quy định trong CISG sẽ thay thế cho luật của bất kỳ
quốc gia nào là thành viên của CISG trong việc điều chỉnh các HĐMBHHQT.
Tuy nhiên, đó chỉ là giải pháp mang tính nguyên tắc bởi vì theo quy định tại
Điều 6 của CISG thì các bên tham gia hợp đồng được quyền loại trừ việc áp


16

dụng một phần hoặc toàn bộ CISG nếu như các bên không muốn áp dụng
CISG để điều chỉnh hợp đồng của mình. Điều đó cho thấy, ý chí của các bên
giao kết hợp đồng được ưu tiên. Sự ưu tiên đó thể hiện ở chỗ, nếu các bên có

thỏa thuận chọn luật áp dụng và sự thỏa thuận đó cho thấy các bên đã loại trừ
việc áp dụng CISG thì CISG sẽ không được áp dụng, cho dù các bên giao kết
hợp đồng có trụ sở tại các quốc gia là thành viên của CISG. Cho đến nay,
Công ước Viên được coi như một chuẩn mực của pháp luật quốc tế trong lĩnh
vực hợp đồng là “Luật Quốc tế về mua bán hàng hóa”.
Bên cạnh Công ước Viên 1980, còn có các điều ước quốc tế chứa đựng
các quy phạm xung đột như Công ước Lahaye 1955 về luật áp dụng đối với
việc mua bán các động sản hữu hình, Công ước Rome 1980 về luật áp dụng
đối với quan hệ nghĩa vụ hợp đồng được ký kết giữa các nước thuộc liên minh
châu Âu, Hiệp ước Mexico 1944 được 18 nước thuộc châu Mỹ La tinh ký
kết…cũng trở thành nguồn luật quan trọng, đươc các bên thường xuyên tham
chiếu áp dụng.
Trong mua bán hàng hóa quốc tế, Điều ước quốc tế có vai trò đặc biệt
quan trọng. Nó là công cụ pháp lý hữu hiệu để giải quyết xung đột pháp luật
và hạn chế việc áp dụng các quy phạm của pháp luật quốc gia. Sở dĩ nói hạn
chế việc áp dụng các quy phạm pháp luật quốc gia không phải vì việc áp dụng
chúng là không tốt, mà bởi vì: nó giúp tránh được những khó khăn thì phải
đàm phán lựa chọn luật quốc gia làm luật áp dụng cho hợp đồng. Trên thực tế,
việc lựa chọn luật quốc gia thường gặp phải rất nhiều khó khăn. Mỗi bên đều
muốn chọn luật của nước mình để áp dụng, nhằm tạo lợi thế cho mình vì họ
hiểu rõ về hệ thống pháp luật của họ, điều đó dẫn đến việc không bên nào
chịu nhường bên nào trên bàn đàm phán chọn luật. Mặt khác, việc lựa chọn
luật nước ngoài có thể đem lại những rủi ro pháp lý cho các doanh nghiệp do
thiếu sự hiểu biết đầy đủ về luật đó.


17

1.2.1.2. Luật quốc gia
Pháp luật quốc gia với tư cách là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua

bán hàng hóa của quốc gia đó. Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong những trường hợp sau đây:
Khi hợp đồng quy định: Các bên quy định về luật áp dụng là luật quốc
gia ngay từ giai đoạn đàm phán, ký kết hợp đồng, bằng cách chỉ rõ trong hợp
đồng rằng luật của một nước nào đó sẽ được áp dụng. Ví dụ: “Mọi vấn đề
không được quy định hoặc không quy định đầy đủ trong hợp đồng này sẽ
được giải quyết theo luật Việt Nam”. Hoặc “Các vấn đề phát sinh từ hoặc liên
quan đến hợp đồng này được giải quyết theo luật nước người bán”. Các bên
cũng có thể thỏa thuận luật áp dụng cho hợp đồng sau khi ký hợp đồng hoặc
tranh chấp đã phát sinh.
Khi hợp đồng mẫu quy định: Trong rất nhiều HĐMBHHQT, để tiết
kiệm thời gian, các bên thường chỉ quy định những nội dung cơ bản liên quan
đến đối tượng mua bán và giá cả. Những nội dung còn lại, các bên thường dẫn
chiếu đến hợp đồng mẫu. Hợp đồng mẫu thường được các tập đoàn, công ty
buôn bán lớn soạn thảo. Những hợp đồng mẫu này chỉ có giá trị khi được các
bên tham chiếu bằng cách chỉ rõ trong HĐMBHHQT rằng quyền và nghĩa vụ
của các bên được điều chỉnh bởi hợp đồng mẫu kèm theo. Trong trường hợp
này, hợp đồng mẫu sẽ có giá trị bắt buộc đối với các bên và nếu trong hợp
đồng mẫu có quy định điều khoản về luật áp dụng thì luật đó đương nhiên sẽ
là luật áp dụng cho HĐMBHHQT mà hai bên đã ký kết.
Khi Tòa án hoặc Trọng tài quyết định: Cơ quan giải quyết tranh chấp
bao gồm Tòa án và Trọng tài không chỉ có thẩm quyền xét xử mà còn có thẩm
quyền lựa chọn luật áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp. Do đó,
pháp luật quốc gia có thể được áp dụng nếu cơ quan giải quyết tranh chấp
quyết định sẽ áp dụng nguồn luật này cho hợp đồng.


18

Khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến: trong trường hợp này, các

bên không thỏa thuận luật áp dụng nhưng trong các nguồn luật liên quan có
quy phạm dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật của quốc gia nào đó thì pháp luật
được dẫn chiếu sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng. Ví dụ: để xác định
năng lực ký kết và thực hiện hợp đồng, tư pháp quốc tế của hầu hết các nước
đều quy định áp dụng luật quốc tịch của các bên chủ thể. Theo đó, pháp luật
của nước mà các bên chủ thể mang quốc tịch sẽ là pháp luật quy định về năng
lực pháp luật và năng lực hành vi giao kết hợp đồng của các bên. Vậy, ở đây
dù các bên không thỏa thuận luật áp dụng nhưng khi xác định năng lực pháp
luật của các bên chủ thể trong hợp đồng, người ta vẫn áp dụng pháp luật quốc
gia do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến để xem xét hiệu lực của hợp đồng về
tư cách chủ thể của các bên.
Như vậy, luật quốc gia của một nước có thể tác động đến mối quan hệ
của các bên trong HĐMBHHQT thông qua những cách tác động nêu trên, mà
những cách thức này đôi khi lại không được các bên chú ý.
1.2.1.3. Tập quán thương mại quốc tế
Với tư cách là những “chứng cứ thực tiễn chung được thừa nhận như
những quy phạm pháp luật”, tập quán quốc tế được coi là “luật giữa các
thương nhân” hay Lex mercatoriatrong thương mại quốc tế. Đây cũng là
nguồn thường được các doanh nghiệp lựa chọn đối với quan hệ thương mại
quốc tế nói chung và quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng, trong
trường hợp không có điều ước quốc tế hoặc không có pháp luật quốc gia điều
chỉnh, hoặc có nhưng quy định không đầy đủ. Đặc biệt, thực tiễn giao dịch
thương mại quốc tế thường có nội dung rất phức tạp, không ngừng thay đổi,
liên quan đến nhiều quan hệ phát sinh ở nhiều quốc gia khác nhau, trong khi
Luật Thương mại của mỗi quốc gia được xây dựng lên chỉ phù hợp với trình
độ phát triển và hoàn cảnh của quốc gia đó, mang tính ổn định và đặc thù của


19


mỗi quốc gia. Bởi vậy, cộng đồng các thương nhân trong giao thương quốc tế
đã tự xây dựng và hình thành từ những thói quen áp dụng thường xuyên, được
các bên thừa nhận…tạo ra một hệ thống các quy tắc ứng xử (mang tính tập
quán). Các quy phạm này mang tính phi nhà nước, nằm ngoài và độc lập với
hệ thống pháp luật quốc gia nên còn gọi là quy phạm có tính siêu quốc gia.
Không thể phủ nhận được vai trò quan trọng của tập quán thương mại
quốc tế trong hoạt động thương mại quốc tế vì đây là những nguyên tắc được
hình thành từ lâu đời, được áp dụng phổ biến trong các quan hệ quốc tế. Để
điều chỉnh các quan hệ pháp lý quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực mua bán hàng
hóa quốc tế, nhiều tập quán quốc tế đã được tập hợp, pháp điển hóa thành các
quy phạm luật thành văn của quốc gia và các điều ước quốc tế được xây dựng
chủ yếu dựa trên các quy phạm tập quán.
Tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng cho HĐMBHHQT trong
những trường hợp sau:
- HĐMBHHQT quy định.
- Các Điều ước quốc tế các bên lựa chọn tuy nhiên tại nội dung đó Điều
ước lại chỉ dẫn tới áp dụng tập quán.
Một trong những tập quán thông dụng trong thương mại quốc tế hiện
nay là các điều kiện thương mại quốc tế - Incoterm (International Commercial
Terms) do Phòng thương mại quốc tế - ICC ban hành năm 1936, được sửa đổi
bổ sung qua nhiều năm và gần đây nhất là 2010 có hiệu lực từ 01/01/2011.
Ngoài ra còn có một số tập quán thông dụng khác như Quy tắc chung về tập
quán và thực hành tín dụng chứng từ UCP 600, Bộ nguyên tắc của
UNIDROIT, Luật mẫu của trọng tài UNCITRAL ban hành năm 1985, Công
ước New York năm 1958.
Tuy nhiên, do tính chất tùy nghi của tập quán quốc tế (tập quán quốc tế
không có giá trị hiệu lực bắt buộc áp dụng), nên việc lựa chọn và áp dụng các


20


tập quán quốc tế cũng còn phụ thuộc vào sự công nhận của pháp luật của các
quốc gia và các điều ước quốc tế. Mặc dù vậy, trước xu thế toàn cầu hóa các
quan hệ thương mại quốc tế, cần thiết phải xây dựng được các quy tắc quốc tế
chung thống nhất điều chỉnh quan hệ hợp đồng quốc tế. Chính vì vậy, “các
nguyên tắc hợp đồng châu Âu” đã ra đời và tại châu Á – khu vực phát triển
năng động cũng đang có nhu cầu xây dựng “các nguyên tắc pháp luật hợp
đồng ASEAN” nhằm tạo điều kiện cho việc phát triển thương mại tại khu
vực, tăng cường độ an toàn và hiệu quả pháp lý cho các quan hệ hợp đồng.
1.2.2. Xác định pháp luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế
1.2.2.1. Pháp luật do các bên chủ thể lựa chọn áp dụng
Về lý thuyết, luật điều chỉnh nội dung hợp đồng trước hết là luật do các
bên thỏa thuận lựa chọn (vì bản thân nội dung hợp đồng là sự thỏa thuận của
các bên). Đó có thể là luật nơi giao kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp đồng,
luật của nước nơi có hàng hóa là đối tượng của hợp đồng,v.v…Các bên khi
giao kết hợp đồng có thể lựa chọn bất kỳ hệ thống pháp luật nào đề điều chỉnh
nội dung hợp đồng, miễn là việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật quốc gia có liên quan.
Các bên có thể lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng trong khi thỏa thuận
đàm phán hoặc sau khi ký kết hợp đồng tức là lúc tranh chấp đã phát sinh.
1.2.2.2. Pháp luật do cơ quan xét xử lựa chọn
Các chủ thể hợp đồng có quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng để giải
quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trên thực tế khi một tranh chấp liên quan đến
HĐMBHHQT phát sinh sẽ có trường hợp các bên không thỏa thuận luật áp
dụng hoặc thỏa thuận chung chung, luật do các bên lựa chọn không được chấp
nhận,…Trong những trường hợp như vậy, cơ quan giải quyết tranh chấp bao
gồm Tòa án và Trọng tài không chỉ có thẩm quyền xét xử mà còn có thẩm



×