Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đối với người chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.91 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN QUỲNH HOA

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI KIÊN ĐIỆN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Trần Quỳnh Hoa



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

NCTN

Người chưa thành niên

TAND

Tòa án nhân dân

THTT


Tiến hành tố tụng

TTHS

Tố tụng hình sự

UBND

Ủy ban nhân dân

VKS

Viện Kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN

5

VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ

TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1.

Một số vấn đề chung về người chưa thành niên trong tố tụng hình sự

5

1.2.

Khái niệm và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ,

11

quyền hạn và trách nhiệm của kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng
đối với người chưa thành niên
1.3.

Những yêu cầu và điều kiện đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn

31

và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đối với
người chưa thành niên
Kết luận chương 1

41

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG

41


CAO CHẤT LƯỢNG VIỆC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ
TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ
TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
2.1. Thực trạng việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm

41

sát viên trong hoạt động tố tụng đối với người chưa thành niên
2.2. Dự báo tình hình người chưa thành niên phạm tội và giải pháp nhằm

58

nâng cao hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đối với người chưa thành niên
Kết luận chương 2

68

KẾT LUẬN

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tình cấp thiết của đề tài.

Trong mọi thời kỳ lịch sử, thế hệ trẻ là thế hệ tương lai của đất nước, là thế hệ kế
tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là thế hệ làm chủ và phát triển kinh tế - xã
hội đất nước. Ở Việt Nam, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội,
thế hệ trẻ luôn được tạo điều kiện để tu dưỡng, rèn luyện, phát triển đầy đủ về thể chất,
trí tuệ và đạo đức. Trong công cuộc đổi mới, đất nước ta đã gặt hái được nhiêu thành
tựu to lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhưng không thể phủ nhận những mặt tiêu cực vẫn còn bộc lộ ảnh hưởng đến sự phát
triển chung như: số trẻ em thanh thiếu niên lang thang cơ nhỡ, bị lạm dụng sức lao
động chưa có xu hướng giảm đang là vấn đề bức súc của toàn xã hội. Đáng lưu ý là số
ít người trẻ hiện đang là đối tượng bị ảnh hưởng, tác động của các tệ nạn xã hội, trong
đó có một số bộ phận nhỏ không làm chủ được bản thân, có lối sống buông thả, không
lành mạnh, có các hành vi vi phạm pháp luật hoặc phạm tội. Theo số liệu thống kê,
trung bình cứ 10 người phạm tội thì có 01 người là NCTN.
Để đối mặt với tình trạng trên, toàn xã hội đang thực hiện nhiều giải pháp ngăn
chặn tình trạng NCTN phạm tội gia tăng. VKSND là một trong các cơ quan tiến hành
tố tụng hình sự với chức năng nhiệm vụ là thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp mà đại diện là Kiểm sát viên khi tham gia hoạt động tố tụng đối với
những vụ án có bị can, bị cáo là NCTN thời gian qua đã có nhiều hình thức biện pháp
nâng cao chất lượng công tác, đặc biệt là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp.
Thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”, việc cụ thể hóa các giai đoạn của pháp luật trong hoạt động tố tụng được
VNKSND rất quan tâm, nhất là những quyết định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng hình sự, vì thế công tác của VKSND
trong những năm qua đã đạt nhiều kết quả đang khích lệ. Vị thế của VKSND đã được
nâng cao lên trong xã hội; góp phần nâng cao, niềm tin của xã hội, của người dân với
chế độ xã hội nói chung và với các Cơ quan tư pháp nói reeng. Tuy vậy, trong thực tế
chất lượng, hiệu quả công tác của VKSND nói chung, của Kiểm sát viên nói riêng

trong hoạt động tố tụng hình sự còn nhiều tồn tại yếu kém. Số bị can phải đình chỉ điều
tra, số bị cáo được Tòa án tuyên không phạm tội, tình trạng vi phạm tố tụng trong tạm
giữ, tam giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xẻ, thi hành án vẫn còn xảy ra, thậm chí xảy
ra với cả những vụ án có người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án là NCTN.


2

Nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát, nhất là góp phần vào việc
nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện các quyết định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đối với NCTN
cũng như việc nâng cao chất lượng thực hiện những quyết định đó, tôi lựa chọn đề tài:
“Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đối
với người người chưa thành niên” để làm đề tài nghiên cứu viết luận văn tốt nghiệp
khóa học cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua. Đổi mới tổ chức
và hoạt động của VKSND, làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm
sát viên đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học và cac nhà quản lý chỉ đạo thực
tiễn
Đã có nhiều công trình khoa học, bài viết chuyên đề, … có liên quan về quyền
hạn nhiệm vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong TTHS có thể kể ra:
- Công trình đã in thành sách: Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư Pháp, Hà Nội,
2005; Dương Thanh Biểu: Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư Pháp, Hà Nội,
2007.
- Các đề tài khoa học cấp trường: Trường Đại học Luật Hà Nội, Lý Văn Quyền
(chủ nhiệm): Tình hình phạm pháp về ma tuý do người chưa thành niên thực hiện trên
địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội, 2003; Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Cao Việt

Cường (chủ nhiệm): Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của Kiểm sát viên
trong công tác THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, Hà Nội, 2013…
- Các luận án tiến sĩ: Đỗ Thị Phượng, “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ
tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2008; Lê Minh Thắng, “Đảm bảo quyền
của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011;…
- Các luận văn thạc sĩ: Nguyễn Trọng Nghĩa, “Người tiến hành tố tụng trong Viện
kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự”, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội,
Hà Nội, 2010; Hoàng Hải Yến, “Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên
trong tố tụng hình sự”, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, năm 2013; Trần Mạnh
Đông, “Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tố tụng hình sự - Một yêu
cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2009;…
- Bài báo: Bùi Thành Chung, “Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm tội
phạm do người chưa thành niên gây ra - cơ sở có tính pháp lí quan trọng để phòng
ngừa, điều tra tội phạm và xử lí người chưa thành niên phạm tội”,


3

/>Phạm
Quốc Uy, “Khó khăn khi áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội”, …
Nhìn chung, tình hình nghiên cứu về thủ tục tố tụng đối với NCTN và về nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng các vụ án hình
sự của các tác giả kể trên đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, các công
trình khoa học và bài viết nêu trên mới chỉ đề cập đến nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Kiểm sát viên trong một phạm vi hạn chế, kết quả nghiên cứu của các công
trình này cũng cho thấy, tuy là một chế định cơ bản về người tiến hành tố tụng trong

luật tố tụng hình sự nhưng chế định Kiểm sát viên vẫn chưa được lưu tâm một cách
thỏa đáng và còn chứa đựng rất nhiều tranh luận, đặc biệt là chưa có công trình nào đề
cập trực tiếp đến vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong các
hoạt động tố tụng đối với NCTN. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể
và toàn diện hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ.
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của KSV trong hoạt
động tố tụng đối với NCTN nhằm đề xuất các kiến nghị lập pháp và các giải pháp nâng
cao hiệu quả việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đó.
- Với mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ các khái niệm: NCTN, NCTN trong TTHS, đặc điểm tâm sinh lý của
NCTN, tình hình NCTN phạm tội trong 5 năm trở lại đây;
+ Làm rõ những quy định trong pháp luật TTHS và những văn bản pháp luật có
liên quan về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố
tụng đối với NCTN;
+ Làm rõ thực trạng, thực hiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm
của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đối với người NCTN và đề xuất được những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thể hiện những quy định đó trong thực tiễn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu luận văn là những quy định của pháp luật trong TTHS về
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng hình sự
đối với NCTN nhất là trong hoạt động tố tụng với người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị kết án, phạm nhân đang thi hành án là người NCTN trong cái giai đoạn TTHS
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Phạm vi nghiên cứu là những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng đối với người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là NCTN, trong các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và thực



4

tiễn thi hành trong vòng 5 năm trở lại đây (từ năm 2009 đến năm 2013).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tử tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về xây dựng pháp quyền xã hội chủ nghĩa về tội phạm và phòng chống tội
phạm là NCTN trên địa bàn cả nước trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng để phân tích. Luận văn còn sử dụng các phương pháp chủ yếu như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê hình sự,… để nghiên
cứu. Ngoài ra, để thực hiện đề tài, tác giả đã tiến hành thu thập số liệu thống kê về hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự của một số cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát các cấp. Những luận điểm khoa học trong luận văn của tác giả là được phát
triển dựa trên các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý Việt Nam và của
một số nước khác trong khu vực và trên thế giới.
6. Những đóng góp mới của luận văn.
Đây là công trình khoa học đầu tiên ở cấp thạc sỹ nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đối với NCTN.
Với việc phân tích, lý giải và rút ra một số kết luận khoa học, đề tài góp phần xác
định cơ sở khoa học cho việc nhận thức về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
KSV trong hoạt động tố tụng đối với NCTN được thống nhất. Với việc đề xuất sửa đổi,
bổ sung một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của KSV, đề tài giải
quyết được những hạn chế, vướng mắc trong quy định và việc thực hiện những quy
định của pháp luật. Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú thêm các
sản phẩm khoa học về pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, có thể sử dụng làm tài liệu
để các nhà khoa học luật tố tụng hình sự tham khảo khi nghiên cứu những vấn đề có
liên quan.
7. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia là

hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đối với NCTN.
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng
đối với NCTN.


5

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG
ĐỐI VỚI NCTN.
1.1. Một số vấn đề chung về người chưa thành niên trong tố tụng hình sự.
Trong tự nhiên, mọi sinh vật không ngừng phát triển và thay đổi. Con người cũng
vậy, từ khi sinh ra, cơ thể ngày một lớn lên, trí tuệ thêm sâu sắc, khoảng thời gian có sự
phát triển nhảy vọt, đó là tuổi dậy thì. Dậy thì bắt đầu từ khoảng 12 – 18 tuổi, đây là
giai đoạn chuyển tiếp từ lứa tuổi trẻ em sang người lớn, là thời kỳ diễn ra những thay
đổi lớn về thể chất lẫn tinh thần. Những người trong lứa tuổi này được gọi là NCTN.
Đặc trưng của lứa tuổi này là tâm sinh lý chưa phát triển đầy đủ, dễ bị tổn thương và
đang cần được giúp đỡ và hướng dẫn. Khi NCTN xâm hại đến các quan hệ xã hội hoặc
bị xâm hại từ những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, tùy theo mức độ họ
sẽ bị xử lý hành chính hoặc phải trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật hình sự
và TTHS, tham gia quan hệ pháp đó, họ sẽ trở thành chủ thể của hoạt động TTHS người tham gia tố tụng.
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
NCTN là thuật ngữ được dùng trong nhiều ngành, lĩnh vực khoa học khác nhau.
Khái niệm NCTN được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần
của con người và được cụ thể hóa bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật
của từng quốc gia.
Dưới góc độ khoa học và thực tiễn, các quốc gia trên thế giới và Việt Nam đều có

quan điểm chung thống nhất về việc xem xét, đánh giá con người theo quy luật phát
triển từ thấp đến cao, từ người ít tuổi đến người cao tuổi, từ NCTN đến người đã thành
niên. Để định nghĩa như thế nào là NCTN thì các nhà khoa học cũng đã đưa ra nhiều
quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: NCTN là người chưa đến tuổi trưởng thành [14,
tr.1482, 1725]. Những nhà khoa học theo quan điểm này cho rằng tuổi trưởng thành
của con người là độ tuổi cụ thể được pháp luật quy định hoặc thừa nhận là người đã
thành niên và đã có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Trái lại, người chưa đến tuổi
trưởng thành là chưa thành niên - chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân theo quy
định của pháp luật. Như vậy, theo quan điểm này thì quyền và nghĩa vụ công dân là cơ
sở pháp lý để phân biệt người thành niên với NCTN [23, tr.1530]
Quan điểm thứ hai cho rằng: NCTN là người chưa đủ 18 tuổi [19]. Theo tác giả
của quan điểm này thì dựa trên những quy định của pháp luật như BLHS, BLTTHS,
BLTTDS, LTTHC, PL thủ tục giải quyết vụ án hành chính,… có thể thấy rằng: một là,
khi tham gia tố tụng tại Tòa án, những người dưới 18 tuổi đều được coi là NCTN; hai
là, mặc dù NCTN cũng được phân chia thành các độ tuổi khác nhau nhưng sự phân
chia này chỉ để xác định được tư cách tham gia tố tụng tại Tòa án, xác định được tội


6

danh, xác định được có phải chịu TNHS hay không mà thôi. Vì vậy, theo tác giả, định
nghĩa NCTN chỉ cần là người chưa đủ 18 tuổi mà thôi.
Quan điểm thứ ba cho rằng: NCTN là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn
thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người
đã thành niên [15]. Những người theo quan điểm này đưa ra khái niệm về NCTN dựa
trên việc nghiên cứu những quy định của hệ thống luật pháp quốc tế cũng như những
quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của NCTN trong pháp luật Việt Nam. Qua nghiên
cứu cho thấy rằng độ tuổi NCTN được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 1992,
Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật TTHS năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân

sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác,
nhìn chung tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của NCTN là dưới 18 tuổi
và quy định riêng những chế định pháp luật đối với NCTN trong từng lĩnh vực cụ thể.
Ngoài ra, những người theo quan điểm này dựa trên những đặc điểm về NCTN đó là sự
phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tâm – sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm
sống , thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao mà
những quy định về quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ trong những văn bản pháp luật
nêu trên là chưa đầy đủ.
Qua nghiên cứu các quan điểm của các nhà khoa học, tôi thấy rằng, nhìn chung
các nhà khoa học đều đồng tình là NCTN là người chưa đủ 18 tuổi, có đặc điểm tâm,
sinh lý chưa phát triển một cách toàn diện. Để định nghĩa được thế nào là NCTN, ta
cần phải dựa trên những tiêu chí như: độ tuổi của NCTN, đặc trưng tâm, sinh lý, quyền
và nghĩa vụ pháp lý của NCTN. Các quan điểm trên mặc dù đã phần nào khái quát
được hình ảnh NCTN nhưng chưa thật sự đầy đủ. Quan điểm thứ nhất chỉ đưa ra khái
niệm chung chung đó là NCTN là người chưa đến tuổi trưởng thành, các nhà khoa học
theo quan điểm này áp dụng từ ngữ Hán việt trong quá trình đưa ra khái niệm nhưng
chưa giải thích được cụ thể như thế nào là tuổi trưởng thành nên chưa làm rõ độ tuổi
cũng như những đặc trưng cơ bản về NCTN. Quan điểm thứ hai mặc dù đã giới hạn
được NCTN là những người dưới 18 tuổi nhưng cũng chưa nêu được đặc trưng tâm lý
cũng như các quyền và nghĩa vụ luật định của họ. Trong các quan điểm nêu trên, tôi
đồng tình với quan điểm thứ ba bởi các nhà khoa học theo quan điểm này đã định nghĩa
hầu như đầy đủ, khái niệm cho ta thấy hình ảnh về NCTN khá rõ nét.
Từ những phân tích trên, theo tôi “NCTN là người chưa đủ 18 tuổi; chưa phát
triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý; chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý
như người đã thành niên”.
1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
TTHS là trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án). TTHS bao gồm toàn bộ hoạt
động của cơ quan THTT; người THTT; người tham gia tố tụng; các cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác góp phần giải quyết vụ án hình sự [28, tr.9]. Quá trình giải quyết vụ án



7

hình sự là một quá trình liên tục, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau, mỗi giai
đoạn tố tụng đều có những đặc điểm đặc trưng và thể hiện một hướng nhất định của
hoạt động tố tụng. Theo quy định của BLTTHS 2003 thì các hoạt động TTHS bao
gồm:
- Hoạt động của các cơ quan THTT trong vụ án hình sự: là hoạt động của các cơ
quan: CQĐT, VKS, Toà án. Đây là các cơ quan có vai trò chủ đạo trong việc giải quyết
các vụ án hình sự.
- Hoạt động của cơ quan THTT được thực hiện thông qua hoạt động của người
THTT. Người THTT là những công chức trong cơ quan THTT, được bổ nhiệm vào các
chức danh tố tụng, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất định trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải quyết vụ án hình sự.
- Hoạt động của những người tham gia tố tụng: Bao gồm hoạt động của người
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan); hoạt động của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác; hoạt động của người tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan THTT xác định
sự thật vụ án (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch).
- BLTTHS còn quy định cả nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan, tổ chức và công
dân trong việc thực hiện một số biện pháp ngăn chặn, thi hành bản án, quyết định của
cơ quan THTT... Như vậy, trong một chừng mực nhất định, đây cũng là các hoạt động
TTHS.
Tất cả các hoạt động nêu trên đều phát sinh trong lĩnh vực TTHS nên có thể coi là
các hoạt động TTHS nói chung.
Như đã nêu ở trên, khi NCTN tham gia vào quan hệ TTHS nghĩa là họ đã trở
thành chủ thể của hoạt động TTHS - người tham gia tố tụng. Theo quy định tại chương

IV BLTTHS, người tham gia tố tụng bao gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, người làm chứng, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người
giám định, người phiên dịch. Do những đặc trưng về sự phát triển thể chất cũng như
vấn đề về tâm sinh lý của NCTN có nhiều khác biệt so với đối tượng là người đã thành
niên nên để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong khi tham gia hoạt động tố
tụng và để thi hành đúng, thống nhất các quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối
với người tham gia tố tụng là NCTN, VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ra Thông tư số
01/2011/ TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 hướng
dẫn thi hành một số quy định của bộ luật TTHS đối với người tham gia tố tụng là
NCTN. Theo hướng dẫn tại Thông tư 01/2011 thì người tham gia tố tụng là NCTN chỉ
bao gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bị hại, người làm chứng [11] mà thôi.


8

Người bị hại là NCTN trong TTHS là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài
sản do tội phạm gây ra khi chưa đủ 18 tuổi [20, tr.2]. Theo quy định tại Điều 55 và các
đặc điểm của NCTN ta có thể hiểu người làm chứng là NCTN trong TTHS là người có
đầy đủ năng lực hành vi và có khả năng khai báo đúng đắn, biết được những tình tiết
liên quan đến vụ án hình sự khi chưa đủ 18 tuổi. Cả người bị hại và người làm chứng
khi tham gia vào hoạt động tố tụng đều nhằm góp phần tìm ra sự thật vụ án, giúp các
cơ quan THTT điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên,
như đã nêu trong phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trong hoạt động tố tụng đối với
người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN (sau đây gọi chung là NCTN phạm tội)
nên không đi sâu tìm hiểu về người tham gia tố tụng là bị hại và nhân chứng là NCTN.
NCTN phạm tội theo quy định tại Điều 68 BLHS 1999 là những người đã thực
hiện hành vi bị luật hình sự quy định là tội phạm từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi.

Ngoài ra, Điều 12 BLHS quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) như sau:
"1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng."
Như vậy, NCTN phạm tội chỉ bao gồm các đối tượng: người từ đủ 16 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi bị luật hình sự quy định là tội phạm, bất kể đó là loại
tội phạm gì, được thực hiện với lỗi gì; người từ đủ 14 đến chưa đủ 16 tuổi thực hiện tội
phạm rất nghiêm trọng với lỗi cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường
hợp người từ đủ 14 đến chưa đủ 16 tuổi thực hiện tội phạm, nếu NCTN thực hiện hành
vi nguy hiểm bị luật hình sự quy định là tội phạm rất nghiêm trọng thì họ chỉ phải chịu
TNHS khi tội phạm đó được thực hiện với lỗi cố ý, còn nếu họ thực hiện tội phạm rất
nghiêm trọng nhưng với lỗi vô ý thì không phải chịu TNHS. Đối với trường hợp tội
phạm mà những người ở độ tuổi này thực hiện là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì họ
phải chịu TNHS cho dù tội phạm đó được thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý.
Như vậy có thể kết luận, NCTN phạm tội là người có năng lực TNHS và đủ tuổi
chịu TNHS đã thực hiện tội phạm được quy định trong BLHS khi chưa đủ 18 tuổi.
NCTN phạm tội thì bao gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị
bắt bao gồm người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt
theo quyết định truy nã… Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu
thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị
cáo là người đã bị toà án quyết định đưa ra xét xử. Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là NCTN thoả mãn những quy định pháp lí về người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo nhưng họ lại đang ở độ tuổi từ đủ 14 nhưng chưa đủ 18. Ngoài ra,
không thể không kể đến người bị kết án và người đang thi hành án là NCTN. Bởi xét
cho cùng thì trong TTHS, cả ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đều có nhiệm vụ


9


chung là kịp thời phát hiện điều tra đầy đủ, toàn diện, thu thập chứng cứ làm rõ để xác
minh một người là có tội hay không có tội thể hiện qua bản án, quyết định của Tòa án.
Tuy nhiên, bản án mới chỉ dừng lại ở việc thể hiện một người là có tội hay vô tội, đúng
hay sai, phải hay trái trên văn bản, để điều này được thực hiện trên thực tế thì cần phải
thi hành bản án, quyết định đó, thi hành án được coi là “động tác có tính quyết định
cuối cùng” trong quá trình tố tụng và hiệu quả của nó sẽ góp phần đạt được mục đích
của quá trình TTHS [18, tr.412-413]. Vậy, người bị kết án là chưa thành niên là người
phạm tội đã bị kết tội bằng bản án, quyết định của Tòa án khi chưa đủ 18 tuổi.
Khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ các dấu hiệu tội
phạm và đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định trong BLHS thì họ sẽ bị khởi tố và xét
xử theo tiến trình tố tụng chung được BLTTHS quy định. Tuy vậy, do các đặc trưng về
tâm sinh lý nên tội phạm do NCTN gây ra có những đặc điểm riêng so với tội phạm do
người đã thành niên gây ra. Tội phạm do NCTN thực hiện bị truy cứu trách nhiệm hình
sự khi có các điều kiện sau đây: Một là, có hành vi phạm tội do NCTN thực hiện, đặc
biệt là khi NCTN phạm tội đó có nhân thân xấu; Hai là, tội phạm do NCTN thực hiện
có tính chất nghiêm trọng; Ba là, những biện pháp giáo dục, phòng ngừa như giáo dục
tại xã, phường, đưa vào trường giáo dưỡng không có hiệu quả để cải tạo NCTN phạm
tội mà cần áp dụng hình phạt đối với họ [16, tr.15]. Bởi những lý do đặc biệt đó nên thủ
tục cũng như hoạt động TTHS đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
NCTN cũng được quy định thành một chương riêng - chương XXXII: “Thủ tục tố tụng
đối với NCTN” thuộc phần 7 “Thủ tục đặc biệt” trong BLTTHS năm 2003.
1.1.3. Một số đặc điểm của người chưa thành niên trong tố tụng hình sự.
Độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi là giai đoạn chuyển tiếp từ lứa tuổi trẻ em sang lứa
tuổi người lớn, là thời kỳ diễn ra những thay đổi lớn về thể chất lẫn tinh thần. Những
người trong giai đoạn tuổi này chưa phát triển đẩy đủ về tâm sinh lý. Những NCTN
không còn thỏa mãn với vai trò thụ động của người được giáo dục, được dạy dỗ mà đã
bắt đầu hình thành ý thức độc lập trong việc quyết định cuộc sống riêng của mình
- Đặc điểm sinh lý: Đặc trưng của lứa tuổi thiếu niên là sức sống phát triển rất
mạnh mẽ, và ở lứa tuổi này sự cần bằng bị phá vỡ. Trong những năm này cơ thể các
em phát triển mạnh mẽ về chiều dài và do vậy mà gầy đi mặc dù trọng lượng có tăng

lên một cách đáng kể. Sự phát triển “nhảy vọt” này của cơ thể sẽ có tác động mạnh đến
tâm lý của các em, và cũng chính nó gây ra một đặc điểm sinh lý khác: Đó là tính mất
căn đối tạm thời.. Sự phát dục và những chuyển biến trong sự phát triển thể chất của
thiếu niên có ý nghĩa quan trọng đối với sư nảy sinh những cấu tạo tâm lý mới. Sự phát
dục kích thích phát triển và ý thức quan tâm đến giới khác, làm xuất hiện những cảm
giác, tình cảm và rung cảm mới. Tóm lại, ở lứa tuổi NCTN có sự thay đổi rất lớn về thể
chất. Cũng chính những thay đổi quan trọng trong cấu tạo và hoạt động của cơ thể, đã
gây nên mất căn đối tạm thời, rối loạn trong cấu tạo và hoạt động của cơ thể, rối loạn
tạm thời của hệ thần kinh, hệ tim mạch và đó là cơ sở cho những đặc điểm của đời


10

sống tình cảm ở tuổi thiếu niên.
- Đặc điểm về tâm lý: Vị thế xã hội của lứa tuổi NCTN có nhiều thay đổi so với
lứa tuổi trước đó. Các quan hệ xã hội của NCTN đã mở rộng. Trong các mối quan hệ
đó, người lớn kể cả thầy cô đều nhìn nhận NCTN như những người chuẩn bị làm người
lớn và đòi hỏi họ phải có cách ứng xử phù hợp với vị thế của mình. Những thay đổi
trong vi thế xã hội, những thách thức khách quan của cuộc sống dẫn đến làm việc ở lứa
tuổi NCTN những yêu cầu về hiểu biết chuẩn mực về quan hệ người – người, hiểu
mình và tự khẳng định mình trong xã hội.
Bước sang tuổi NCTN các chức năng tâm lý của con người cũng có nhiều thay
đổi, đặc biệt là trong khả năng phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Tuy nhiên NCTN
thường có những đặc điểm về tâm sinh lý là nồng nhiệt, hành động thường bồng bột,
xốc nổi, nhẹ dạ, thiếu kinh nghiệm sống, dễ va vấp, sự hiểu biết về pháp luật còn rất
hạn chế, nông cạn, thiếu chính xác, sự hiểu biết của họ về các mặt của cuộc sống xã hội
chưa đủ để có thể lựa chọn và quyết định cách xử sự phù hợp với chuẩn mực của xã
hội. Ở lứa tuổi chưa thành niên, con người chịu sự chi phối, tác động mạnh mẽ của môi
trường sống. Quá trình hình thành nhân cách cũng như các phẩm chất khác thuộc về
nhân thân của họ chịu sự chi phối có tính quyết định của môi trường giáo dục trong gia

đình, nhà trường và xã hội. Nếu được sống trong môi trường lành mạnh thì người
NCTN sẽ có những điều kiện phát triển toàn diện về thể chất cũng như tinh thần trở
thành người có ích cho xã hội. Ngược lại, các em cũng dễ tiếp thu những thói hư tật
xấu, dễ bị tha hóa về nhân cách, cũng dễ bị kích động, lôi kéo vào những hành động vi
phạm pháp luật. Nó trở thành nguyên nhân của những hành vi chuẩn như: hút ma túy,
đánh bạc, hiếp dâm, đua xe… Ngoài ra, trong giai đoạn quá độ từ trẻ em sang người
lớn, các em thiếu kinh nghiệm sống dẫn đến phản ứng bồng bột xốc nổi, dễ cáu giận,
không tự kiểm chế và làm chủ được bản thân. Thông thường các em giải quyết mâu
thuẫn bằng bạo lực, gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Thực tế cho thấy, NCTN
có trình độ nhận thức về tính chất nguy hiểm cũng như chống đối xã hội của hành vi
phạm tội và khả năng kiềm chế còn kém. Phần lớn NCTN không có ý thức và thói
quen của sự đối chiếu, so sánh những hành vi của mình với các quy phạm pháp luật,
với các quy tắc xử sự chung của xã hội.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, lứa tuổi chưa thành niên là lứa tuổi phát
triển mạnh mẽ về thể chất cũng như tư duy logic. Đa số các em đã đáp ứng được nhu
cầu, đòi hỏi cũng như kỳ vọng của gia đình tích cực rèn luyện đao đức lối sống để trở
thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, một phần không nhỏ NCTN không nhận
thức được sứ mạng quan trọng của mình, ăn chơi, đua đòi, a dua cùng chúng bạn hậu
quả xảy ra là họ phạm tội khi còn nhỏ tuổi. Đối với NCTN phạm tội, việc tìm hiểu đặc
điểm tâm sinh lý của họ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng đường lối xử lý
hình sự, trong công tác điều tra, truy tố, xét xử cũng như quá trình giáo dục, cải tạo
phạm nhân.


11

Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý đó của NCTN, pháp luật nước ta đã đưa ra
đường lối nhân đạo, khoan hồng và thấu tình đạt lý.
1.2. Khái niệm và quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng

đối với người chưa thành niên.
1.2.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong
hoạt động tố tụng đối với NCTN.
Theo từ điển tiếng việt, nhiệm vụ là công việc phải làm vì một mục đích nhất
định và trong một khoảng thời gian nhất định [43, tr.925]. Còn quyền hạn là quyền
được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ trong công việc được giao [43, tr.1045].
Ngoài ra, từ điển luật học cũng định nghĩa quyền hạn là quyền của một cơ quan, tổ
chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và
chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định
của pháp luật [34, tr.651]. Cũng theo Từ điển luật học thì: quyền hạn của một chủ thể
được pháp luật quy định đồng thời cũng là nhiệm vụ của chủ thể đó được sử dụng để
thực hiện chức năng, trách nhiệm nhất định của chủ thể đó. Điều này đã được quy định
ở một số điều cụ thể trong Hiến pháp 2013 cũng như các luật tổ chức về các cơ quan
nhà nước trung ương và địa phương, tất cả đều được quy định theo cách thức phản ánh
nét đặc thù trong việc pháp luật xác định chức trách của các cơ quan nhà nước, chức
danh nhà nước; quyền hạn đồng thời là nhiệm vụ và ngược lại.
Trên cơ sở tổ chức hoạt động của VKSND các cấp dựa theo nguyên tắc tập trung,
thống nhất lãnh đạo trong ngành. Nên nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên cũng
được dựa theo nguyên tắc trên. Theo đó, tùy theo từng cấp kiểm sát, Kiểm sát viên
được Viện trưởng phân công thực hiện nhiệm vụ và có quyền hạn được pháp luật quy
định để thực hiện nhiệm vụ đó. Ngoài ra, VKS cấp trên có thể thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS cấp dưới; các Kiểm sát viên cấp dưới có thể tiến hành một số hoạt
động thuộc thẩm quyền của Kiểm sát viên cấp trên khi được VKS cấp trên ủy quyền.
Nói cách khác, “khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên chỉ tuân theo pháp luật và sự chỉ
đạo trực tiếp của Viện trưởng VKS cấp mình, sự chỉ đạo thống nhất của Viện trưởng
VKSND tối cao” [25]. Mặc dù vậy, khi “sự chỉ đạo của Viện trưởng VKS cùng cấp” có
mâu thuẫn với việc “tuân theo pháp luật” thì “Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ
được giao khi có căn cứ cho rằng việc đó là trái pháp luật…” (Điều 13 Pháp lệnh
Kiểm sát viên); nếu Viện trưởng vẫn quyết định thì Kiểm sát viên phải chấp hành,
nhưng Viện trưởng phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; trong trường hợp

này Kiểm sát viên có quyền báo cáo lên Viện trưởng cấp trên trực tiếp và không phải
chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó. Kiểm sát viên có quyền
độc lập khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuận theo pháp luật nên khi thực
hiện hoạt động tố tụng tại phiên tòa theo phân công của Viện trưởng VKSND cùng
cấp, Kiểm sát viên có một số quyền: rút toàn bộ hay một phần quyết định truy tố, thay


12

đổi cáo trạng theo hướng đề nghị HĐXX áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội
danh nhẹ hơn, áp dụng khung hình phạt khác nhẹ hơn (Điều 195, Điều 217
BLTTHS)… Nếu kết quả xét xử công khai tại phiên tòa đã phản ánh nội dung khác hẳn
với quyết định truy tố của VKS mà quyết định này đã được Viện trưởng thông qua
trước đó thì Kiểm sát viên không còn cách nào khác, trên cơ sở các quy định của pháp
luật sẽ tự ra quyết định thay đổi hay rút quyết định truy tố. Sự tôn trọng sự thật khách
quan của vụ án để thay đổi ý kiến chủ quan cho phù hợp của Kiểm sát viên tại phiên
tòa đảm bảo cho quyền công tố được thực hiện một cách kịp thời. Điều đó không
những làm tăng lên trách nhiệm, uy tín của VKS mà còn khẳng định tính khách quan,
công minh, tuân thủ pháp luật trong hoạt động của Kiểm sát viên. Như vậy, có thể thấy
trong nhiều trường hợp, Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao không phải
lúc nào cũng phải tuân theo sự chỉ đạo của Viện trưởng một cách máy móc mà vẫn
phải có sự độc lập nhất định, thậm chí chỉ tuân theo pháp luật, không phụ thuộc vào bất
cứ cá nhân, cơ quan nào. Như vậy, có thể hiểu “Nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong
TTHS là hệ thống những hoạt động mà Kiểm sát viên phải tiến hành, các hoạt động
này được pháp luật quy định hoặc theo sự phân công của Viện trưởng VKSND cùng
cấp nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư
pháp”; và “Quyền hạn của Kiểm sát viên trong TTHS là hệ thống những quyền năng
pháp lý được pháp luật quy định mà Kiểm sát viên được làm, khi tiến hành hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Có thể thấy, giữa “nhiệm vụ của Kiểm

sát viên” và “quyền hạn của Kiểm sát viên” có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ không
thể tách rời. Nhiệm vụ, bản thân nó cũng đã chứa đựng quyền hạn. Nhiệm vụ - quyền
hạn tạo nên sự thống nhất trong trạng thái cân bằng do pháp luật quy định. Mối quan hệ
này không những có ý nghĩa về mặt lý luận mà cả trong hoạt động thực tiễn. Nhận
thức, sử dụng đúng quyền hạn theo nhiệm vụ, đúng đối tượng, đúng mục đích giúp cho
Kiểm sát viên có sự vận dụng đồng bộ, tổng hợp, linh hoạt nhiệm vụ và quyền hạn qua
đó phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. Còn khi Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình không đúng với quy định của pháp luật hoặc trái với sự chỉ đạo
đúng đắn của cấp trên thì họ sẽ phải chịu “trách nhiệm” đối với những công việc họ đã
làm.
Trong thực tiễn chính trị, pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” thường được hiểu theo
hai nghĩa: Thứ nhất, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận của một người trước người
khác, xã hội hoặc Nhà nước và được các quy phạm pháp luật quy định. Thứ hai, trách
nhiệm là hậu quả bất lợi mà một người phải gánh chịu trước người khác, trước xã hội
hoặc Nhà nước do đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó. Khoản 2 Điều 37
BLTTHS quy định: “Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước
Viện trưởng về những hành vi và quyết định của mình”. Như vậy, “trách nhiệm của
Kiểm sát viên trong TTHS” được hiểu theo nghĩa thứ hai. Trách nhiệm của Kiểm sát


13

viên cũng có sự phân định giữa “trách nhiệm của Kiểm sát viên trước pháp luật” và
“trách nhiệm của Kiểm sát viên trước Viện trưởng VKS”.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm của Kiểm sát
viên như sau: Trách nhiệm của Kiểm sát viên là hậu quả bất lợi mà Kiểm sát viên phải
gánh chịu theo quy định của pháp luật hoặc trước Viện trưởng về những hành vi vi
phạm của mình khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
1.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng đối với người chưa thành

niên.
NCTN là người ở độ tuổi chuyển tiếp của sự tăng trưởng, phát triển từ độ tuổi
“trẻ em” đến thời điểm bắt đầu của tuổi trưởng thành - là giai đoạn thay đổi quan trọng
nhất về thể chất, cảm xúc và ý thức xã hội diễn ra ở mỗi cá nhân. Đây là giai đoạn “quá
độ”, sự phát triển tâm lý rất phức tạp, mẫn cảm, dễ thay đổi và khó lường trước. Tâm lý
học xác định quá trình hình thành và phát triển của NCTN phụ thuộc mạnh mẽ về tâm
sinh lý, tùy thuộc độ tuổi, nhưng ở mức độ không đồng đều và với những dấu hiệu tâm
sinh lý rất khác nhau ở mỗi giới tính1; đồng thời có thể bị phân hóa để tạo thành tính
cách khác nhau khi bị tác động bởi những môi trường, điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Xuất phát từ những đặc điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lý đó, nên khi NCTN
thực hiện hành vi phạm tội thường xuất phát từ nhiều yếu tố khác nhau và do đó, hành
vi phạm tội của NCTN có các đặc điểm, cơ chế khác với hành vi phạm tội của người đã
thành niên. Tội phạm do NCTN thực hiện hầu hết là do tác động của môi trường, bởi
vậy, động cơ, mục đích phạm tội của NCTN thường là bột phát, nhất thời và không rõ
ràng. NCTN thường hay a dua, hùa theo bạn bè vi phạm pháp luật nên những vụ án do
NCTN thực hiện còn có yếu tố đồng phạm nhưng chưa có sự thống nhất về ý chí cũng
như chưa có sự phân công thực hiện rõ ràng. Cách thức thực hiện tội phạm của NCTN
thường là đơn giản, khác với người đã thành niên là họ có chuẩn bị trước, có khi rất
tinh vi, phức tạp và có ý chí thực hiện cao. Môi trường cũng như phạm vi của những vụ
án do NCTN phạm tội hạn chế bởi trong thực tế đời sống, sinh hoạt, NCTN chỉ có khả
năng, điều kiện tham gia trong một số môi trường xã hội nhất định, hay nói theo quan
điểm cấu thành tội phạm thì NCTN chỉ có thể có điều kiện xâm hại một số khách thể
nhất định được pháp luật bảo vệ, như: trật tự công cộng, quyền sở hữu (chủ yếu là sở
hữu tư nhân),…
Kiểm sát viên được phân công tham gia hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự
nói chung và vụ án do NCTN phạm tội nói riêng chính là nhân danh VKSND thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật các vụ án hình
sự mà Hiến pháp quy định. Theo đó, khi thi hành công tác, họ có các nhiệm vụ quyền
1


tuổi.

Thường là một trẻ em nữ 13-14 tuổi có tính cách phát triển tương đương với một trẻ em trai 15-16


14

hạn quy định cụ thể tại Điều 37 Bộ luật TTHS. Để phân định nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên khi thực hiện các chức năng luật quy định, trước hết cần tìm hiểu sơ lược
về khái niệm “thực hành quyền công tố” và “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”.
Việc xác định khái niệm quyền công tố và theo đó là THQCT có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn rất quan trọng. Giải quyết tốt vấn đề này giúp cho việc xác định chính xác
vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước. Ở nước
ta hiện nay thì khái niệm về quyền công tố còn có nhiều quan điểm khác nhau và khái
quát lại thì có một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với khái niệm kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của VKS. Có thể thấy rõ quan điểm này xuất phát từ chức
năng của VKS để xem xét quyền công tố. Quan điểm này cho rằng tất cả các hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là THQCT. Theo quan điểm này, công tố không
phải là một chức năng độc lập của VKS mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [45].
Theo tôi, quan điểm trên là chưa chính xác, đã đánh đồng quyền công tố với
quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS, phủ nhận tính độc lập của hai quyền
năng trên mặc dù chúng có nội dung và phạm vi tác động khác nhau.
Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho VKS
truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa. Quan điểm này nhấn
mạnh vai trò duy nhất của VKS trong việc thực hiện quyền công tố chỉ ở một lĩnh vực
TTHS và ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm [46].
Theo tôi, quan điểm này đã thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi của quyền công
tố, không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền này. Bản chất của công tố là buộc

tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động buộc tội không
chỉ trong việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án mà được thực hiện xuyên suốt
trong quá trình điều tra.
Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để
đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích Nhà nước,
bảo vệ trật tự pháp luật [24]. Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố
xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình
sự, TTHS, cùng với sự phát triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố được
mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự và tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tố
tụng tư pháp khác.
Theo tôi, quan điểm trên đã quá mở rộng khái niệm, nội dung và phạm vi quyền
công tố, xóa nhòa ranh giới giữa TTHS và các lĩnh vực tố tụng khác. Bởi bản chất của
quyền công tố là quyền buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm
tội, nên quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Các lĩnh vực tố tụng khác như tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính VKS chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ
thể tham gia vào các hoạt động tố tụng đó.


15

Trên đây là một số quan điểm về quyền công tố. Tôi đồng nhất với cách phân
tích, lập luận thể hiện quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong
mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật TTHS, nó luôn gắn liền với việc nhân danh Nhà
nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội
phạm). Bản chất của hoạt động TTHS là hoạt động của các cơ quan THTT để phát hiện
và truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Trong hoạt động TTHS luôn tồn tại ba chức
năng tố tụng cơ bản đó là chức năng buộc tội; chức năng gỡ tội; chức năng xét xử.
Buộc tội là một chức năng tố tụng nhằm truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Cơ
quan thực hiện chức năng buộc tội có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc cụ
thể đối với cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ đưa ra những tài liệu, chứng cứ cụ thể cho sự

buộc tội đó. Với những lập luận trên, tôi đưa ra khái niệm quyền công tố như sau:
Quyền công tố là quyền thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực
hiện (ở nước ta là VKSND) để phát hiện tội phạm, truy tố bị can ra trước Tòa án và
bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa.
Xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước để phát hiện
tội phạm, truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa, nên
"thực hành quyền công tố chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định
của pháp luật TTHS để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm
tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó" [22].
Tôi nhận thấy quan điểm như trên về THQCT là hợp lý. Tuy nhiên, xuất phát từ
những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố đã được pháp luật quy định,
việc sử dụng những quyền năng này để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người
phạm tội chính là THQCT. Do vậy, tôi đồng tình với quan điểm: "Thực hành quyền
công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố
để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai
đoạn điều tra, truy tố và xét xử" [17].
Cũng như đối với “quyền công tố” và THQCT thì kiểm sát việc tuân theo pháp
luật cũng là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên, kèm theo đó là
trách nhiệm của họ khi sử dụng quyền hạn đó. Theo định nghĩa tại Từ điển tiếng Việt
của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ - Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn Quốc gia xuất bản năm 2000, thì "kiểm sát" có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc
chấp hành pháp luật của Nhà nước. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm
2002 do Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn, thì "kiểm sát" là hoạt động của VKSND
nhằm kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước. Với cách
giải thích khái niệm "kiểm sát" của các cuốn từ điển nêu trên, tôi cho rằng, kiểm sát
gồm hai loại hình hoạt động cơ bản: giám sát và kiểm tra. Hoạt động giám sát là hoạt
động theo dõi các hoạt động của các đối tượng bị giám sát và khi cần thiết thì sử dụng
các biện pháp tác động phù hợp để yêu cầu người, cơ quan bị giám sát có hành vi vi
phạm pháp luật sửa chữa vi phạm đó. Hoạt động kiểm tra là hoạt động xem xét, đánh



16

giá hoạt động của người, cơ quan bị kiểm tra.
Như đã đề cập ở phần trước, ta biết rằng TTHS bao gồm toàn bộ hoạt động của
cơ quan THTT (CQĐT, VKS, Tòa án), người THTT (Điều tra viên, KSV, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người
bào chữa…) của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc
giải quyết vụ án theo quy định của luật TTHS. Do đó, kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong TTHS là việc thực hiện chức năng của VKSND, hoạt động đó có nội dung là
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của tất cả các hoạt động nêu trên, của các chủ thể nêu
trên.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự là hoạt động của Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS phát sinh trong các giai
đoạn tố tụng của một vụ án hình sự, nhằm đảm bảo cho quá trình THTT vụ án được
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật [29].
Đối với khái niệm “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng” thì
cần phân biệt với khái niệm “kiểm sát các hoạt động tư pháp trong TTHS”. Hiện nay
quan điểm phổ biến nhất cho rằng: hoạt động tư pháp là các hoạt động do cơ quan tư
pháp thực hiện và một số hạn chế hoạt động do các cơ quan được giao một số thẩm
quyền tư pháp thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện trong quá trình
tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, trực tiếp liên quan tới quá trình giải
quyết vụ án. Và do đó, hoạt động tư pháp trong TTHS là các hoạt động do cơ quan tố
tụng thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện trong quá trình TTHS,
được điều chỉnh bằng pháp luật TTHS, trực tiếp liên quan tới việc giải quyết các vụ án
hình sự [44].
Nhìn chung, phạm vi và đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS rộng hơn, bao trùm phạm vi, đối tượng của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
tố tụng hình sự, cụ thể như sau [21]:

Thứ nhất, hoạt động tư pháp trong TTHS là hoạt động chỉ do các cơ quan tư pháp
và các cơ quan được giao thực hiện một số thẩm quyền tư pháp chịu trách nhiệm trực
tiếp thực hiện. Đây là những hoạt động có tính quyền lực nhà nước. Còn kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS không chỉ là kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
TTHS mà còn bao gồm cả những hoạt động của các chủ thể khác (cơ quan, tổ chức
không phải là các cơ quan tư pháp, hoạt động của những người tham gia tố tụng và
những hoạt động này không mang tính quyền lực Nhà nước).
Thứ hai, hoạt động tư pháp trong TTHS bao gồm những dạng thực hiện pháp luật
ở mức độ cao: áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật – do các dạng thực hiện pháp
luật này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng. Trong khi
đó, những hoạt động tuân theo pháp luật trong TTHS bao gồm cả các dạng thực hiện
pháp luật ở mức độ thấp, gắn với nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân của những người


17

tham gia tố tụng (tuân thủ pháp luật – kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà
pháp luật cấm, chấp hành pháp luật – thực hiện nghĩa vụ một cách tích cực).
Có thể thấy, các nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên được quy định từ điểm a
đến điểm h Khoản 1 Điều 37 BLTTHS thực chất chỉ là cụ thể hóa hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ
án hình sự. Đối với những vụ án có người bị bắt, bị can, bị cáo, người bị kết án là
NCTN, Kiểm sát viên ngoài việc phải thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, quyền hạn được
quy định tại Điều 37 BLTTHS thì còn phải thực hiện các nhiệm vụ riêng biệt được đặt
ra với những vụ án có chủ thể tham gia tố tụng là chủ thể đặc biệt đó là NCTN quy
định tại chương XXXII.
Theo quy định tại Điều 302 của BLTTHS, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng đối
với NCTN phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học
giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN. Khi tiến
hành điều tra, truy tố và xét xử cần phải xác định rõ các vấn đề sau đây:

Một là, xác định tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận
thức về hành vi phạm tội của NCTN. Để xác định tuổi của NCTN, phải xác định chính
xác ngày, tháng, năm sinh của họ, căn cứ vào các tài liệu hợp pháp như giấy khai sinh,
sổ hộ khẩu gia đình, các giấy tờ, tài liệu khác. Cần phải áp dụng mọi biện pháp để xác
định độ tuổi được chính xác. Trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng
mọi biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được ngày, tháng sinh của bị can, bị
cáo thì về nguyên tắc chung phải áp dụng phương pháp xác định có lợi cho họ.
Trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm
tội của NCTN cũng là vấn đề cần phải chứng minh trong các vụ án có bị can, bị cáo là
NCTN. Trình độ phát triển về thể chất, tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm
tội của NCTN một mặt thể hiện tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội mà NCTN thực hiện, mặt khác cũng cho thấy khả năng giáo dục, cải tạo đối
với họ, từ đó cơ quan tiến hành tố tụng có thể quyết định biện pháp xử lý thích hợp.
Hai là, làm rõ điều kiện sinh sống và giáo dục của NCTN. Điều kiện sinh sống và
giáo dục của NCTN thể hiện ở hoàn cảnh, điều kiện sống của gia đình, thái độ của cha
mẹ, ảnh hưởng của người đã thành niên trong gia đình đối với việc giáo dục, dạy dỗ
NCTN, môi trường sống, điều kiện học tập sinh hoạt ở nhà trường hoặc nơi cư trú…
Việc làm rõ điều kiện sinh sống và giáo dục của NCTN trong một số trường hợp có ý
nghĩa cho thấy nguyên nhân, điều kiện phạm tội của họ, giúp cơ quan tiến hành tố tụng
chứng minh tội phạm, người phạm tội một cách toàn diện và đầy đủ. Hơn nữa, điều
kiện sinh sống và giáo dục của NCTN còn là căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng quyết
định việc giao NCTN phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát, là căn
cứ để Tòa án lựa chọn áp dụng biện pháp tư pháp cụ thể trong trường hợp có căn cứ để
áp dụng biện pháp tư pháp.
Ba là, xác định có hay không người thành niên xúi giục. NCTN thường hiếu kỳ,


18

nông nổi nên dễ bị lôi kéo, dụ dỗ. Nếu có sự xúi giục, lôi kéo của người thành niên đối

với việc phạm tội của NCTN thì có thể xem xét, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
NCTN. Ngoài ra, người thành niên có hành vi xúi giục NCTN thực hiện tội phạm cũng
có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bốn là, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Việc xác định nguyên nhân
và điều kiện phạm tội cũng là vấn đề cần đặc biệt chú trọng trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử vụ án NCTN phạm tội. Qua đó, không chỉ giúp cơ quan tiến hành tố
tụng xử lý đúng người, đúng tội mà còn là cơ sở để kiến nghị với cơ quan, tổ chức liên
quan áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhằm loại trừ hoặc hạn chế hành vi phạm tội của
NCTN.
 Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giai đoạn tiếp
nhận tin báo, tố giác tội phạm.
Điều 103 BLTTHS năm 2003 đã quy định rõ ràng và đầy đủ nhiệm vụ giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKS và CQĐT. Điều 10 Quy chế
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra
các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày
02/01/2008 của Viện trưởng VKSND tối cao) cũng đã quy định rất cụ thể vấn đề này.
Theo đó, khi giải quyết cũng như kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố của CQĐT, Kiểm sát viên được Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc
Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra phân công cần tập trung xử lý những công việc sau:
Đầu tiên, Kiểm sát viên phải tiếp nhận, quản lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội
phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan Nhà nước chuyển
đến. Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCABQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/08/2013 hướng dẫn thi hành quy định
của BLHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì
các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị
khởi tố bao gồm: CQĐT, VKS, Bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác trong lực lượng công an nhân dân, Quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tin báo, tố giác tội
phạm được thể hiện dưới các hình thức như: tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố qua đơn thư; công văn kiến nghị hoặc nêu trên phương tiện thông tin đại chúng;
cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm; đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến báo tin

về tội phạm; cá nhân tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức báo tin về tội
phạm qua điện thoại, các phương tiện thông tin khác; hoặc người phạm tội đến tự thú.
Các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm khi nhận
được tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố qua đơn thư; công văn kiến nghị
hoặc nêu trên phương tiện thông tin đại chúng thì phải tiếp nhận và vào sổ tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Nếu cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội
phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến báo tin về tội phạm thì lập biên bản


19

tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Nếu cá nhân tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ
quan, tổ chức báo tin về tội phạm qua điện thoại, các phương tiện thông tin khác thì
phải tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố,
nếu là tin quan trọng hoặc thấy cần thiết thì có thể ghi âm, ghi hình. Trường hợp người
phạm tội đến tự thú thì phải lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú.
Kiểm sát viên khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm phải phải đánh giá sơ bộ
bước đầu về tính chất của tố giác, tin báo đó để có phương pháp xử lý kịp thời, đúng
pháp luật. Từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm Kiểm sát viên đã phải nghiên
cứu và làm sáng tỏ các chi tiết trong tố giác, tin báo về tội phạm để từ đó có thể xác
định có phải tố giác, tin báo về tội phạm do người chưa thành niên thực hiện hay không
(có hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế hay không, ai là người thực hiện hành vi phạm
tội, có lỗi hay không, lỗi cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không,
mục đích, động cơ phạm tội; những đặc điểm nhân thân của người phạm tội; tính chất,
mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra); nếu vụ án đúng là do người chưa thành
niên gây ra, KSV cần tiếp tục xác minh những chi tiết khác được BLTTHS quy định tại
Điều 302 như: tuổi, trình độ phát triển về thể chất, tinh thần, mức độ nhận thức về hành
vi phạm tội, điều kiện sinh sống và giáo dục; đặc biệt là phải xác định rõ xem có hay
không trường hợp người chưa thành niên bị người khác xúi giục. Sau đó, cùng với việc
tiến hành các hoạt động điều tra cần thiết khác Kiểm sát viên có thể đưa ra các quyết

định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Để giải quyết hiệu quả tố giác, tin báo
về tội phạm, phụ thuộc rất nhiều vào năng lực trình độ của cán bộ xử lý, sự tinh thông
nghiệp vụ và hiểu biết xã hội của Kiểm sát viên. Đối với những tin báo phức tạp, thì
Kiểm sát viên phải cùng Điều tra viên của CQĐT phối hợp thực hiện tốt kế hoạch điều
tra và yêu cầu điều tra đã đặt ra.
Kiểm sát viên được phân công kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận và giải quyết của
CQĐT cùng cấp đối với các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; phải
kiểm tra quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đảm bảo hoạt động của CQĐT
theo đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết; nếu
phát hiện có vi phạm pháp luật thì yêu cầu CQĐT khắc phục kịp thời hoặc báo cáo lãnh
đạo ra văn bản kiến nghị. Hàng tuần, Kiểm sát viên yêu cầu CQĐT cùng cấp thông báo
đầy đủ cho VKS các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mà CQĐT đã tiếp
nhận được; đồng thời phối hợp để phân loại, xử lý kịp thời. Kiểm sát viên cần căn cứ
vào quy định tại tiết c, điểm 7 Mục I Thông tư liên tịch số 01/2005 để tiến hành hoạt
động kiểm sát. Theo đó, Cơ quan Công an có trách nhiệm thống kê kết quả tiếp nhận,
xử lý tố giác, tin báo về tội phạm từ kết quả xử lý những vụ vi phạm thuộc thẩm quyền
xử lý của mình và chuyển kết quả tổng hợp thống kê sang VKS cùng cấp, sau khi loại
thống kê này được thực hiện. Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTHS, trong thời
hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
CQĐT trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin; nếu xác


20

định có dấu hiệu tội phạm xảy ra thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu có một
trong những căn cứ quy định tại Điều 107 BLTTHS thì ra quyết định không khởi tố vụ
án hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án hình sự, CQĐT phải gửi các quyết định đó kèm theo các tài liệu liên quan cho
VKS cùng cấp để tiến hành kiểm sát.
Hàng tháng, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS cấp huyện, Lãnh đạo đơn vị

kiểm sát điều tra cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với CQĐT cùng cấp nắm số lượng, kết quả
giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận; nếu phát
hiện có tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố chưa được giải quyết theo thời
hạn luật định thì yêu cầu CQĐT nêu rõ lý do, hướng giải quyết và thông báo kết quả
cho VKS theo quy định tại Điều 103 BLTTHS.
 Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giai đoạn khởi tố.
Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự do NCTN thực hiện là nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND được pháp luật quy định. Thông qua hoạt động này, VKSND có trách
nhiệm đảm bảo việc khởi tố vụ án hình sự đối với NCTN của các cơ quan có thẩm
quyền là có căn cứ và hợp pháp, kịp thời phát hiện tội phạm và người phạm tội để điều
tra, xử lý theo pháp luật.
Khi được phân công THQCT và kiểm sát việc tuân theo tuân theo pháp luật trong
vụ án đối với NCTN thì trước hết KSV cần nắm chắc quy định của pháp luật tại: các
Điều 36,37 Điều 100 – 105, Điều 108, 109 và các Điều 301 – 310 BLTTHS năm 2003;
các Điều 68 đến 77 Bộ luật hình sự năm 1999; các Điều 10, 11, 12, 13 Quy chế thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều ra vụ án hình
sự; Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2002; các Điều 6 đến 11 Thông tư
01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số
quy định của bộ luật tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là NCTN.
Theo quy định tại Điều 100 BLTTHS năm 2003 thì chỉ khởi tố vụ án hình sự khi
đã xác định được các dấu hiệu của tội phạm, việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên
những cơ sở sau: tố giác của công dân; tin báo của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã
hội; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; CQĐT, VKS, Tòa án, đơn vị bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm trực tiếp phát hiện tội phạm; người phạm tội tự
thú. Khi đã xác định được dấu hiệu tội phạm đủ căn cứ để khởi tố vụ án thì CQĐT ra
quyết định khởi tố vụ án, trong trường hợp xác định không có dấu hiệu tội phạm
CQĐT ra quyết định không khởi tố vụ án và thông báo cho các đơn vị có thẩm quyền.
Trường hợp CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án. Trách nhiệm của KSV là phải
đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố.
Tính có căn cứ của việc khởi tố vụ án hình sự do người chưa thanh niên thực hiện

thể hiện ở chỗ: có sự kiện phạm tội pháp lý xảy ra trên thực tế; sự kiện đó thỏa mãn các
dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự; trong mọi
trường hợp khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hành vi tội phạm của NCTN, các cơ quan


21

Nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm
(Khoản 1 Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999). Tính có căn cứ được xác định bằng các
tài liệu, chứng cứ nhằm xác minh tội phạm. Kiểm sát viên phải kiểm tra xem tài liệu
chứng cứ đã thu thập được dù để xác định có sự kiện phạm tội xảy ra chưa; nếu đủ rồi
thì có được thể hiện trong quyết định khởi tố vụ án hình sự không?
Trên cơ sở kiểm sát tính có căn cứ của quyết định khởi tố vụ án, công việc tiếp
theo KSV phải thực hiện là kiểm sát tính hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án hình
sự do ngươi chưa thanh niên thực hiện, thể hiện:
Thứ nhất, về thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự do NCTN phạm tội.
Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc ra quyết định khởi tố vụ án của CQĐT đó là
khi nào thì CQĐT ra quyết định khởi tố; khi nào Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố; Phó thủ trưởng CQĐT điều tra ra
quyết định khi nào;… theo quy định tại các điều: Điều 34, Điều 104 BLTTHS.
Thứ hai, về nội dung, hình thức của quyết định khởi tố vụ án hình sự. Khi kiểm
sát nội dung, hình thức của quyết định khởi tố vụ án hình sự Kiểm sát viên phải đảm
bảo sao cho nội dung, hình thức của các quyết định tố tụng đó đúng với quy định tại
Khoản 2 Điều 104 BLTTHS năm 2003. Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ
thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của Bộ luật hình sư được áp dụng và họ tên chức
vụ người ra quyết định.
Trong trường hợp khởi tố vụ án đối với NCTN theo theo yêu cầu của người bị hại
ngoài những nội dung kể trên KSV cần phải xác định thêm các nội dung như: Người bị
hại hoặc đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu khởi tố vụ án hay không; tính chất, mức

độ, hậu quả của hành vi phạm tội…. Khi người có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước
người mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Nếu quyết định khởi tố vụ án có căn cứ và hợp pháp thì Kiểm sát viên thông báo
để CQĐT tiến hành hoạt động tố tụng đối với vụ án một cách bình thường; nếu xác
định quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ thì yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra quyết
định huỷ bỏ; nếu cơ quan đã khởi tố không nhất trí thì báo cáo Viện trưởng, Phó Viện
trưởng ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án hoặc Kiểm sát viên được Viện
trưởng uỷ quyền ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại khoản
2 Điều 109 BLTTHS và điểm 7.1 mục 7 Thông tư liên ngành số 05/2005/TTLNVKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005.
Đối với quyết định không khởi tố vụ án hình sự do NCTN thực hiện. Nếu quyết
định không khởi tố vụ án hình sự có căn cứ thì thông báo cho các cơ quan ra quyết định
khởi tố biết; nếu chưa rõ căn cứ thì yêu cầu cơ quan ra quyết định không khởi tố bổ
sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ; nếu quyết định không khởi tố vụ án hình sự là không
có căn cứ thì yêu cầu cơ quan đã ra quyết định huỷ bỏ quyết định đó và đề nghị người
có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án. Nếu quyết định không khởi tố vụ án hình sự


×