Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã ở việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ THÙY VÂN

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ
TRONG HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM –
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những số liệu và ví dụ minh họa trong luận văn là chính xác, trung thực. Những
kết luận trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ một công trình
nghiên cứu nào khác.
ĐẶNG THỊ THÙY VÂN





1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Mô hình doanh nghiệp với phƣơng thức sản xuất kinh doanh tập thể trên
cơ sở sở hữu tập thể về tƣ liệu sản xuất có tên gọi là hợp tác xã xuất hiện lần đầu
tiên ở Anh vào năm 1844. Từ đó cho đến nay, hợp tác xã đã trở thành một loại
hình doanh nghiệp có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nhiều
nƣớc trên thế giới.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ nền kinh tế hành chính, bao cấp, kế hoạch hoá
tập trung, hợp tác xã là mô hình kinh tế chủ yếu nhằm phát huy sức mạnh tập
thể, phát huy tính xã hội hóa của ngƣời lao động và góp phần không nhỏ vào nền
kinh tế kế hoạch hóa thời đó. Hợp tác xã đã có những đóng góp đặc biệt trong
thời kỳ Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện sức ngƣời, sức của cho
Miền Nam trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thống nhất đất nƣớc.
Trong giai đoạn cả nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến nay), hợp tác xã
tiếp tục phát huy vai trò to lớn - là một trong những thành phần kinh tế nòng cốt
của kinh tế tập thể, nhất là trong lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp.
Ngày nay, với sự phát triển kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần, tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, Đảng và Nhà nƣớc ta đã ban hành
đƣờng lối, chính sách đổi mới quản lý kinh tế, trong đó có việc đổi mới tổ chức
và hoạt động của các hợp tác xã, nhằm đẩy mạnh phát triển nền kinh tế. Trong
nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, vai trò và hiệu quả hoạt động của các hợp
tác xã ngày càng đƣợc coi trọng và phát huy. Vì vậy, việc tiếp tục tìm hiểu và
đổi mới mô hình và cơ cấu quản lý trong nội bộ hợp tác xã vẫn là một vấn đề
mang tính thời sự và cấp thiết.
Một trong những yếu tố có tính chất quyết định hiệu quả hoạt động của
hợp tác xã chính là các cơ quan quản lý trong hợp tác xã. Các cơ quan quản lý

trong hợp tác xã có vai trò quan trọng, có chức năng quản lý, điều hành cũng
nhƣ chi phối toàn bộ hoạt động của hợp tác xã trên thực tế.


2

Do vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật
về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã là rất quan trọng.
Cùng với đó, việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực thi hành các
quy định pháp luật về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã
cũng hết sức cần thiết. Chính vì những lý do trên, học viên chọn vấn đề: “Địa vị
pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã ở Việt Nam – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với nhiều điểm ƣu việt của mình, hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp
khá phù hợp trong nền kinh tế của nhiều nƣớc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Từ trƣớc đến nay, tổ chức và hoạt động của hợp tác xã đã đƣợc nghiên cứu dƣới góc
độ kinh tế - xã hội cũng nhƣ dƣới góc độ Luật học. Tổ chức, hoạt động, cơ cấu quản
lý của hợp tác xã đã đƣợc một số tác giả nghiên cứu trong các công trình nhƣ sau:
Tổ chức và quản lý hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp (Phạm Đắc Duyên, Trần Hải
Hiệp, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1987). Đổi mới mô hình hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp ở huyện An Lão, Hải Phòng, (Lê Đình Thắng, Đoàn Văn Dân, Ngô
Đức Cát, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995). Khảo sát các hình thức tổ chức
hợp tác của nông dân nƣớc ta hiện nay (Đào Thế Tuân chủ biên - Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội, 1995). Luận cứ khoa học về đổi mới tổ chức, hoạt động và quản
lý Hợp tác xã trong nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta (Đề tài KX.03.15 do PGS.TS
Phạm Quang Quýnh làm chủ nhiệm đề tài, Hà Nội, 1995). Phát triển và đổi mới
quản lý Hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã (Nguyễn Văn Bích, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1997). Những vấn đề pháp lý về đổi mới tổ chức và quản lý các hợp tác
xã, Trần Thị Thơ, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2001. Đổi mới mô hình pháp

lý hợp tác xã - Liên hiệp hợp tác xã, Vũ Vân Anh, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội,
2012.
Nhƣ vậy, vấn đề quản lý hợp tác xã (bao gồm quản lý nhà nƣớc đối với hợp
tác xã và quản lý nội bộ hợp tác xã) nhìn chung đã đƣợc các tác giả xem xét và
nghiên cứu theo nhiều phƣơng diện và theo pháp luật về hợp tác xã trong nhiều thời


3

kỳ. Nhƣng từ 2012 (là năm Quốc hội thông qua Luật Hợp tác xã mới đến nay), chƣa
có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về địa vị pháp lý của cơ quan
quản lý trong hợp tác xã. Do vậy, có thể nói luận văn này sẽ mở đầu cho những
công trình nghiên cứu về các cơ quan quản lý trong nội bộ hợp tác xã theo Luật Hợp
tác xã (2012).
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định của các văn bản pháp luật
hiện hành về cơ cấu tổ chức và quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý (theo
nghĩa hẹp) trong hợp tác xã.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung nghiên cứu những quy định
hiện hành của pháp luật về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý (theo nghĩa hẹp)
trong hợp tác xã, bao gồm: Địa vị pháp lý của Đại hội thành viên, địa vị pháp lý của
Hội đồng quản trị, địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) của hợp tác xã.
Luận văn không nghiên cứu địa vị pháp lý của Ban kiểm soát trong hợp tác xã vì
Ban kiểm soát thuộc phạm trù các cơ quan quản lý của hợp tác xã theo nghĩa rộng.
Luận văn không nghiên cứu địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý của Liên hiệp
hợp tác xã.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn cũng có sự đối chiếu, so
sánh (trong chừng mực nhất định) các quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp
lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã với các quy định tƣơng ứng trong Luật
Doanh nghiệp (2005) và Luật Hợp tác xã của một số nƣớc trên thế giới.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn sử dụng phƣơng pháp luận biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng nhƣ dựa trên tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức, hoạt động của hợp tác xã.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phƣơng pháp phân tích, diễn giải đƣợc sử dụng khi nghiên cứu những vấn
đề lý luận về cơ quan quản lý trong hợp tác xã;


4

- Phƣơng pháp đánh giá, bình luận, so sánh, đối chiếu, khảo sát đƣợc sử dụng
khi nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về cơ quan quản lý trong hợp tác xã;
- Phƣơng pháp tổng hợp, bình luận… đƣợc sử dụng khi đề xuất phƣơng
hƣớng, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã và nâng cao hiệu quả của việc thi hành các
quy định pháp luật về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đề xuất phƣơng hƣớng và một số
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của các cơ quan
quản lý trong hợp tác xã và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã.
Để đạt đƣợc mục đích trên, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là:
+ Nghiên cứu các vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý
trong hợp tác xã.
+ Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của các cơ
quan quản lý trong hợp tác xã, có sự so sánh với các cơ quan quản lý trong một số
loại hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp (2005) và với Luật Hợp tác xã của
một số nƣớc trên thế giới.
+ Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong
hợp tác xã.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới vào kho tàng kiến thức về địa vị pháp lý
của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã nhƣ sau:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện các quy định của pháp luật
nhằm làm rõ địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã.
- So sánh, đối chiếu các quy định về cơ quan quản lý trong hợp tác xã với cơ
quan quản lý trong một số loại hình doanh nghiệp và theo Luật Hợp tác xã của một


5

số nƣớc trên thế giới, để thấy đƣợc những ƣu điểm và những nhƣợc điểm của các
quy định về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã ở Việt Nam.
- Kiến nghị phƣơng hƣớng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã ở
Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn có cơ
cấu gồm ba chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý
trong hợp tác xã ở Việt Nam
Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý
trong hợp tác xã ở Việt Nam.
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về
địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã.



6

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC CƠ
QUAN QUẢN LÝ TRONG HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HỢP TÁC XÃ
1.1.1. Khái niệm hợp tác xã
Hợp tác xã là mô hình kinh tế xuất hiện từ khá lâu trên thế giới, đƣợc định
nghĩa và quy định trong khuôn khổ pháp lý của từng quốc gia và thƣờng đƣợc
khẳng định tại chƣơng đầu tiên của hầu hết Luật Hợp tác xã của các nƣớc.
Luật Hợp tác xã của Cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa: Hợp tác xã là các
hiệp hội không hạn chế số lƣợng thành viên, mục đích khuyến khích thành viên
hành nghề hoặc làm kinh tế dựa vào doanh nghiệp tập thể (Điều 1).
Luật Hợp tác xã của Philippin quy định tại Điều 3: Hợp tác xã là một tổ chức
đƣợc đăng ký chính thức của một nhóm ngƣời có quan hệ lợi ích chung, tham gia tự
nguyện để cùng nhau đạt đƣợc các mục đích kinh tế và xã hội hợp pháp, có đóng
góp tƣơng đƣơng nhau về vốn, chấp nhận chia sẻ công bằng những thiệt hại cũng
nhƣ lợi ích của việc kinh doanh, phù hợp với nguyên tắc hợp tác xã đã đƣợc chấp
nhận phổ biến.
Ở Luật Hợp tác xã của Thái Lan (1968) thì hợp tác xã là một nhóm ngƣời
cùng tiến hành các công việc chung nhằm giúp đỡ lẫn nhau và đã đăng ký theo Luật
này (Điều 4). Theo đạo luật này, có hai dạng hợp tác xã là hợp tác xã trách nhiệm
hữu hạn và hợp tác xã trách nhiệm vô hạn đƣợc quy định rõ tại Điều 7.
Ở một số nƣớc trên thế giới, khái niệm hợp tác xã đã đƣợc luật hóa. Khái
niệm này đã đƣợc tham khảo để đƣa vào trong các quy định của pháp luật về hợp
tác xã của Việt Nam. Quan điểm về hợp tác xã của Việt Nam cũng tƣơng đối thống
nhất, phù hợp với quan điểm của các nƣớc trên thế giới. Theo Điều 1, Luật Hợp tác
xã (2003) thì: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình,
pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp
vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh tập thể của

từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt


7

động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Khái niệm hợp tác xã tiếp tục đƣợc sửa đổi và hoàn thiện ở Luật Hợp tác xã
(2012) nhƣ sau: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách
pháp nhân, do ít nhất 7 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn
nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu
chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ
trong quản lý hợp tác xã”.
1.1.2. Đặc điểm của hợp tác xã
Là một tổ chức kinh tế, hợp tác xã có một số đặc điểm nhƣ sau:
Thứ nhất, dƣới góc độ kinh tế, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế cơ bản và
quan trọng nhất của thành phần kinh tế tập thể. Đặc trƣng của hợp tác xã là hình
thức sở hữu tập thể về tƣ liệu sản xuất và dựa trên sở hữu của các thành viên hợp tác
xã, từ đó mà phát sinh các quan hệ sản xuất và quan hệ phân phối tƣơng ứng [6, tr.
235].
Thứ hai, xét về góc độ xã hội, hợp tác xã mang tính xã hội sâu sắc. Tuy
nhiên, hợp tác xã không phải là tổ chức xã hội mà chỉ mang tính xã hội [1, tr.10].
Những nguyên tắc tổ chức của hợp tác xã đã thể hiện tính xã hội của nó. Trong một
thị trƣờng có tính cạnh tranh và đẩy mạnh sự phát triển, hợp tác xã chính là tổ chức
tạo điều kiện tốt nhất cho những ngƣời lao động, những ngƣời sản xuất nhỏ và vừa
tham gia lao động sản xuất, xóa bớt gánh nặng về thất nghiệp. Tham gia tổ chức
hợp tác xã, ngƣời lao động còn đƣợc nâng cao tinh thần một cách đáng kể bởi tính
tƣơng trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong tổ chức này.
Thứ ba, xét dƣới góc độ pháp lý, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tƣ cách
pháp nhân. Điều 84, Bộ luật Dân sự (2005) quy định một tổ chức đƣợc công nhận là

pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: đƣợc thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với các cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Hợp tác xã có đầy đủ những điều kiện của một pháp nhân: Hợp tác xã đƣợc thành


8

lập hợp pháp theo quy định của pháp luật và có đăng ký kinh doanh; cơ cấu tổ chức
của hợp tác xã khá chặt chẽ, theo quy định của Luật Hợp tác xã (2012), hợp tác xã
là tổ chức kinh tế tập thể, do ít nhất 7 thành viên thành lập, hợp tác tƣơng trợ lẫn
nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh; hợp tác xã có tài sản, tự chủ tự chịu trách
nhiệm với tài sản của mình; trong các quan hệ pháp luật, hợp tác xã nhân danh
chính mình và độc lập tham gia các quan hệ đó.
Thứ tƣ, về tổ chức quản lý, hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc tự chủ và
tự chịu trách nhiệm [6, tr.236]. Nguyên tắc này cũng đƣợc quy định tại Điều 7 của
Luật Hợp tác xã (2012). Theo nguyên tắc này, hợp tác xã tự lựa chọn và quyết định
phƣơng án sản xuất kinh doanh, phân phối kết quả sản xuất kinh doanh, lập và trích
lập các quỹ, phân phối tiền lƣơng cho các thành viên hợp tác xã…Nói chung, mọi
vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của hợp tác xã đều do chính hợp tác xã tự
quyết định và tiến hành, trong khuôn khổ Điều lệ hợp tác xã và tuân thủ các quy
định của pháp luật.
Hiện nay, theo quy định của Luật Hợp tác xã (2012), hợp tác xã có những
điểm khá tƣơng đồng với một số loại hình doanh nghiệp. Nhƣng với tính chất là
một tổ chức kinh tế tập thể và tính xã hội sâu sắc của nó, hợp tác xã vẫn có những
điểm khác biệt nhất định, là một loại hình doanh nghiệp thu hút đông đảo ngƣời lao
động, phát huy sức mạnh tƣơng trợ nhau, rất cần thiết trong nền kinh tế thị trƣờng ở
nƣớc ta hiện nay.
1.2. MỘT SỐ KHÍA CẠNH VỀ CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ TRONG HỢP
TÁC XÃ Ở VIỆT NAM

Quản lý là sự tác động của chủ thể lên đối tƣợng theo mục tiêu nhất định. Để
thực hiện hoạt động quản lý cần phải có tổ chức và quyền uy.Tổ chức phân định rõ
ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của những ngƣời tham gia hoạt động chung.
Quyền uy đem lại khả năng áp đặt ý chí của chủ thể quản lý đối với các đối tƣợng
quản lý, bảo đảm sự phục tùng, chủ thể quản lý là cá nhân hay tổ chức - những đại
diện có quyền hạn và trách nhiệm liên kết, phối hợp những hoạt động riêng lẻ
hƣớng tới mục tiêu chung nhằm đạt đƣợc kết quả nhất định [2, tr.633]. Luật Hợp tác


9

xã (2012) không quy định thế nào là cơ quan quản lý trong hợp tác xã. Tuy nhiên,
có thể hiểu cơ quan quản lý trong hợp tác xã nói riêng là hệ thống các thiết chế điều
hành đảm bảo cho mọi hoạt động trong hợp tác xã nằm trong sự kiểm soát của các
cơ quan này và các hoạt động diễn ra đạt hiệu quả cao nhất.
Là những cơ quan đóng vai trò quan trọng trong một tổ chức, các cơ quan
quản lý có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
Thứ nhất, về thành phần: Cơ quan quản lý trong hợp tác xã bao gồm những
cơ quan quan trọng, đảm bảo điều hành mọi hoạt động trong hợp tác xã diễn ra hiệu
quả. Đó là Đại hội thành viên, Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc
trong hợp tác xã.
Thứ hai, về chức năng, nhiệm vụ: Các cơ quan quản lý giữ những chức năng,
nhiệm vụ cao nhất, và giải quyết những nhiệm vụ quan trọng nhất trong hợp tác xã.
Các cơ quan này có chức năng nhiệm vụ chính là quản lý điều hành mọi hoạt động
trong hợp tác xã, đảm bảo cho hợp tác xã hoạt động đƣợc hiệu quả.
Có thể nói, hoạt động của hợp tác xã có đạt hiệu quả cao hay không phụ
thuộc rất lớn và chủ yếu vào sự quản lý điều hành của các cơ quan quản lý. Thành
phần của các cơ quan quản lý bao gồm những bộ phận quan trọng nhất nắm giữ
chức năng điều hành, quản lý trong hợp tác xã. Các cơ quan này có vị trí hết sức
quan trọng, là những cơ quan đầu não chỉ đạo mọi hoạt động cũng nhƣ điều hành

trong hợp tác xã. Hợp tác xã có đạt hiệu quả kinh tế cao hay không kéo theo tính
chất xã hội của hợp tác xã có đạt đƣợc hay không phụ thuộc chủ yếu vào sự quản lý,
điều hành của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã. Các cơ quan quản lý có vai trò
quan trọng, quyết định toàn bộ hoạt động, tổ chức cũng nhƣ hiệu quả của các hoạt
động trong hợp tác xã. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý còn phối hợp hoạt động cùng
cơ quan khác trong hợp tác xã để tăng cƣờng hiệu quả hoạt động của hợp tác xã.
1.3. SO SÁNH CƠ QUAN QUẢN LÝ TRONG HỢP TÁC XÃ VỚI CƠ
QUAN QUẢN LÝ TRONG MỘT SỐ LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP Ở VIỆT
NAM


10

Địa vị pháp lý đƣợc hiểu là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với
các chủ thể khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Thông qua địa vị pháp lý có
thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác đồng thời cũng có thể
xem xét các vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ
pháp luật [2, tr.244]. Địa vị pháp lý đƣợc hiểu là tổng thể các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của doanh nghiệp đó, đƣợc pháp luật quy định đảm bảo sự độc lập về mặt
pháp lý và khả năng tham gia các quan hệ pháp luật [7, tr.32].
Cần so sánh địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã với các
cơ quan quản lý trong một số loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam để thấy đƣợc
những điểm tƣơng đồng và khác biệt của cơ quan này, làm rõ tính chất cũng nhƣ
hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý đối với từng loại hình doanh nghiệp và
đối với hợp tác xã. Các cơ quan quản lý trong hợp tác xã đƣợc so sánh với cơ quan
quản lý trong một số loại hình doanh nghiệp của Việt Nam, bao gồm Đại hội thành
viên, Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc.
* So sánh Đại hội thành viên trong hợp tác xã với Hội đồng thành viên trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và trong công ty hợp danh:
- Những điểm giống nhau:

Thứ nhất, Đại hội thành viên trong hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã (2012)
và Hội đồng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và
trong công ty hợp danh đều là những cơ quan chủ yếu, có quyền quyết định những
vấn đề quan trọng nhất của hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp
danh.
Thứ hai, Đại hội thành viên trong hợp tác xã và Hội đồng thành viên trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên với Hội đồng thành viên trong
công ty hợp danh bao gồm các thành viên trong hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty hợp danh, có hình thức thông qua các quyết định trong cuộc họp Đại
hội thành viên, Hội đồng thành viên và biểu quyết theo nguyên tắc đa số.
Thứ ba, pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội thành viên
trong hợp tác xã và Hội đồng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai


11

thành viên trở lên và trong công ty hợp danh giống nhau. Các cơ quan này đều có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng của công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp
tác xã và công ty hợp danh nhƣ: quyết định chiến lƣợc, phƣơng án hoạt động của
công ty, hợp tác xã; phê duyệt báo cáo tài chính; quyết định cơ cấu tổ chức quản lý;
các vấn đề nhƣ tăng, giảm vốn điều lệ, tổ chức lại, giảỉ thể hoặc yêu cầu phá sản đối
với hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, quyết định chấp
nhận hoặc khai trừ, chấm dứt tƣ cách thành viên trong hơp tác xã, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh…
- Những điểm khác nhau: Hợp tác xã là loại hình doanh nghiệp dựa trên sở
hữu tập thể về tƣ liệu sản xuất nên pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Đại hội thành viên trong hợp tác xã có một số điểm khác biệt so với quyền
hạn của Hội đồng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên và trong công ty hợp danh.
Thứ nhất, trong hợp tác xã, Luật Hợp tác xã (2012) quy định Đại hội thành

viên gồm có Đại hội thành viên thƣờng niên và Đại hội thành viên bất thƣờng; Đại
hội thành viên đƣợc tổ chức dƣới hình thức Đại hội toàn thể và Đại hội đại biểu.
Khoản 1, Điều 31, Luật Hợp tác xã (2012) Đại hội thành viên thƣờng niên do Hội
đồng quản trị triệu tập, Đại hội thành viên bất thƣờng do Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát hoặc Kiểm soát viên, hoặc thành viên của đại diện ít nhất 1/3 tổng số
thành viên hoặc hợp tác xã thành viên triệu tập theo quy định pháp luật. Trong công
ty trách nhiệm hữu hạn, Luật Doanh nghiệp (2005) không quy định hai hình thức
Hội đồng thành viên là bất thƣờng hay thƣờng kỳ. Khoản 1, Điều 50 Luật Doanh
nghiệp (2005) chỉ quy định Hội đồng thành viên đƣợc triệu tập bất cứ khi nào theo
yêu cầu của Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc theo yêu cầu của thành viên hoặc
nhóm thành viên. Đối với công ty hợp danh, Hội đồng thành viên cũng không đƣợc
chia thành Hội đồng thành viên thƣờng kỳ hay bất thƣờng. Chủ tịch Hội đồng thành
viên có quyền triệu tập họp Hội đồng thành viên khi xét thấy cần thiết hoặc theo yêu
cầu của thành viên hợp danh.


12

Thứ hai, trong cơ cấu Đại hội thành viên trong hợp tác xã không có chức
danh Chủ tịch. Chỉ có Chủ tịch Hội đồng quản trị trong hợp tác xã. Hội đồng thành
viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và trong công ty hợp
danh có chức danh Chủ tịch Hội đồng thành viên. Đây là ngƣời chuẩn bị và tổ chức
các cuộc họp của Hội đồng thành viên, giám sát việc thực hiện các quyết định của
Hội đồng thành viên.
Thứ ba, điều kiện tiến hành Đại hội đại biểu thành viên trong hợp tác xã
đƣợc quy định khá chặt chẽ. Khoản 4, Điều 30, Luật Hợp tác xã (2012) quy định số
lƣợng đại biểu tham dự Đại hội đại biểu thành viên do Điều lệ quy định phải đảm
bảo một tỷ lệ nhất định.
Tại Khoản 6, Điều 31, Luật Hợp tác xã (2012) quy định Đại hội thành viên
đƣợc tiến hành khi có ít nhất 75% tổng số thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc

đại biểu thành viên tham dự. Trƣờng hợp không đủ số lƣợng thành viên thì phải
hoãn Đại hội thành viên.
Đối với Hội đồng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn, Điều 51
Luật Doanh nghiệp (2005) quy định cuộc họp Hội đồng thành viên đƣợc tiến hành
khi có số thành viên dự họp đại diện ít nhất 75% vốn điều lệ, tỷ lệ cụ thể do Điều lệ
công ty quy định. Pháp luật chƣa có quy định cụ thể về điều kiện tiến hành cuộc họp
của Hội đồng thành viên trong công ty hợp danh.
Thứ tƣ, về tỷ lệ biểu quyết trong cuộc họp, đối với Đại hội thành viên trong
hợp tác xã, Luật Hợp tác xã (2012) quy định nghị quyết của Đại hội thành viên
đƣợc thông qua khi ít nhất 75% tổng số đại biểu có mặt biểu quyết tán thành. Đối
với Hội đồng thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
thì Luật Doanh nghiệp (2005) quy định tỷ lệ biểu quyết tính trên tỷ lệ % tổng số vốn
góp của các thành viên dự họp chấp thuận; đối với công ty hợp danh, Khoản 3 Điều
135, Luật Doanh nghiệp (2005), nếu Điều lệ công ty không quy định thì quyết định
một số vấn đề của Hội đồng thành viên phải đƣợc ít nhất 3/4 tổng số thành viên hợp
danh chấp thuận. Nhƣ vậy, tùy từng loại hình doanh nghiệp là công ty trách nhiệm
hữu hạn hay công ty hợp danh hoặc là hợp tác xã mà pháp luật có những quy định


13

khác nhau đối với điều kiện và tỷ lệ biểu quyết thông qua nghị quyết tại cuộc họp
Đại hội thành viên trong hợp tác xã hoặc Hội đồng thành viên trong công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc trong công ty hợp danh.
*So sánh Hội đồng quản trị trong hợp tác xã với Hội đồng quản trị trong
công ty cổ phần :
- Những điểm giống nhau:
Hội đồng quản trị trong hợp tác xã và Hội đồng quản trị trong công ty cổ
phần đều đƣợc pháp luật quy định là cơ quan quản lý của hợp tác xã và của công ty
cổ phần. Pháp luật quy định nhiệm kỳ của cơ quan này trong hợp tác xã và công ty

cổ phần nhƣ nhau, là 5 năm. Pháp luật quy định một số điểm giống nhau của Hội
đồng quản trị trong hợp tác xã và trong công ty cổ phần trong nhiệm vụ và quyền
hạn, cụ thể là tổ chức thực hiện nghị quyết của Đại hội thành viên; trình báo cáo tài
chính lên Đại hội thành viên đối với hợp tác xã và lên Đại hội đồng cổ đông trong
công ty cổ phần; quyết định cơ cấu, tổ chức quản lý của hợp tác xã và doanh
nghiệp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, thuê hoặc chấm dứt hợp đồng thuê Giám
đốc hoặc Tổng Giám đốc. Bên cạnh đó, nguyên tắc thông qua nghị quyết và biểu
quyết tại cuộc họp Hội đồng quản trị trong cả hợp tác xã và công ty cổ phần là
giống nhau, đều thông qua nghị quyết theo nguyên tắc đa số, mỗi thành viên Hội
đồng quản trị có một phiếu biểu quyết. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng
quản trị trong cơ cấu cơ quan quản lý của hợp tác xã và công ty cổ phần là giống
nhau. Trình tự, thủ tục cuộc họp Hội đồng quản trị đƣợc pháp luật quy định chặt
chẽ.
*Những điểm khác nhau trong địa vị pháp lý của Hội đồng quản trị trong
công ty cổ phần và trong hợp tác xã.
Với tính chất của hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, Luật Hợp tác xã
(2012) có những quy định riêng biệt về Hội đồng quản trị so với Hội đồng quản trị
trong công ty cổ phần do Luật Doanh nghiệp (2005) quy định. Cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, về số lƣợng thành viên: Hội đồng quản trị theo Luật Hợp tác xã
(2012) do Điều lệ quy định, nhƣng tối thiểu là 3 ngƣời, tối đa là 15 ngƣời. Hội đồng


14

quản trị của công ty cổ phần theo quy định tại Khoản 1, Điều 109, Luật Doanh
nghiệp (2005) có không ít hơn 3 thành viên, không quá 11 thành viên, nếu Điều lệ
công ty không có quy định. Nhƣ vậy, Luật Hợp tác xã (2012) quy định khá chặt chẽ
về số lƣợng thành viên Hội đồng quản trị, Luật Hợp tác xã (2003) chỉ quy định số
lƣợng thành viên của Ban quản trị do Điều lệ hợp tác xã quy định. Hơn nữa, Luật
Hợp tác xã (2012) quy định về số lƣợng thành viên Hội đồng quản trị trong hợp tác

xã nhiều hơn số lƣợng thành viên trong Hội đồng quản trị của công ty cổ phần. Điều
này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã hoạt động. Việc thu hút số lƣợng
lớn thành viên vào Hội đồng quản trị nhằm phát huy đƣợc các kinh nghiệm và năng
lực quản lý của các thành viên hợp tác xã.
Thứ hai, một số điểm khác trong nhiệm vụ và quyền hạn giữa Hội đồng quản
trị trong hợp tác xã với Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp với nguồn vốn tích lũy lớn từ các
cổ đông, có những công ty cổ phần có cổ đông trên nhiều nƣớc trên thế giới. Pháp
luật doanh nghiệp có những quy định đặc thù về quyền hạn và nhiệm vụ của Hội
đồng quản trị với tính chất là cơ quan quản lý của công ty cổ phần. Hội đồng quản
trị trong công ty cổ phần có một số nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc quy định tại khoản 2,
Điều 108, Luật Doanh nghiệp (2005). Đây là những nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp
luật quy định riêng cho Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần, đặc trƣng và phù
hợp với loại hình doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tƣ lớn, vốn đƣợc chia thành các
cổ phần thuộc sở hữu của các cổ đông.
Đối với Hội đồng quản trị trong hợp tác xã, Luật Hợp tác xã (2012) cũng có
những quy định riêng để phù hợp với loại hình tổ chức kinh tế này. Luật Hợp tác xã
(2012) quy định Hội đồng quản trị có nhiệm vụ trong việc quản lý, sử dụng các quỹ
của hợp tác xã; chuyển nhƣợng, thanh lý, xử lý tài sản lƣu động của hợp tác xã do
Đại hội thành viên giao.
* So sánh địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong hợp tác xã với
Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong công ty cổ phần:
Những điểm giống nhau:


15

Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong hợp tác xã hay công ty cổ phần có thể là
thành viên Hội đồng quản trị do Hội đồng quản trị bổ nhiệm hoặc thuê Giám đốc
(Tổng Giám đốc). Đây là chức vụ có quyền và nhiệm vụ điều hành công việc hàng

ngày trong hợp tác xã, công ty cổ phần.
Bên cạnh đó, Luật Hợp tác xã và Luật Doanh nghiệp cũng có những quy
định khá trùng hợp về quyền hạn và nhiệm vụ của Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong
hợp tác xã và công ty cổ phần.
*Một số điểm khác biệt trong địa vị pháp lý của Giám đốc (Tổng giám đốc)
trong công ty cổ phần và trong hợp tác xã:
Thứ nhất, về nhiệm kỳ: Luật Hợp tác xã (2012) không quy định giới hạn
nhiệm kỳ đối với chức vụ Giám đốc (Tổng Giám đốc). Đối với công ty cổ phần,
Khoản 2, Điều 116, Luật Doanh nghiệp (2005) quy định nhiệm kỳ của Giám đốc
(Tổng Giám đốc) không quá 5 năm, có thể đƣợc bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ
không hạn chế. Công ty cổ phần là công ty đối vốn. Pháp luật quy định giới hạn
nhiệm kỳ và việc bổ nhiệm lại đối với Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần
nhằm đổi mới sự quản lý, điều hành công ty, tránh các nguy cơ tƣ lợi.
Thứ hai, về tiêu chuẩn và điều kiện của Giám đốc (Tổng Giám đốc): Khoản
2, Điều 116, Luật Doanh nghiệp (2005) quy định tiêu chuẩn hoặc điều kiện của
Giám đốc (Tổng Giám đốc) áp dụng theo quy định tại Điều 57, Luật Doanh nghiệp
(2005), cụ thể là: có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tƣợng bị cấm
quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp; là cá nhân sở hữu ít
nhất 10% vốn điều lệ của công ty hoặc ngƣời không phải là thành viên công ty, có
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong các
ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy
định tại Điều lệ công ty. Ngoài ra, đối với công ty con của công ty cổ phần, vốn
góp, cổ phần của nhà nƣớc chiếm trên 50% vốn điều lệ, thì ngoài các tiêu chuẩn và
điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 57, Giám đốc (Tổng Giám đốc) không đƣợc là
vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của
ngƣời quản lý và ngƣời có thẩm quyền bổ nhiệm ngƣời quản lý của công ty mẹ.


16


Đây là những quy định khá phù hợp nhằm đảm bảo sự khách quan trong việc đảm
nhiệm chức vụ này. Nhƣ vậy, cá nhân giữ chức vụ Giám đốc (Tổng Giám đốc) công
ty cổ phần, nếu là thành viên trong công ty, đòi hỏi phải sở hữu một tỷ lệ vốn nhất
định. Trong khi đó, ở hợp tác xã không cần điều kiện này. Thành viên hợp tác xã
chỉ cần có năng lực quản lý điều hành, có tâm huyết với sự phát triển của hợp tác xã
là có thể ứng cử vào chức vụ này. Đây là sự khác biệt giữa công ty cổ phần với hợp
tác xã, thể hiện đặc trƣng của hợp tác xã là sự quản lý dân chủ, bình đẳng, vì lợi ích
kinh tế tập thể trong hợp tác xã.
Đối với Giám đốc (Tổng Giám đốc) trong hợp tác xã, pháp luật chƣa có quy
định cụ thể về điều kiện đối với cá nhân giữ chức vụ này.
Luật Hợp tác xã (2012) và Luật Doanh nghiệp (2005) có những quy định
giống nhau đối với các cơ quan quản lý trong hợp tác xã và với các loại hình doanh
nghiệp vì đây là những cơ quan quản lý đóng vai trò quan trọng trong các loại hình
doanh nghiệp này. Pháp luật muốn tạo ra sự đồng bộ trong những quy định với các
loại hình doanh nghiệp và hợp tác xã vì bản chất của hợp tác xã với các loại hình
doanh nghiệp cũng có nhiều nét tƣơng đồng, pháp luật quy định nhƣ vậy nhằm tạo
sự bình đẳng trong địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý giữa các loại hình doanh
nghiệp với nhau và với hợp tác xã, đảm bảo cho các loại hình doanh nghiệp và hợp
tác xã hoạt động hiệu quả.
Bên cạnh đó, tùy vào từng loại hình doanh nghiệp hay hợp tác xã mà pháp
luật có những quy định khác nhau về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý. Công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty đối vốn. Các loại hình doanh
nghiệp này rất coi trọng số vốn đóng góp của các thành viên công ty. Vốn chi phối
và quyết định toàn bộ hoạt động của công ty, quyền lực trong công ty cổ phần sẽ
thuộc về ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty [ 11]. Đối với hợp tác xã, một tổ
chức kinh tế có nguyên tắc tổ chức và hoạt động là tự nguyện, quản lý dân chủ,
cùng có lợi và sự bình đẳng thì không chỉ coi trọng vốn góp của các thành viên khi
họ tham gia vào hợp tác xã. Ở hợp tác xã, mỗi thành viên có thể có phần vốn góp rất
ít, song có tâm huyết với sự phát triển và hoạt động của hợp tác xã, có năng lực



17

quản lý, có trình độ chuyên môn cao thì vẫn có thể ứng cử làm Giám đốc (Tổng
Giám đốc) của hợp tác xã. Đây là sự thể hiện của tính chất dân chủ và đặc trƣng ƣu
việt, là sự bình đẳng của các thành viên khi tham gia hợp tác xã.
1.4. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁ TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ TRONG HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM
Cơ quan quản lý trong hợp tác xã là bộ phận xƣơng sống của hợp tác xã.
Ngay từ đầu những năm 60, Đảng và Nhà nƣớc ta đã ban hành những chính sách và
pháp luật về địa vị pháp lý của các cơ quan quản lý trong hợp tác xã. Chính sách và
pháp luật này đã đƣợc thể chế hóa cụ thể hóa trong những bản Điều lệ của các loại
hình hợp tác xã trong thời kỳ đó.
Chƣơng 9 Điều lệ mẫu của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp (1959)
đã có những quy định đầu tiên về các cơ quan quản lý trong hợp tác xã. Đối với Đại
hội xã viên, điều lệ này quy định đây là cơ quan cao nhất của hợp tác xã, có quyền
hạn và nhiệm vụ quyết định những vấn đề quan trọng nhất của hợp tác xã. Do hoàn
cảnh đất nƣớc thời kỳ này, nền kinh tế còn khó khăn, nông nghiệp mới bƣớc đầu
phát triển, Đại hội xã viên có thẩm quyền đặc trƣng là xét và quyết định việc trả hoa
lợi cho ruộng đất.
Về Ban quản trị, Điều 36 Điều lệ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp
(1959) chƣa nói rõ đây là cơ quan quản lý của hợp tác xã mà chỉ quy định về một số
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này.
Chức danh Chủ nhiệm hợp tác xã lần đầu tiên đƣợc đề cập nhƣng chƣa có
quy định cụ thể mà chỉ nêu Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm hợp tác xã hay các ủy viên
khác của Ban quản trị tùy theo công việc của hợp tác xã mà phân công phụ trách
một số công tác nhất định. Điều 38 Điều lệ này cũng quy định Chủ nhiệm hợp tác
xã mỗi năm bầu lại một lần, ngƣời cũ có thể đƣợc bầu lại. Điều lệ cũng chƣa quy
định rõ tiêu chuẩn đối với cá nhân giữ chức vụ Chủ nhiệm hợp tác xã mà chỉ nêu ra
quy định chung về tiêu chuẩn những ngƣời đƣợc bầu vào Ban quản trị và Ban kiểm

soát.


18

Năm 1969, Điều lệ tóm tắt hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đƣợc thông qua.
Chƣơng ba và chƣơng bốn bản Điều lệ đã trình bày những nét sơ lƣợc về địa vị
pháp lý của các cơ quan này, gồm có Đại hội xã viên hay Đại hội đại biểu xã viên,
Ban quản trị và Ban kiểm soát.
Chƣơng 3 Bản điều lệ tóm tắt quy định Đại hội xã viên (hoặc Đại hội đại
biểu xã viên nếu là hợp tác xã có đông thành viên) là cơ quan cao nhất của hợp tác
xã, có quyền hạn, nhiệm vụ nhất định. Những quy định này còn hết sức sơ lƣợc và
tóm tắt, chƣa đề cập một cách tổng quát về nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội xã
viên, chƣa xác định và phát huy đúng vai trò, vị trí của cơ quan quản lý này trong
hợp tác xã. Nguyên nhân lý giải điều này là do hoàn cảnh xã hội thời đó, hợp tác xã
là tổ chức kinh tế mới đƣợc hình thành, do trình độ hiểu biết của ngƣời dân còn
nhiều hạn chế, nên những vấn đề về hợp tác xã nói chung và đối với các cơ quan
quản lý nói riêng cần đƣợc đề cập một cách ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu để mọi
ngƣời dễ tiếp thu, dễ lĩnh hội đƣợc những kiến thức về một tổ chức kinh tế tập thể
sản xuất nông nghiệp.
Đối với Ban quản trị, bản Điều lệ tóm tắt cũng có những quy định nhƣ: quy
định Ban quản trị và Ban kiểm soát là những cơ quan quản lý của hợp tác xã, cùng
với những chức danh Đội trƣởng, Đội phó đội sản xuất.
Điều lệ có những quy định về quyền hạn của Ban quản trị và những quy định
bƣớc đầu khẳng định vị trí, vai trò của Ban quản trị đối với hợp tác xã. Điều lệ
khẳng định Ban quản trị là cơ quan chấp hành của Đại hội xã viên, đây là điểm mới,
tiến bộ hơn trong việc quy định vị trí và tính chất của Ban quản trị hợp tác xã, có
chức năng tổ chức thực hiện Điều lệ, nội quy của hợp tác xã, giúp hợp tác xã hoạt
động tốt hơn.
Tuy nhiên, bản Điều lệ tóm tắt của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (1969)

chƣa đề cập đến chức danh Chủ nhiệm hợp tác xã, một trong những chức danh quan
trọng trong hệ thống cơ quan quản lý của hợp tác xã.
Sau quá trình xây dựng và thi hành những bản Điều lệ mẫu của hợp tác xã
năm 1959, năm 1969, Luật Hợp tác xã đầu tiên đã đƣợc xây dựng vào năm 1996.


19

Kể từ đó, tổ chức và hoạt động của hợp tác xã đƣợc điều chỉnh bởi văn bản quy
phạm pháp luật hoàn chỉnh, chặt chẽ và có giá trị pháp lý cao. Cơ quan quản lý
trong hợp tác xã đƣợc quy định trong mục tổ chức và quản lý trong hợp tác xã, từ
Điều 26 đến Điều 35 Luật Hợp tác xã (1996). Số lƣợng điều luật và những khoản
trong điều quy định về từng cơ quan quản lý. So với những văn bản pháp quy trƣớc
đó, Luật Hợp tác xã (1996) có sự đổi mới quy định chi tiết hơn về cơ cấu, tổ chức,
nhiệm vụ quyền hạn của mỗi cơ quan quản lý.
Về Đại hội xã viên, Luật Hợp tác xã (1996) quy định Đại hội xã viên có
quyền quyết định cao nhất trong hợp tác xã. So với các bản Điều lệ trƣớc, Luật Hợp
tác xã (1996) có bổ sung và thêm mới một số nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội xã
viên, nhƣ: báo cáo kết quả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong năm của hợp tác xã,
báo cáo hoạt động của Ban quản trị và Ban kiểm soát; tăng, giảm vốn điều lệ; trích
lập các quỹ của hợp tác xã, chia tách, giải thể hợp tác xã quyết định mức thù lao cho
Chủ nhiệm và các thành viên khác của Ban quản trị, Ban kiểm soát và các chức
danh khác của hợp tác xã. Luật Hợp tác xã (1996) cũng có những quy định chặt chẽ,
cụ thể hơn về thời hạn thông báo triệu tập Đại hội xã viên, số lƣợng đại biểu và cách
thức biểu quyết thông qua nghị quyết trong Đại hội xã viên (Điều 28, 29).
Về Ban quản trị trong hợp tác xã, Luật Hợp tác xã (1996) quy định về vị trí,
vai trò của Ban quản trị, nhiệm kỳ, tiêu chuẩn thành viên Ban quản trị, nhiệm vụ,
quyền hạn của Ban quản trị và của Chủ nhiệm hợp tác xã. Trong Luật Hợp tác xã
(1996), địa vị pháp lý của Ban quản trị hợp tác xã đã đƣợc quy định một cách chặt
chẽ, hoàn thiện hơn so với những quy định trong các bản Điều lệ Hợp tác xã trƣớc

đây, cụ thể ở những điểm sau:
Thứ nhất, Luật Hợp tác xã (1996) quy định Ban quản trị là cơ quan quản lý
và điều hành mọi công việc của hợp tác xã, do Đại hội xã viên bầu trực tiếp, gồm
Chủ nhiệm hợp tác xã và các thành viên khác, hợp tác xã có quy mô lớn có thể bầu
Hội đồng quản trị để thực hiện nhiệm vụ của Ban quản trị.
Thứ hai, Luật Hợp tác xã (1996) có những quy định về nhiệm kỳ của Ban
quản trị, quy định về cuộc họp hợp lệ, cách thức biểu quyết thông qua các quyết


20

định, tiêu chuẩn của thành viên của Ban quản trị. Những quy định này nhằm hoàn
thiện về cơ cấu và cách thức hoạt động của Ban quản trị trong hợp tác xã nhằm từng
bƣớc kiện toàn một trong những cơ quan quản lý đóng vai trò quan trọng trong hợp
tác xã.
Thứ ba, về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban quản trị hợp tác xã, Luật Hợp tác
xã (1996) có những quy định phù hợp hơn quá trình chuyển đổi kinh tế từ nền kinh
tế bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng. Những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
Ban quản trị trong Luật Hợp tác xã (1996) đƣợc trình bày theo hƣớng ngắn gọn, súc
tích, bỏ một số quy định không còn phù hợp, bổ sung một số quy định mới nhƣ
chọn cử Kế toán trƣởng, tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đại hội xã viên,
chuẩn bị báo cáo về kế hoạch sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và huy động vốn của
hợp tác xã, đánh giá kết quả sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của hợp tác xã. Ở thời
điểm này, hợp tác xã vẫn là tổ chức kinh tế tập thể nhƣng tính chất kinh tế của hợp
tác xã đã thể hiện một cách rõ nét. Luật Hợp tác xã đã quy định việc Ban quản trị
quản lý, điều hành hoạt động về kinh doanh, dịch vụ, sản xuất, huy động vốn đối.
Thứ tƣ, Luật Hợp tác xã (1996) đã bỏ những quy định về một số chức danh
nhƣ Kế toán trƣởng, Đội trƣởng, Đội phó đội sản xuất, bỏ quy định về đào tạo và
bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật của hợp tác xã. Luật Hợp tác xã
(1996) vẫn giữ những quy định về Chủ nhiệm hợp tác xã, có bổ sung và thêm

những quy định mới cho hoàn thiện hơn. Đặc biệt, Luật Hợp tác xã (1996) đã khẳng
định Chủ nhiệm hợp tác xã là đại diện của hợp tác xã trƣớc pháp luật, chịu trách
nhiệm trƣớc Đại hội xã viên và Ban quản trị về công việc đƣợc giao.
Luật Hợp tác xã (2003) trên cơ sở kế thừa những quy định trong Luật Hợp
tác xã (1996) về các cơ quan quản lý trong hợp tác xã, các quy định về Đại hội xã
viên, Ban quản trị, Ban kiểm soát nhìn chung vẫn đƣợc quy định tƣơng tự nhƣ Luật
Hợp tác xã (1996) nhƣng có bổ sung hoàn thiện hơn. Có thể nêu một số điểm cụ thể
nhƣ sau:
Thứ nhất, các quy định về Đại hội xã viên hợp tác xã cơ bản giống với các
quy định trong Luật Hợp tác xã (1996). Đó là các quy định về vị trí, vai trò của Đại


21

hội xã viên, về cuộc họp thƣờng kỳ và bất thƣờng của Đại hội xã viên, số lƣợng đại
biểu và biểu quyết trong Đại hội xã viên, thông báo triệu tập Đại hội xã viên, quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội xã viên. Luật Hợp tác xã (2003) có bổ
sung một quy định mới trong nhiệm vụ quyền hạn của Đại hội xã viên, đó là Đại hội
xã viên thảo luận và quyết định thành lập riêng hay không thành lập riêng bộ máy
quản lý và bộ máy điều hành hợp tác xã.
Thứ hai, về Ban quản trị hợp tác xã. Điều 25 Luật Hợp tác xã (2003), quy
định Ban quản trị hợp tác xã là cơ quan quản lý hợp tác xã do Đại hội xã viên bầu
trực tiếp, gồm Trƣởng Ban quản trị và các thành viên khác. Điều 30 Luật Hợp tác
xã (1996) quy định thành phần Ban quản trị gồm Chủ nhiệm hợp tác xã và các
thành viên khác. Cơ sở về việc có sự quy định khác nhau này là do Luật Hợp tác xã
(2003) quy định tách riêng hai trƣờng hợp là hợp tác xã thành lập một bộ máy vừa
quản lý vừa điều hành và trƣờng hợp hợp tác xã thành lập riêng bộ máy quản lý và
bộ máy điều hành. Luật Hợp tác xã (2003) quy định về nhiệm vụ quyền hạn của
Ban quản trị trong hai trƣờng hợp khác nhau đó. Đối với trƣờng hợp hợp tác xã
thành lập một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành, Chủ nhiệm hợp tác xã là đại diện

theo pháp luật của hợp tác xã. Mô hình này đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp những
ngƣời trong Ban quản trị vừa đóng góp vốn nhiều, vừa có trình độ quản lý và năng
lực điều hành công việc hàng ngày của hợp tác xã. Bên cạnh đó, một thành viên của
Ban quản trị (thƣờng là Trƣởng Ban quản trị) kiêm luôn chức vụ Chủ nhiệm hợp tác
xã và là ngƣời đại diện theo pháp luật của hợp tác xã. Với trƣờng hợp hợp tác xã
thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành thì Trƣởng Ban quản trị là đại
diện của hợp tác xã theo pháp luật. Mô hình này đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp
thành viên Ban quản trị không có kỹ năng điều hành công việc hàng ngày của hợp
tác xã. Vì vậy, Ban quản trị có thể cử ngƣời khác làm Chủ nhiệm hợp tác xã hoặc
thuê ngƣời ngoài không phải là xã viên làm Chủ nhiệm hợp tác xã, nếu ngƣời này
có năng lực và đƣợc đào tạo, có kinh nghiệm điều hành hợp tác xã. Khi ngƣời ngoài
đƣợc thuê làm Chủ nhiệm hợp tác xã, họ sẽ là ngƣời làm công hƣởng lƣơng của hợp
tác xã, đƣợc bàn bạc góp ý đối với các công việc của hợp tác xã nhƣng họ không có


×