BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ THU HUYỀN
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM
HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN CHÍ HIẾU
HÀ NỘI - 2013
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường và
phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết
hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Nhưng phải đến Đại hội toàn quốc lần
thức IX của Đảng mới chính thức đưa ra khái niệm“kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế
tổng quát trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để nền kinh tế thị trường có thể vận hành một cách có hiệu quả, hoạt động
thương mại diễn ra một cách có trật tự, Nhà nước cần phải thiết kế và xây dựng
hệ thống các văn bản pháp luật hoàn chỉnh và một cơ chế đảm bảo việc thi hành
chúng một cách có hiệu quả. Một bộ phận quan trọng của cơ chế pháp lý đó
chính là hệ thống các văn bản điều chỉnh hoạt động kinh doanh, thương mại,
trong đó có Luật thương mại. Trong luật thương mại, chế tài trong thương mại là
một chế định có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể trong quan hệ thương mại cũng như sự nghiêm minh của
pháp luật và đảm bảo trật tự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong hệ thống pháp luật về chế tài thương mại, bồi thường thiệt hại là một
hình thức chế tài đã có từ lâu và được áp dụng một cách phổ biến và thường
xuyên nhất. Qua những lần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật điều chỉnh
hoạt động thương mại cho đến nay, chế tài bồi thường thiệt hại cũng được bổ
sung và hoàn thiện hơn, đã góp phần đảm bảo cho hợp đồng trong hoạt động
thương mại được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, bảo vệ lợi ích hợp pháp của
2
các bên trước hành vi vi phạm. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế sâu rộng các quan hệ thương mại, đặc biệt là các quan hệ thương mại quốc tế
ngày càng đa dạng và phức tạp, thì các quy định hiện hành về chế tài bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại vẫn còn nhiều bất
cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn kinh doanh. Có những vấn đề mà
pháp luật thương mại không quy định cụ thể, rõ ràng như: việc xác định thế nào
là tổn thất thực tế và trực tiếp chưa được quy định gây nhiều khó khăn trong việc
xác định các khoản thiệt hại được bồi thường; các quy định về miễn trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại chưa rõ
ràng đối với trường hợp người thứ ba có quan hệ với một bên trong hợp đồng
gặp bất khả kháng dẫn đến bên đó vi phạm hợp đồng thì có được miễn trách
nhiệm bồi thường hay không?. Những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành
về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại đã gây
nhiều khó khăn cho việc áp dụng và thực thi pháp luật. Việc khắc phục những
bất cập nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động thương mại hướng tới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên trong quan hệ thương mại cũng như duy trì trật tự kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Chính vì những lý do trên, tác giả lựa chọn việc nghiên cứu “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế tài do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại trong đó có bồi
thường thiệt hại là một chế định đã có từ lâu trong hệ thống pháp luật nước ta.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về chế tài bồi thường
thiệt hại. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
- “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Những vấn đề lí luận và
thực tiễn”, Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Hoàng Thị Hà Phương, Trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2011.
3
- “Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh
doanh – thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Luận văn thạc sỹ luật học
của tác giả Quách Thúy Quỳnh, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005.
- “Bồi thường thiệt hại do hàng hóa không phù hợp với hợp đồng theo quy
định của công ước Viên 1980 – So sánh với pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc
sỹ luật học của Trần Thùy Linh, Trường Đại học luật Hà Nội, năm 2009.
- “Về việc áp dụng chế tài phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại vào thực
tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động thương mại” của tác giả
Nguyễn Thị Hằng Nga (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9 năm 2006).
- “Thỏa thuận hạn chế hay miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng”
của TS.Dương Anh Sơn trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 3 năm 2005.
Ngoài ra, năm 2010 trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã tổ
chức một cuộc hội thảo về đề tài nghiên cứu “Không thực hiện đúng hợp đồng
trong pháp luật thực định Việt Nam” do TS.Đỗ Văn Đại làm chủ biên.
Các công trình nói trên đã đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại ở những mức độ và phạm vi khác
nhau, vào những khoảng thời gian nhất định. Nhìn chung, các công trình nghiên
cứu này chủ yếu đề cập một cách khái quát về tất cả các hình thức trách nhiệm
hợp đồng nói chung dưới góc độ lý luận hoặc nghiên cứu chuyên sâu về hình
thức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại nhưng lại trong bối
cảnh Luật thương mại năm 1997 và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 còn
hiệu lực. Tuy nhiên, khi Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật thương mại năm 2005
ra đời và có hiệu lực thì việc nghiên cứu chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại cho đến nay vẫn
chưa có công trình nào đề cập.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt mục đích tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận chung
nhất về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại,
đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt
4
hại, nêu ra những tồn tại, bất cập của những quy định này, trên cơ sở đó kiến
nghị, sửa đổi một số quy định của Luật thương mại về bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng thương mại. Từ mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
Thứ nhất, tìm hiểu một số vấn đề lí luận về bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng trong hoạt động thương mại nhằm làm rõ bản chất pháp lý, chức năng
của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương
mại, cấu trúc pháp luật về chế tài bồi thường thiệt hại và quá trình hình thành và
phát triển của các quy định về chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động thương mại ở Việt Nam.
Thứ hai, phân tích các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
Trong quá trình phân tích, luận văn so sánh các quy định của pháp luật hiện
hành với các quy định trong văn bản pháp luật trước đây và các quy định pháp
luật thương mại quốc tế về hình thức chế tài này để thấy rõ được những điểm
tiến bộ cũng như những hạn chế, bất cập của pháp luật thương mại hiện hành
gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tế.
Thứ ba, Từ việc nghiên cứu trên đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương
mại để đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại, đánh giá
thực trạng pháp luật để thấy được vị trí, vai trò và mối quan hệ của hình thức chế
tài này với các hình thức chế tài thương mại khác. Luận văn chỉ nghiên cứu, tìm
hiểu các quy định về chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thương mại của Luật thương mại năm 2005, ngoài ra có sự đối chiếu với
các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, Luật thương mại năm 1997, Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và các quy định trong hệ thống pháp luật
5
thương mại quốc tế mà đại diện là Công ước viên 1980 về mua bán hàng hóa
quốc tế và Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế nhằm
đưa ra sự so sánh với pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chung của học thuyết Mác –
Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cùng với việc sử dụng phương pháp luận chung nhất của phép biện chứng
duy vật, đề tài được thực hiện bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành luật như phương pháp mô tả, phân tích, so sánh, tổng
hợp, chứng minh, thống kê, lịch sử...
Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng chủ yếu để đánh giá, nhận
xét về các quy định pháp luật hiện hành về chế tài bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại trong tương quan so sánh với các
quy định trước đây cũng như pháp luật quốc tế. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng
phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử để đánh giá sự phát triển và những
hạn chế cần khắc phục của pháp luật hiện hành.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thương mại
1.1.1. Hợp đồng trong hoạt động thương mại và trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng trong hoạt động thương mại
1.1.1.1. Hợp đồng trong hoạt động thương mại
Để tồn tại và phát triển, cá nhân hay tổ chức đều phải tham gia vào nhiều
mối quan hệ xã hội khác nhau, trong đó có việc các bên thiết lập với nhau những
quan hệ để chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhất định nhằm đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng. Song việc chuyển giao các lợi ích vật chất này không phải tự
nhiên thiết lập mà chỉ được hình thành khi có hành vi có ý chí của chủ thể, nói
như C.Mác thì: “Tự thân chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao
đối với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau, thì những người
giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật
đó”[16, tr.577]. Theo đó, khi quan hệ trao đổi lợi ích vật chất được hình thành
trên cơ sở thống nhất ý chí giữa các bên thì được gọi là hợp đồng. Hợp đồng
theo nghĩa chung nhất được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ cụ thể.
Pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng trong hoạt động thương mại
nói riêng luôn là nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia
và hợp đồng thương mại là công cụ pháp lý chủ yếu để các thương nhận thực
hiện hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của mình. Tuy nhiên, với những truyền
thống pháp luật khác nhau, trình độ phát triển kinh tế xã hội và tập quán kinh
doanh không đồng nhất mà quan niệm về hợp đồng thương mại còn có sự khác
nhau giữa các quốc gia.
7
Các nước theo truyền thống pháp luật thông luật (Common Law) điển hình
là Anh, Mỹ, Úc… Những nước này không phận biệt giữa pháp luật dân sự và
pháp luật thương mại cũng như không có sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và
hợp đồng thương mại. Do đó, pháp luật của những nước này cũng hoàn toàn
không phân biệt các khái niệm hợp đồng, hợp đồng thương mại, hợp đồng dân
sự. Các quy định của pháp luật về hợp đồng được áp dụng thống nhất trong mọi
lĩnh vực của đời sống con người, từ lĩnh vực dân sự thuần túy đến lao động hay
kinh doanh thu lợi nhuận.
Ở các nước theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil law) như
Pháp, Đức, Bỉ, một số nước thuộc Châu Mỹ - La Tinh, Châu Á có Nhật Bản,
Thái Lan v.v… sớm có sự phân biệt hành vi thương mại và hành vi dân sự. Tuy
nhiên các nước chịu ảnh hưởng của truyền thống pháp luật này cũng chỉ coi
hành vi thương mại là một dạng đặc biệt của hành vi dân sự. Trong pháp luật
của các nước này không tồn tại khái niệm về hợp đồng thương mại với nội hàm
riêng của nó. “Mọi hợp đồng dù được xác lập giữa các thương nhân với mục
đích kinh doanh thu lợi nhuận hay giữa các công dân với mục đích sinh hoạt,
tiêu dùng đều được gọi chung là hợp đồng. Những hợp đồng nào xác lập từ các
hành vi thương mại sẽ chịu sự điều chỉnh của Bộ luật thương mại hoặc Luật
thương mại; đối với những vấn đề không quy định trong Bộ luật thương mại hay
Luật thương mại thì áp dụng những quy định chung trong Bộ luật dân sự”
[8,tr.4].
Ở Việt Nam, khoa học pháp lí và pháp luật thực định đã sử dụng nhiều khái
niệm pháp lý để chỉ hợp đồng trong hoạt động thương mại như: hợp đồng kinh
doanh, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại…Pháp luật hiện hành không đưa
ra định nghĩa về hợp đồng trong hoạt động thương mại mà chỉ quy định khái
niệm chung về hợp đồng dân sự. Bộ luật dân sự năm 2005 định nghĩa: “Hợp
đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự” (Điều 388). Với phạm vi áp dụng của Bộ luật
dân sự 2005, các quy định về hợp đồng dân sự được áp dụng cho hợp đồng nói
8
chung (trong các lĩnh vực dân sự, lao động, thương mại..). Như vậy, hợp đồng
trong hoạt động thương mại là môt dạng của hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, hoạt
động thương mại có những đòi hỏi đặc thù, đó là tính nhanh chóng, linh hoạt,
đơn giản, đảm bảo tối đa quyền tự do kinh doanh của các chủ thể mà hợp đồng
trong hoạt động thương mại cũng phải có những điểm khác biệt so với những
hợp đồng dân sự thông thường theo cách hiểu truyền thống. Có thể xem xét hợp
đồng trong hoạt động thương mại trong mối liên hệ với hợp đồng dân sự theo
nguyên lí của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Trong đó, hợp đồng dân
sự là cái chung còn hợp đồng trong hoạt động thương mại là cái riêng. Trên
quan điểm như vậy, “pháp luật về hợp đồng dân sự là pháp luật có tính chất cơ
bản, chung nhất, là nền tảng, còn pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương
mại là bộ phận pháp luật có tính chất chuyên ngành, là sự quy định cụ thể các
nguyên tắc của việc kí kết và thực hiện hợp đồng trong một lĩnh vực đặc biệt là
lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các thương nhân”[17, tr.21].
Trước đây, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 đã đưa ra khái niệm hợp
đồng kinh tế: “là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên kí
kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu,
ứng dụng nghiên cứu khoa học – kĩ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích
kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng
và thực hiện kế hoạch của mình” (Điều 1). Theo đó, hợp đồng kinh tế được kí
kết giữa pháp nhân với pháp nhân, pháp nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh
theo quy định của pháp luật, giữa các pháp nhân với người làm công tác khoa
học – kĩ thuật, nghệ nhân, hộ kinh doanh gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể
(Điều 2, Điều 42). Như vậy, theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 thì khái
niệm hợp đồng kinh tế có ngoại diên tương đối hẹp được đặc trưng bởi ba yếu tố
cơ bản là chủ thể, mục đích và hình thức của hợp đồng, do đó chưa bao quát
được hết mọi quan hệ hợp đồng phát sinh trong hoạt động kinh doanh.
Khi Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời và có hiệu lực, tất cả các loại hợp đồng
đều được coi là hợp đồng dân sự và được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự; không
9
còn sự phân biệt hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự nữa. Luật thương mại
năm 2005 không đưa ra khái niệm hợp đồng trong hoạt động thương mại. Tuy
nhiên, căn cứ Điều 388 Bộ luật dân sự năm 2005 và Khoản 1 Điều 3 Luật
thương mại năm 2005 có thể hiểu hợp đồng trong hoạt động thương mại là sự
thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan về
việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động
thương mại.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, có thể nhận diện hợp đồng trong
hoạt động thương mại theo một số tiêu chí pháp lý sau:
Về chủ thể hợp đồng, hợp đồng trong hoạt động thương mại được thiết lập
chủ yếu giữa các thương nhân. Theo Bộ luật thương mại Đức, chỉ cần một bên
của hợp đồng là thương nhân thực hiện hoạt động thương mại thì có thể áp dụng
pháp luật thương mại đối với hợp đồng này. Còn Bộ luật thương mại Pháp coi
hợp đồng có cả hai bên chủ thể là thương nhân là hợp đồng thương mại, nếu chỉ
có một bên là thương nhân, bên kia không phải là thương nhân thì đó là hợp
đồng hỗn hợp và nếu có tranh chấp xảy ra thì bên không phải là thương nhân
được quyền lựa chọn kiện thương nhân tại tòa dân sự thẩm quyền chung hoặc
tòa thương mại, trong khi đó nếu thương nhân kiện bên không phải là thương
nhân thì chỉ có thể kiện tại tòa dân sự thẩm quyền chung. Theo pháp luật thương
mại Việt Nam, có những quan hệ hợp đồng trong thương mại đòi hỏi các bên
đều phải là thương nhân (hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý
thương mại..). Bên cạnh đó có những hợp đồng thương mại đòi hỏi ít nhất một
bên là thương nhân (hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ bán
đấu giá hàng hoá, hợp đồng môi giới thương mại…).
Về hình thức, hình thức hợp đồng trong hoạt động thương mại được quy
định một cách đa dạng, có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ
thể của các bên giao kết. Trong một số trường hợp, pháp luật bắt buộc các bên
phải thiết lập hợp đồng bằng hình thức văn bản (hợp đồng đại lý thương mại,
hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ khuyến mại,…). Luật
10
thương mại 2005 cho phép các bên trong quan hệ hợp đồng có thể thay thế hình
thức văn bản bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (điện báo, fax,
thông điệp dữ liệu điện tử).
Mục đích của hợp đồng trong hoạt động thương mại là lợi nhuận. Khác với
hợp đồng dân sự thuần túy được kí kết với mục đích tiêu dùng, hợp đồng trong
hoạt động thương mại được kí kết với mục đích sinh lợi. Theo pháp luật Việt
Nam, với những hợp đồng ký giữa một bên là thương nhân với một bên không
phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận, việc áp dụng Luật
thương mại để điều chỉnh quan hệ hợp đồng này hay không do bên không có
mục đích lợi nhuận quyết định (Khoản 3 Điều 1 Luật thương mại 2005).
Về tính đền bù của hợp đồng thương mại: Pháp luật của hầu hết các nước
đều quy định hợp đồng thương mại phải mang tính đền bù. Ngay cả khi trong
hợp đồng không có thỏa thuận về giá cả thì một bên trong hợp đồng thương mại
có quyền yêu cầu thanh toán bằng tiền hoặc bằng các hình thức khác do việc
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.
1.1.1.2. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại
Trách nhiệm hợp đồng hay trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một thuật
ngữ được sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý. Nhưng khái niệm này chưa
được ghi nhận trong văn bản pháp luật nên còn có cách hiểu khác nhau. Có quan
điểm cho rằng,“trách nhiệm” đồng nghĩa với “nghĩa vụ” và như vậy trách nhiệm
hợp đồng trước hết là việc phải thực thi các nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ hợp
đồng sau đó là việc phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi khi vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng. Tác giả cho rằng không thể đồng nhất khái niệm trách nhiệm và
nghĩa vụ. Bộ luật dân sự năm 2005 phân biệt cụ thể “Nghĩa vụ dân sự” là việc
một hoặc nhiều chủ thể phải làm hoặc không được làm một công việc vì lợi ích
của một hoặc nhiều chủ thể khác (Điều 280); và “Trách nhiệm dân sự do vi
phạm nghĩa vụ” là việc người có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm trước người có quyền (Điều
302). Như vậy, trách nhiệm hợp đồng chính là trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
11
– là một dạng của trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ. Đây cũng là cách
hiểu của đa số những người nghiên cứu cũng như áp dụng pháp luật. Từ đó có
thể đưa ra khái niệm sau: “trách nhiệm hợp đồng là việc một bên trong quan hệ
hợp đồng phải gánh chịu các hậu quả pháp lý bất lợi do việc họ đã không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ hợp đồng”.
Về bản chất, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một dạng cụ thể của trách
nhiệm pháp lý và vì vậy đều mang đầy đủ các đặc điểm cơ bản của trách nhiệm
pháp lý như: chỉ phát sinh khi có các căn cứ do pháp luật quy định; do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền áp dụng; mang lại hậu quả pháp lý bất lợi cho các chủ
thể bị áp dụng. Tuy nhiên, do một số đặc thù của quan hệ pháp luật hợp đồng
nói chung và hợp đồng trong hoạt động thương mại nói riêng, trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại có một số đặc trưng riêng cho phép
chúng ta phân biệt nó với các loại trách nhiệm pháp lý khác, đó là:
* Về thẩm quyền áp dụng: Các chế tài do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thương mại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với bên vi
phạm hợp đồng dựa trên yêu cầu của bên có quyền lợi bị vi phạm. Tuy nhiên,
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại còn có thể do cơ
quan tài phán phi chính phủ (như trọng tài thương mại) áp dụng cho các hành vi
vi phạm.
*Về tính chất của trách nhiệm: Tính tài sản là đặc trưng của các hình thức
trách nhiệm áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng
phải dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình đề bồi hoàn tổn thất vật chất cho
phía bên kia dưới hình thức tiền phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại; hoặc
bên vi phạm phải gánh chịu những tổn thất về vật chất để có thể đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng như chi phí để thực hiện đúng hợp đồng. Trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại khi được áp dụng sẽ buộc bên
vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về mặt tài sản.
Sở dĩ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại mang
tính chất tài sản vì hợp đồng trong hoạt động thương mại là những hợp đồng
12
mang tính chất đền bù ngang giá, phản ánh mối quan hệ mang tính chất hàng
hóa tiền tệ, nên việc áp dụng các chế tài mang tính chất tài sản là tất yếu.
*Về Lĩnh vực phát sinh: Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại chỉ phát sinh trong lĩnh vực hoạt động thương mại khi hợp đồng đã
được kí kết và có hiệu lực pháp luật. Hợp đồng khi đã được kí kết và có hiệu lực
chính là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp
đồng. Nếu hợp đồng chưa được kí kết hoặc hợp đồng đã được kí kết nhưng
không có hiệu lực pháp luật thì sẽ không có căn cứ để xác định có hành vi vi
phạm hợp đồng hay không. Đặc điểm này cho phép phân biệt trách nhiệm hợp
đồng trong lĩnh vực thương mại với các loại trách nhiệm dân sự nói chung, trách
nhiệm dân sự có thể phát sinh trong các giao dịch dân sự không phải là hợp
đồng (ví dụ: hành vi pháp lý đơn phương, chiếm hữu sử dụng được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật..).
* Về mục đích áp dụng: Mục đích cao nhất của việc áp dụng các hình thức
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại là khôi phục lợi
ích vật chất và hạn chế những tổn thất cho bên có quyền lợi bị vi phạm. Điều
này xuất phát từ bản chất của các quan hệ hợp đồng kinh doanh là quan hệ mang
tính chất đền bù ngang giá.
Theo quy định của Luật thương mại 2005, các hình thức trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng bao gồm: buộc thực hiện đúng hợp đồng, hủy hợp đồng, phạt vi
phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện
hợp đồng và các hình thức chế tài khác do các bên thỏa thuận không trái với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. So với
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và Luật Thương mại năm 1997, Luật
thương mại năm 2005 đã bổ sung thêm hai loại chế tài nữa là: tạm ngừng thực
hiện hợp đồng và đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Là các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương
mại, các loại chế tài này đều mang những đặc điểm chung của trách nhiệm do vi
13
phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, từng loại chế tài lại có
những đặc điểm riêng biệt. Việc tìm hiểu cặn kẽ từng loại chế tài không nằm
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, vì vậy, ở đây luận văn chỉ giới thiệu
khái quát về các loại chế tài này với những đặc trưng về từng loại chế tài, từ đó
góp phần làm rõ bản chất pháp lý của chế tài bồi thường thiệt hại.
Buộc thực hiện đúng hợp đồng:
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó bên vi phạm
nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên bị vi phạm. Chế
tài này được quy định trong các Điều 297, 298, 299 Luật thương mại năm 2005.
Khoản 1 Điều 297 LTM 2005 quy định: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc
bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các
biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí
phát sinh”. Mục đích của chế tài này là đảm bảo thực hiện trên thực tế hợp đồng
đã kí kết, đảm bảo cho các bên đạt được lợi ích mà họ mong muốn từ việc thực
hiện hợp đồng.
Phạt vi phạm:
Phạt vi phạm là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi
phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định theo sự
thỏa thuận của các bên trên cơ sở quy định của pháp luật. Chế tài này được quy
định tại Điều 300 và Điều 301 Luật thương mại năm 2005. Căn cứ để bên bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt là: (i) có hành vi vi phạm hợp đồng (tức
là hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ các cam
kết trong hợp đồng); (ii) các bên có thỏa thuận trong hợp đồng về việc phạt vi
phạm. Lỗi trong phạt vi phạm được coi là lỗi suy đoán. Theo đó, mọi hành vi vi
phạm nghĩa vụ theo hợp đồng đều bị suy đoán là có lỗi (trừ trường hợp bên vi
phạm chứng minh được rằng mình không có lỗi). Mục đích của chế tài này
không chỉ trừng phạt bên có hành vi vi phạm, phòng ngừa hành vi vi phạm và
giáo dục ý thức tuân thủ các cam kết trong hợp đồng mà còn góp phần bù đắp
các tổn thất vật chất mà bên có quyền lợi bị vi phạm đã phải gánh chịu.
14
Trên thế giới, không phải pháp luật quốc gia nào cũng quy định hình thức
chế tài phạt vi phạm hợp đồng. Ví dụ, theo pháp luật hợp đồng Hoa Kì, chế tài
phạt hợp đồng về nguyên tắc không tồn tại. Người vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
chỉ phải bồi thường thiệt hại mà không bị phạt hợp đồng. Người phải thực hiện
nghĩa vụ có quyền tự do định liệu có thực hiện nghĩa vụ hay không, nếu xuất
hiện những cơ hội hấp dẫn hơn với các bên thứ ba, thì người này có thể không
thực hiện nghĩa vụ và đền bù thiệt hại cho bên bị vi phạm. Phạt hợp đồng, vì lẽ
đó hạn chế quyền tự do của bên phải thi hành nghĩa vụ, một điều khoản như vậy
trong hợp đồng có thể bị toà án Hoa Kỳ tuyên bố vô hiệu. Một bên không được
phép dùng hình thức phạt hợp đồng như là một biện pháp răn đe hạn chế quyền
tự do định đoạt của bên kia. Tuy nhiên, dưới những điều kiện nhất định, khi mà
việc xác định thiệt hại được các bên biết trước là sẽ rất khó khăn, các bên có thể
ước lượng thiệt hại mà bên vi phạm phải đền bù. Dưới những điều kiện khắt khe
nhất định, Tòa án có thể xem những thoả thuận ước lượng thiệt hại kể trên là
không vô hiệu.
Bồi thường thiệt hại
Cũng có mục đích trừng phạt bên có hành vi vi phạm và phòng ngừa vi
phạm, giáo dục ý thức pháp luật, nhưng khác với các chế tài khác, bồi thường
thiệt hại nhằm mục đích quan trọng nhất là bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích
vật chất bị thiệt hại cho bên bị vi phạm. Có thể nói rằng, bồi thường thiệt hại là
chế tài quan trọng và cơ bản nhất nhằm đảm bảo lợi ích của các bên khi hợp
đồng bị vi phạm. Chính vì thế, chế tài này có thể áp dụng cho hầu hết các hành
vi vi phạm hợp đồng.
Chế tài tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng:
So với Luật thương mại năm 1997, Luật thương mại năm 2005 đã bổ sung
thêm hai hình thức chế tài tạm ngừng và đình chỉ thực hiện hợp đồng. Các hình
thức chế tài: tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng thể
hiện sự tự vệ và khả năng phản ứng trực tiếp của bên bị vi phạm đối với bên vi
phạm hợp đồng và được quy định cụ thể từ Điều 308 đến Điều 315.
15
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng: được quy định tại Điều 308 và Điều 309
Luật thương mại năm 2005. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong thương mại là
hình thức chế tài, theo đó, một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp
đồng. Khi hợp đồng thương mại bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn có
hiệu lực. Bên vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với những tổn
thất đã xảy ra do hành vi vi phạm của bên kia.
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng. Khi hợp đồng trong hoạt động thương mại bị đình chỉ thực hiện thì
hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ.
Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện
nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
- Hủy hợp đồng là sự kiện pháp lý mà hậu quả của nó làm cho phần hợp
đồng bị hủy bỏ không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng có
thể là hủy bỏ một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ hợp đồng.
+ Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ
hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn có hiệu lực pháp luật.
+ Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả
các nghĩa vụ của hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Khi một hợp đồng thương
mại bị hủy bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là không có hiệu lực kể từ thời điểm
giao kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong
hợp đồng, trừ thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về
giải quyết tranh chấp.
Hủy bỏ hợp đồng và hợp đồng thương mại vô hiệu khác nhau cơ bản ở chỗ: hợp
đồng vô hiệu không có hiệu lực pháp luật ngay từ thời điểm kí kết do vi phạm
các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự
năm 2005 còn Hủy bỏ hợp đồng là hợp đồng thương mại sau khi kí kết, đã có
hiệu lực pháp luật tuy nhiên do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên làm cho
hợp đồng bị hủy bỏ.
16
Nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng mà các bên thỏa thuận tạm ngừng,
đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng thì không được coi là áp dụng
các hình thức chế tài. Chỉ được coi là chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương
mại khi một bên vi phạm hợp đồng và một bên tuyên bố đơn phương tạm ngừng,
đình chỉ, hoặc hủy bỏ hợp đồng.
Các hình thức chế tài: tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng được áp
dụng không giống nhau, song chúng cũng có những nét tương đồng cơ bản đó là
căn cứ áp dụng: trừ các trường hợp được miễn trách nhiệm hợp đồng, các chế tài
tạm ngừng, đình chỉ và hủy bỏ hợp đồng được áp dụng khi có một trong các
điều kiện sau:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm
ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng.
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Như vậy nếu không có thỏa thuận trong hợp đồng thì các hình thức chế tài
tạm ngừng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng chỉ áp dụng đối với
hành vi vi phạm cơ bản. Đây là điểm mới khá quan trọng của Luật thương mại
năm 2005. Việc đưa ra khái niệm về hai loại vi phạm cơ bản và không cơ bản là
cơ sở quan trọng để quyết định việc áp dụng các hình thức chế tài này. Việc bổ
sung này là phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế và thực tiễn thực hiện
thương mại của Việt Nam.
Các hình thức chế tài khác do các bên thỏa thuận
Bên cạnh việc bổ sung thêm hai hình thức chế tài là tạm ngừng và đình chỉ
thực hiện hợp đồng thì Luật thương mại năm 2005 đã cho phép các bên thỏa
thuận các hình thức chế tài khác, miễn là không trái với nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. Đây là điểm mới khá quan
trọng của Luật thương mại năm 2005 nhằm đảm bảo quyền tự do thỏa thuận, tự
do giao kết của các bên và đáp ứng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Các bên có
thể thỏa thuận thêm các hình thức chế tài mà Luật thương mại năm 2005 không
17
quy định cụ thể như cầm giữ tài sản, yêu cầu phong tỏa tài khoản…để đảm bảo
cho việc thực hiện hợp đồng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc
áp dụng các hình thức chế tài này sẽ theo điều kiện các bên đã thỏa thuận và áp
dụng quy định chung của Bộ luật Dân sự năm 2005.
1.1.2. Bồi thường thiệt hại – một hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại
1.1.2.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thương mại
Bồi thường thiệt hại là một chế tài pháp luật phổ biến đã có từ lâu trong hệ
thống pháp luật của nước ta cũng như của các nước trên thế giới. Theo Từ điển
Luật học, “bồi thường thiệt hại là việc người có hành vi vi phạm, có lỗi trong
việc gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần phải bồi hoàn cho người bị thiệt hại
nhằm phục hồi tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại”
[18, tr.84]. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần. Bộ luật dân
sự năm 2005 của Việt Nam cũng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
tại Điều 307 như sau:
“1.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt
hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn
thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn
thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu
nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản
tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại”.
Luật thương mại năm 2005 tại khoản 1, Điều 302 quy định: “bồi thường
thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm gây
18
ra cho bên bị vi phạm”.Trong quan hệ hợp đồng trong hoạt động thương mại,
với tính chất đền bù ngang giá, người ta chỉ chấp nhận bồi thường các thiệt hại
vật chất, còn các thiệt hai về tinh thần như tổn hại về uy tín, danh dự của thương
hiệu về nguyên tắc không được chấp nhận bồi thường.
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế không có định nghĩa thế nào là bồi thường
thiệt hại mà chỉ ghi nhận rằng “…trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi
thường thiệt hại” (Khoản 2 Điều 29 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989). Luật
thương mại năm 1997 thì quy định: “Bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền
lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng gây ra” (khoản 1 Điều 229).
Có thể thấy rằng có sự khác biệt giữa cách tiếp cận của Luật thương mại
2005 và Luật thương mại 1997. Luật thương mại 2005 tiếp cận bồi thường thiệt
hại dưới góc độ là nghĩa vụ của bên có hành vi vi phạm đối với bên bị vi phạm,
phải bù đắp các tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm. Còn luật thương mại năm
1997 tiếp cận bồi thường thiệt hại dưới góc độ quyền yêu cầu của bên bị vi
phạm đối với bên có hành vi vi phạm. Có thể thấy cách tiếp cận của Luật thương
mại năm 1997 chưa phản ánh đúng bản chất của bồi thường thiệt hại với tư cách
là một chế tài hợp đồng. Quy định của Luật thương mại 2005 đã thể hiện rõ bản
chất của chế tài này. Từ cách tiếp cận của Luật thương mại năm 2005, luận văn
cụ thể hóa khái niệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại như sau: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại là việc một bên trong hợp đồng phải bù đắp các tổn thất thực tế,
trực tiếp do hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ
các điều khoản hợp đồng mà mình gây ra cho phía bên kia.
1.1.2.2 Đặc trưng pháp lý của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng trong hoạt động thương mại
Các đặc trưng pháp lý của chế tài bồi thường thiệt hại sẽ là các căn cứ cho
phép chúng ta phân biệt nó với các loại chế tài khác theo quy định của pháp luật
19
hiện hành, và phân biệt nó với một số hình thức trách nhiệm bồi thường thiệt hại
khác.
a. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại
phát sinh khi hợp đồng đã được kí kết và có hiệu lực pháp luật.
Là một hình thức trách nhiệm hợp đồng, bồi thường thiệt hại cũng có đặc
trưng giống như các hình thức trách nhiệm hợp đồng nói chung, đó là chỉ phát
sinh khi hợp đồng đã được kí kết và có hiệu lực pháp luật. Nếu hợp đồng chưa
được kí kết hoặc đã được kí kết nhưng chưa có hiệu lực pháp luật, hoặc hợp
đồng vô hiệu thì các bên trong quan hệ hợp đồng chưa bị ràng buộc với nhau về
mặt pháp lý nên vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng cũng không
được đặt ra.
Đặc điểm này cho phép phân biệt bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động thương mại với một số hình thức trách nhiệm bồi thường khác,
như :
- So sánh với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
Điều 604 Bộ luật dân sự 2005 quy định “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân khác, xâm phạm đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoăc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”
Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hơp đồng là những quy
định của pháp luật (quy định những hậu quả pháp lý ngoài mong muốn của chủ
thể) không có sự thỏa thuận trước của các bên và được phát sinh chỉ trên cơ sở
hành vi bất hợp pháp do lỗi cố ý hoặc vô ý. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý hoàn
toàn do pháp luật quy định, trước thời điểm phát sinh trách nhiệm các bên trong
quan hệ pháp luật này không có quan hệ hợp đồng. Trong trường hợp có quan hệ
hợp đồng nhưng nếu có việc gây thiệt hại không liên quan gì đến việc thực hiện
hơp đồng thì đó cũng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Như
vậy có thể thấy sự khác biệt cơ bản giữa bồi thường thường hại do vi phạm hợp
20
đồng trong hoạt động thương mại với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường.
- So sánh với bồi thường thiệt hại do vi phạm một số hợp đồng khác như
hợp đồng lao động, hợp đồng dân sự
Lĩnh vực phát sinh trách nhiệm này cũng là cơ sở cho phép phân biệt bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại với bồi
thường thiệt hại do vi phạm một số hơp đồng khác như hợp đồng lao động, hợp
đồng dân sự. Việc khẳng định như thế nào là hợp đồng trong hoạt động thương
mại cũng như những đặc trưng pháp lý của nó được trình bày cụ thể trong phần
(1.1.1.1) đã thể hiện sự khác biệt giữa bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong hoạt động thương mại với bồi thường thiệt hại do vi phạm một số hợp
đồng khác
b. Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại là
một chế tài mang tính chất tài sản.
Tính chất tài sản của bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt
động thương mại thể hiện ở các khía cạnh sau:
Một là, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương
mại chỉ chấp nhận bồi thường các thiệt hại về vật chất. Trong khi bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chấp nhận bồi thường cả các tổn hại về vật chất và các
tổn hại về tinh thần (Điều 604 BLDS 2005).
Hai là, về cách thức áp dụng chế tài và mức độ bù đắp lợi ích vật chất: Mặc
dù cùng là chế tài áp dụng cho vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại
nhưng cách thức thực thi chế tài bồi thường thiệt hại và chế tài buộc thực hiện
đúng hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng lại hoàn toàn khác nhau. Cách thức thực thi
chế tài bồi thường thiệt hại là bên vi phạm hợp đồng phải dùng tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình để bù đắp các tổn thất vật chất do hành vi vi phạm gây
ra cho bên bị vi phạm. Trong khi đó, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và
hủy bỏ hợp đồng, mặc dù cũng đem lại những hậu quả vật chất bất lợi nhất định
cho người bị áp dụng, nhưng không có việc người vi phạm dùng tiền và tài sản
21
của mình để trả cho người bị vi phạm. Hai chế tài này được thực hiện thông qua
các quyền yêu cầu của bên có quyền lợi bị vi phạm, buộc bên vi phạm phải tiếp
tục thực hiện hợp đồng; hoặc tuyên bố hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ các nghĩa
vụ hợp đồng.
Việc quy định mức phạt của chế tài bồi thường thiệt hại và chế tài phạt vi
phạm hợp đồng là khác nhau. Phạt vi phạm hay còn gọi là bồi thường thiệt hại
được xác định trước, với các mức phạt được xác định trước theo giá trị hợp đồng
mà các bên trong quan hệ hợp đồng đã thỏa thuận khi kí kết hợp đồng (mức phạt
được quy định tại Điều 301 Luật thương mại năm 2005). Trong khi đó, nguyên
tắc bồi thường thiệt hại là bồi thường toàn bộ và kịp thời, mức bồi thường không
bị giới hạn bởi giá trị hợp đồng như chế tài phạt vi phạm. Có những trường hợp
số tiền bồi thiệt hại còn lớn hơn cả giá trị hợp đồng đã kí kết.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động
thương mại có sự khác biệt cơ bản so với nguyên tắc bồi thường thiệt hại theo
quy định của Bộ luật Lao động. Cụ thể là: trong quan hệ hợp đồng trong hoạt
động thương mại, bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do
hành vi vi phạm của mình gây ra, trong khi đó, Bộ luật lao động tùy từng trường
hợp cụ thể, có thể chỉ buộc người gây thiệt hại bồi thường một phần thiệt hại. Ví
dụ: Khoản 1 Điều 130 Bộ luật lao động năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng
05 năm 2013 quy định: “…Trường hợp người lao động gây thiệt hại không
nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do
Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì người lao
động phải bồi thường nhiều nhất là 3 tháng tiền lương và được khấu trừ hàng
tháng vào lương…”.
c. Mục đích áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong
hoạt động thương mại là đảm bảo lợi ích tối đa cho các bên liên quan trong quan
hệ hợp đồng
Mục đích quan trọng nhất của chế tài bồi thường thiệt hại là đảm bảo lợi
ích tối đa cho các bên liên quan trong quan hệ hợp đồng. Đối với bên bị vi phạm