Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vận dụng đời sống sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.37 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA: HTTTKT&TMĐT
----------

BÀI THẢO LUẬN
Bộ môn: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
Đề tài : “Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Vận dụng vào đời sống sinh viên.”

Hà Nội, 2018

0


Mục lục
Mục lục...................................................................................................................1
Câu nói liên quan...................................................................................................2
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................3
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................4
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................5
NỘI DUNG.............................................................................................................7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC..................................................................................7
1. Vật chất........................................................................................................7
1.1. Định nghĩa vật chất...............................................................................7
1.2. Các đặc tính của vật chất......................................................................8
2. Ý thức.........................................................................................................10
2.1. Nguồn gốc của ý thức.........................................................................10
2.2. Kết cấu của ý thức...............................................................................13
2.3. Bản chất của ý thức............................................................................15


3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.......................................................16
3.1.Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức............................................16
3.2. Ý thức tác động trở lại vật chất...........................................................17
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO ĐỜI SỐNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN..............................................................................................19
KẾT LUẬN...........................................................................................................31
Tài liệu tham khảo...............................................................................................32

1


Câu nói liên quan

“I will always choose a
lazy person to do a
difficult job. Because
he will find an easy
way to do it”
("Tôi sẽ luôn luôn chọn một người lười để làm một công
việc khó khăn. Bởi vì người đó sẽ tìm thấy một cách dễ
dàng để làm điều đó ")

- Bill Gates -

2


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, nhóm chúng em xin gửi lời cảm ơn đến thầy PGS.TS

Phương Kỳ Sơn đã dành thời gian hướng dẫn chúng em làm bài thảo
luận được chỉnh chu và hoàn thiện.
Chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị K51, K52 đã
truyền đạt lại cho chúng em những kinh nghiệm cần thiết để chúng em
làm bài thảo luận tốt hơn .
Cảm ơn cả nhóm đã đoàn kết, tích cực học tập, tham khảo, đưa ra
ý kiến để xây dựng bài thảo luận.

3


LỜI CAM ĐOAN
Nhóm chúng em là nhóm 4, gồm 9 thành viên xin được cam đoan
khi thực hiện đề tài này không photo, sao chép nguyên bản tài liệu chịu
trách nhiệm nào. Nếu chúng em có hành vi như trên, nhóm chúng em
xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

4


LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử thế giới đã trải qua bao cuộc đấu tranh để sinh tồn và phát triển.
Cũng từ các cuộc đấu tranh đó mà nhân loại đã có những bước tiến quan trọng
qua những bậc thang của thời đại, từ thuở loài người bắt đầu xuất hiện để trở
thành con người văn minh như ngày nay.Trong quá trình phát triển ấy, con người
đã tích lũy được những tư tưởng có giá trị đóng góp vào kho tàng tư tưởng của thế
giới. Dựa trên cơ sở những giá trị tư tưởng đó và tổng kết thời đại, triết học đặc
biệt chủ nghĩa Mác- Lênin hình thành và phát triển. Chủ nghĩa Mác-Lênin bao
hàm nội dung rộng lớn mang những giá trị khoa học và thực tiễn. Lịch sử của triết
học cũng là lịch sử của những cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề cơ bản của triết

học với hai phạm trù lớn: vật chất và ý thức. Song, để đi đến được những quan
niệm, định nghĩa khoa học và tương đối hoàn chỉnh về chúng cũng phải đến một
giai đoạn lịch sử nhất định với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng.
Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất
và ý thức. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức chính là mối quan hệ biện chứng.
Ăngghen đã viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học , đặc biệt là triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Mặt khác,mối quan hệ giữa tư duy
và tồn tại (hay vật chất và ý thức) có vai trò rất lớn đối với toàn nhân loại. Có rất
nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đế về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác - Lênin là đúng và đầy đủ đó là: “Vật
chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức,
đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người”. Không những vậy, nó còn tác động trực tiếp đến sự phát triển của một đất
nước, tạo ra mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, được vận dụng để phát triển
kinh tế xã hội. Hơn thế nữa, những nước đang phát triển trong quá trình hội nhập

5


và quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc nhận thức đúng đường lối ngày càng quan
trọng.
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,
phương hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì
vậy, ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu : Nếu ý thức phản ánh
đúng đắn điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi
cho sự phát triển của đối tượng vật chất. Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch
hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách
quan,do đó sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất. Tuy vậy, sự tác động của ý thức

đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoặc
tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được. Và suy cho cùng, dù ở mức độ
nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất . Biểu hiện ở mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội . Ngoài ra,
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu, xem xét các mối
quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lí.
Đối với mỗi con người chúng ta cần nên quan tâm đến việc phát huy vai trò
của bản thân, đóng góp năng lực, trí tuệ, lao động, cho xã hội, cống hiến hết mình
cho xứng đáng là con người của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước mạnh.
Trên cơ sở lý luận biện chứng của triết học Mác- Lênin kết hợp với nhiều phương
pháp nghiên cứu, trình bày, em hy vọng đề tài này sẽ giúp cho các bạn sinh viên
có được sự vận động tốt hơn những kiến thức của triết học trong việc tìm kiếm
những tri thức.
Chính vì những lẽ đó, nhóm em đã thảo luận đề tài: “ Nguyên lí về mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Từ đó vận dụng nguyên lý vào đời
sống học tập của sinh viên ”.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
1.1. Định nghĩa vật chất
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan điểm khác nhau về
nó. Nhưng theo Lênin khẳng định: “ Vật chất là một phạm trù triết học được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,

phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc và cảm giác”.
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo cách thông thường
vì khái niệm vật chất là khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối
lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, vật chất tồn tại độc lập với cảm giác, ý thức, còn cảm giác,
ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ảnh khách quan.
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học, Lênin một mặt muốn chỉ rõ
vật chất là khái niệm rộng nhất, muốn phân biệt tư cách là phạm trù triết học, với
những “ hạt nhân cảm tính” . Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không
có những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ được. Định nghĩa vật chất như vậy khắc
phục được những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật đồng nhất vật chất
với hình thức biểu hiện cụ thể của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có, không thể tiêu diệt được, nó tồn tại
bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người, vật chất là một thực
tại khách quan. Khác với quan niệm ý niêm tuyệt đối CNDTKQ, “ thượng đế” của
tôn giáo… Vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó,
trái lại phạm trù vật chất là kết quả của sự khái quát sự vật, hiện tượng cụ thể, và
do đó các đối tượng vật chất có thật, hiện thực đó có khả năng tác động vào giác
7


quan để gây ra cảm giác, và nhớ đó mà ta có thể biết được, hiểu được và nắm bắt
sự vật này. Định nghĩa của Lênin đã khẳng định được câu trả lời về hai mặt của
vấn đề cơ bản của triết học.
Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định như vậy một mặt muốn nhấn
mạnh tính thứ nhất của vật chất, và mặt khác khẳng định khả năng vật chất, vai trò
quyết định cúa nó với vật chất, và một mặt khẳng định khả năng nhận thức thế
giới khách quan của con người. Nó không chỉ phân biệt CNDV với CNDT, với
thuyết không thể biết mà còn phân biệt CNDV với nhị nguyên luận.

Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hoàn toàn triệt
để, nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, có ý
nghĩa trực tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi
sâu vào các dạng cụ thể của vật chất trong giới vi mô. Nó giúp chúng ta có thái độ
khách quan trong suy nghĩ và hành động.
1.2. Các đặc tính của vật chất
*Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu
của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là sự biến đổi
nói chung chứ không phải sự chuyển dịch trong không gian. Ăngghen định nghĩa :
“ Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, – tức được hiểu là một phương thức tồn
tại vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
trong mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn gian cho đến
tư duy”. Vận động có 5 hình thức vận động chính là cơ- hóa- lí-sinh- xã hội. Các
hình thức vận động này khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà
có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau, một hình thức vận động này thực
hiện là tác động qua lại với những hình thức hoạt động khác, trong đó vận động
cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của

8


mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó
bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có vật
chất không vận động, tức vật chất tồn tại. Vật chất thông qua vận động mà biểu
hiện sự tồn tại của mình. Ăngghen nhận định rằng các hình thức và các dạng khác
nhau của vật chất, chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động mới có thể thấy
được thuộc tính của nó. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô,
trong hệ thống hành tinh khổng lồ.

Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu xác
định, gồm những bộ phận, nhân tố khác nhau, cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động
lẫn nhau gây ra nhiều biến đổi. Nguồn gốc vận động do 0những nguyên nhân bên
trong, vận động vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên
ngoài vật chất. Nó không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được; do đó nó
được bảo toàn cả số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã chứng minh rằng nếu một
hình thức vận động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nó nảy sinh một hình thức
vận động khác thay thế. Các hình thức vận động chuyển hóa lẫn nhau còn vận
động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại.
Mặc dù vận động luôn ở trong quá trình không ngừng, nhưng điều đó
không loại trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối, không có nó thì
không có sự phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và
đa dạng. Ăngghen khẳng định rằng khả năng đứng im tương đối của các vật thể,
khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hóa vật chất.
Nếu vận động là biến đổi của các sự vật, hiện tượng thì đứng im là sự ổn định, là
sự bảo toàn tính quy định sự vật, hiện tượng. Đứng im chỉ một trạng thái vận
động, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Trạng thái đứng im
còn được biểu hiện như là một quá trình vận động trong phạm vi sự vật ổn định,
chưa biến đổi, chỉ là tạm thời vì nó chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định. Vận
9


động riêng biệt có xu hướng phá hoại sự cân bằng còn vận động toàn thể lại phá
hoại sự cân bằng riêng biệt làm cho các sự vật luôn biến đổi, chuyển hóa nhau.
* Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất, có vị trí, có
hình thức kết cấu, có độ dài ngắn cao thấp. Không gian biểu hiện sự tồn tại và
tách biệt của các sự vật với nhau, biểu hiện qua tính chất và trật tự của chúng. Còn
thời gian phản ánh thuộc tính của các qúa trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm,

kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định. Thời gian biểu hiện trình độ, tốc độ của
quá trình vật chất, tính tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó,
trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật hiện tượng.
Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận
động. Lênin đã chỉ ra trong thế thới không có gì ngoài vật chất đang vận động.
Không gian và thời gian tồn tại khách quan, bị vật chất quy định; nó không phải
bất biến, không thể đứng ngoài vật chất, không có không gian trống rỗng, mà nó
có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động. Trong đó, không gian có ba chiều
: chiều cao, chiều rộng, chiều dài: thời gian có một chiều: chiều từ quá khứ đến
tương lai.
* Tính thống nhất vật chất của thế giới
CNDT coi ý thức, tinh thần có trước, quyết định vật chất, còn CNDV thì
ngược lại. Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng chỉ có một thế giới duy nhất là
thế giới vật chất, đồng thời còn khẳng định rằng thế giới đều là những dạng cụ thể
của vật chất, có liên hệ vật chất thống nhất với nhau như liên hệ về cơ cấu tổ
chức, lịch sử phát triển và đều phải tuân thủ theo quy luật khách quan của thế giới
vật chất, do đó nó tồn tại vĩnh cửu, không do ai sinh ra và cũng không mất đi
trong thế giới đó, không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi
là chuyển hóa lẫn nhau, là nguyên nhân và kết quả của nhau.

10


2. Ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
* Nguôn gốc tự nhiên
Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức, trong đó, hai yếu
tố cơ bản nhất là bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan tạo nên hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo.
Về bộ óc người: ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là

bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thành kinh của
bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu
quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình
phản ánh năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người khách quan là quan hệ
giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người
xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan được phản ánh thông qua
hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của các dạng vật chất này ở dạng
vật chất khác trong trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, được thể hiện dưới
nhiều hình thức, trình độ: phản ánh vật lí, hóa học; phản ánh sinh học; phản ánh
tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo. Những hình thức này tướng ứng với quá
trình tiến hóa của các dạng vật chất tự nhiên.
Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới
khi xuất hiện con người và bộ óc. Khoa học chứng minh rằng thế giới vật chất nói
chung và trái đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người,
rằng hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh
bộ não con người. Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ não, vì ý thức là chức
năng của bộ não, bộ não là khí quản của ý thức. Sự phụ thuộc ý thức vào hoạt
11


động bộ não thể hiện khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn.
Tuy nhiên, không thể quy một cách đơn giản ý thức về quá trình sinh lí bởi vì óc
chỉ là cơ quan phản ánh. Sự xuất hiện của ý thức gắn liền sự phát triển đặc tính
phản ánh, nó phát triển cùng với sự phát triển của tự nhiên. Sự xuất hiện của xã
hội loài người đưa lại hình thức cao nhất của sự phản ánh, đó là sự phản ánh ý
thức luôn gắn liền với việc làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát triển của
xã hội.

* Nguồn gốc xã hội
Sự ra đời của ý thức gắn liền hình thành với sự phát triển của bộ óc con
người dưới ảnh hưởng của lao động và giao tiếp QHXH.
Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính xã hội nhằm tái tạo,
thỏa mãn nhu cầu phục vụ mục đích bản thân con người. Nhờ nó mà con người và
xã hội loài người mới hình thành và phát triển. Lao động là phương thức tồn tại cơ
bản đầu tiên của con người, đồng thời ngay từ đầu đã liên kết con người với nhau
trong mối quan hệ khách quan, tất yếu; mối quan hệ này đến lượt nó nảy sinh nhu
cầu trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động, nhu cầu “cần phải nói với nhau một
cái gì”. Và kết quả là ngôn ngữ ra đời.
Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư duy, với sự xuất hiện của ngôn
ngữ, tư tưởng con người có khả năng biểu hiện trở thành hiện thực trực tiếp, trở
thành tín hiệu vật chất tác động tới giác quan con người và gây ra cảm giác. Nhờ
có nó mà con người có thể giao tiếp, trao đổi truyền đạt kinh nghiệm cho nhau,
thông qua đó mà ý thức cá nhân trở thành ý thức xã hội và ngược lại. Chính nhờ
trừu tượng hóa và khái quát hóa tức là quá trình hình thành thực hiện ý thức,
chính nhờ nó mà con người đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng đồng thời
tổng kết hoạt động của mình trong toàn bộ quá trình hình thành phát triển lịch sử.
Như vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra
đời và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao động và dồng thời với lao động là
ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn,
12


đã làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người, khiến cho
tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
2.2. Kết cấu của ý thức
Cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trường phái
khác nhau. Theo quan điểm của CNDVBC khẳng định rằng ý thức là đặc tính và
là sản phẩm của vật chất, là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông

qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng tinh thần ý thức chẳng qua chỉ là
cái vật chất được di truyền vào bộ óc con người và được cải biến trong đó. Ý thức
là một hiện tượng tâm lí xã hội có kết cấu phức tạp gồm ý thức tri thức, tình cảm,
ý chí; trong đó, tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức, vì sự
hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết tới quá trình con người
nhận thức và cải biến giới tự nhiên. Tri thức càng được tĩnh lũy con người càng đi
sâu vào bản chất của sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của
ý thức nhờ đó mà tăng hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng
có ý nghĩa chống quan điểm đơn giản coi ý thức là tình cảm, niềm tin,… Quan
điểm đó chính là bệnh chủ quan duy ý chí của niềm tin mù quáng. Tuy nhiên, việc
nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận coi nhẹ yếu
tố vai trò tình cảm, ý chí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà CNDT coi nó là một thực thể
độc lập có sẵn trong cá nhân, biểu hiện xu hướng về bản thân mình, tự khẳng định
cái tôi riêng biệt, tách rời xã hội. Trái lại CNDVBC tự ý thức là ý thức hướng về
nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Khi phản ánh
thế giới khách quan con người tự phân biệt mình, đối lập mình với thế giới đó là
sự nhận thức mình như là một thực thể vận động, có cảm giác, tư duy có các hành
vi đạo đức và vị trí xã hội. Mặt khác, sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã
hội đòi hỏi con người nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh theo các quy tắc
tiêu chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra, văn hóa đóng vai trò là cái gương soi giúp
cho con người tự ý thức bản thân.

13


Vô thức là hiện tượng tâm lí, nhưng có liên quan đến hoạt động xảy ra ở
ngoài phạm vi của ý thức. có hai loại vô thức: loại thứ nhất liên quan đến các
hành vi chưa được con người ý thức, loại thứ hai liên quan đến các hành vi trước
kia đã được ý thức nhưng do lặp lại nên trở thành thói quen, có thể diễn ra tự động

bên ngoài sự chỉ đạo của ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động
của con người. Trong những hoàn cảnh đó, nó có thể giúp con người giảm bớt sự
căng thẳng trong hoạt động. Việc tăng cường rèn luyện để biến thành hành vi tích
cực thành thói quen, có vai trò quan trọng trong đời sống.
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các
quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thức, được hình
thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của còn người khi nhận sự tác động
của ngoài cảnh. Tình cảm bieeyr hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống
của con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động
nhận thức và thực tiễn.
Tùy vào đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng
đó mà tình cảm được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như : tình cảm
đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,v.v..
Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt qua
những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí được coi là mặt năng
động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự ý
thức mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để thực
hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể coi ý thức là quyền lực của con người
đối với mình; nó điều khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích
một cách tự giác; nó cho phép con người tự kiềm chế tự làm chủ bản thân và
quyết đoán trong hành động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân
chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu
thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý
chí là một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người
14


trong cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân
loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau,

song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương tức tồn tại của ý thức, đồng thời
là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của
các yếu tố khác.
2.3. Bản chất của ý thức
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản
ánh, sáng tạo và bản tính xã hội.
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thông tin bên ngoài là biểu thị nội
dung được từ vật gây tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản
tính của nó quy định mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy khách quan làm
tiền đề, bị nó quy định nội dung phản ánh là thế giới khách quan. Ý thức ngay từ
đầu đã gắn liền với lao động trong hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự
nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu của hoạt động đó. Tính
sáng tạo của ý thức được biểu hiện rõ ở chỗ nó không chụp lại một cách thụ động
nguyên xi mà gắn liền với cải biến, quá trình thu nhập thông tin gắn liền với quá
trình xử lí thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn được biểu hiện ở khả năng gián
tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá trình chú động, tác động vào thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời, không
có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát và là cơ sở của
sáng tạo. Đó là MQHBC giữa thu nhập xử lí thông tin, là sự thống nhất mặt khách
quan, chủ quan của ý thức.
Ý thức được nảy sinh trong lao động, hoạt động cải tạo thế giới của con
người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt đọng xã hội. Ý
thức trước hết là ý thức của con người về xã hội và hoàn cảnh và những gì đang
diễn ra ở thế giới khách quan về mối liên hệ giữa người và người trong quan hệ xã
hội. Do đó ý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội và các quy
15


luật của tồn tại xã hội đó… Ý thức của mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã
hội, bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh sáng tạo. Sự

thổng nhất đó thể hiện ở tính năng động, cải tạo thế giới của con người.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Quan điểm triết học Mác - Lênin đã khẳng định trong mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức thì vật chất và ý thức tác động trở lại vật chất để làm rõ quan điểm
này chúng ta chia làm hai phần.
3.1.Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức.
Lê- Nin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm
trù vật chất “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại
phản ánh và được tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Từ định nghĩa của Lê Nin đã khẳng định vật chất là thực tại khách quan vào
bộ não của con người thông qua tri giác và cảm giác. Thật vậy vật chất là nguồn
gốc của ý thức và quyết định nội dung của ý thức.
Thứ nhất, phải có bộ óc của con người phát triển ở trình độ cao thì mới có
sự ra đời của ý thức.Phải có thể giới xung quanh là tự nhiên và xã hội bên ngoài
con người mới tạo ra được ý thức, hay nói cách khác ý thức là sự tương tác giữa
bộ não con người và thế giới khách quan. Ta cứ thử giả dụ, nếu một người nào đó
sinh ra mà bộ não không hoạt động được hay không có bộ não thì không thể có ý
thức được. Cũng như câu chuyện cậu bé sống trong rừng cùng bầy sói không
được tiếp xúc với xã hội loài người thì hành động của cậu ta sau khi trở về xã hội
cũng chỉ giống như những con sói. Tức là hoàn toàn không có ý thức.
Thứ hai, là phải có lao động và ngôn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của
ý thức. Nhờ có lao động mà các giác quan của con người phát triển phản ánh tinh
tế hơn đối với hiện thực... ngôn ngữ là cần nối để trao đổi kinh nghiệm tình cảm,
hay là phương tiện thể hiện ý thức. Ở đây ta cũng nhận thấy rằng nguồn gốc của
xã hội có ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức.
Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật chất
thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
16



VD1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt
động của ý thức cũng bị rối loạn.
VD2: Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công nghệ
thông tin là rất yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo
viên giảng dậy còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật chất được đáp ứng thì
trình độ công nghệ thông tin của các em cấp 1, 2, 3 sẽ tốt hơn rất nhiều.
VD3: Đã khẳng định điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức 3 chỉ là như
thế đó.
3.2. Ý thức tác động trở lại vật chất.
Trước hết ta đưa ra định nghĩa của ý thức: ý thức là sự phản ánh sáng tạo
thế giới khách quan vào trong bộ não con người thông qua lao động mà ngôn ngữ.
Nó là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người như: Tình cảm yêu thương, tâm
trạng, cảm súc, ý trí, tập quán, truyền thống, thói quen quan điểm, tư tưởng, lý
luận, đường lối, chính sách, mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng.
Các yếu tố tinh thần trên đều tác động trở lại vật chất cách mạng mẽ. VD.
Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một
dây chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn
của đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê - Nin đã nói: “ Không có lý luận cách mạng
thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Như vậy ý thức không hoàn toàn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức có tính
độc lập tương đối vì nó có tính năng động cao nên ý thức có thể tác động trở lại.
Vật chất góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của
con người.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thấy đẩy hoạt động
thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Khi phản ánh
đúng hiện thực khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của các
sự vật hiện tượng trong thế giới quan.

VD1: Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 10000C thì con
người tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ
chủng loại, chứ không phải bằng phương pháp thủ công xa xưa.
17


VD2: Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư sản đại
hội VI, đảng ta chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế
thị trường, nhờ đó mà sau gần 20 năm đất mới bộ mặt đất nước ta đã thay đổi hẳn.
Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt
động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới quan. VD: Nhà máy
sử lý rác thải của Đồng Tháp là một ví dụ điển hình, từ việc không khảo sát thực
tế khách quan hay đúng hơn nhận thức về việc sử lý rác vô cơ và rác hữu cơ là
chưa đầy đủ vì vậy khi vừa mới khai trương nhà máy này đã không sử lý nổi và
cho đến nay nó chỉ là một đống phế liệu cần được thanh lý.

18


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ
BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO ĐỜI
SỐNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
28. Lê Thị Thu Hiền
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật chất
đối với ý thức đồng thời cũng vạch rõ sự tác động ngược lại vô cùng quan trọng
của ý thức đối với vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi
ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động ngược trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Đối với mỗi con người chúng ta cần nên quan tâm đến việc phát huy vai trò
của bản thân, đóng góp năng lực, trí tuệ, lao động, cho xã hội, cống hiến hết mình

cho xứng đáng là con người của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước giàu
mạnh. Đặc biệt là thế hệ sinh viên – những chủ nhân tương lai của đất nước. Có
thể nói sinh viên Việt Nam khá thông minh, sáng tạo, có khả năng tiếp nhận tri
thức tốt. Tuy nhiên, một số sinh viên vẫn còn mắc “bệnh” thụ động trong học tập,
sinh viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình, mặc
dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô giáo lên lớp chỉ hướng dẫn
và đưa ra tư liệu đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo.
Từ cơ sở lý luận biện chứng của triết học Mác- Lênin kết hợp với nhiều
phương pháp nghiên cứu, em hy vọng mình có được sự vận động tốt hơn những
kiến thức của triết học trong việc tìm kiếm những tri thức.
Tạp chí Scient et vie ( Pháp ) viết: “Ai tự học mạnh nhất, người đó tích lũy
được nhiều tiềm năng sáng tạo dồi dào nhất. Ngược lại, ai có nhu cầu sáng tạo
nhiều hơn, người ấy càng thôi thúc ý chí tự học cao hơn.”.
Tự học có vai trò quan trọng trong quá trình học tập của học sinh, sinh viên.
Đặc biệt là sinh viên khi bước chân vào giảng đường đại học. Tự học để tiếp cận
với sáng tạo. Em phải rèn luyện để tìm tòi kỹ năng ứng biến. Đó là tiêu chí cần
thiết để phân định sự thông thái của chủ thể nhận thức đồng thời là chủ thể sáng
19


tạo. Trí thông minh và óc sáng tạo của mỗi con người được biểu hiện chủ yếu
bằng hành động, thay vì chỉ dừng lại ở ý thức được thể hiện chủ yếu bằng sự đáp
ứng những thử thách trong quá trình vận dụng kiến thức thay vì chỉ quanh quẩn ở
việc vun bồi kiến thức. Bởi vậy các chuyên gia UNESCO đã có lý khi khẳng định:
“ người hiểu biết ít mà vận dụng nhiều ( có hiệu quả ) biểu hiện một trí tuệ hơn
hẳn một người biết nhiều mà vận dụng ít”. Em không chỉ dừng lại ở mức lĩnh hội,
mà cần phải chuyển sang tìm tòi cách cải biến và cách lĩnh hội đó.
Trong quá trình học tập, em luôn đưa ra định hướng cho việc học của mình
và thiết lập một thời gian biểu hợp lí trong lúc học lẫn lúc thi. Em luôn giữ vững
tinh thần tự học, tự tìm hiểu, nghiên cứu. Khi muốn học, muốn hiểu sâu được một

chủ đề nào thì điều quan trọng nhất là tự mình chạm vào nó trước, phải tự mình
khơi mở trước trong đầu, như gieo mầm cho việc tiếp thu , thẩm thấu của mình.
Bản chất của tự học là tự làm việc với chính mình trước, nghiên cứu tài liệu, trao
đổi với bạn bè theo cách học nhóm và được thầy khơi gợi, hướng dẫn. Khi học
bài, nghiên cứu tài liệu em luôn viết lại và truyền đạt lại cho người khác. Bởi viết
lại là cách tiếp thu tốt nhất và truyền đạt lại cho người khác là cách nắm vững vấn
đề nhất.
Ngày nay công nghệ thông tin được công nhận là bộ phận không thể thiếu
trong giáo dục. Vì vậy, em luôn tích cực tiếp cận, truy cập Internet để có thể tiếp
nhận những thông tin khoa học mới nhất và có cơ hội trao đổi ý kiến với bạn bè
thế giới. Và vận dụng những tri thức lĩnh hội được vào thực tế, không chỉ toàn là
lý thuyết, vận dụng chúng vào sản xuất, nghiên cứu,..
Là sinh viên trường ĐH Thương mại, em luôn nhắc nhở bản thân phải phấn
đấu cố gắng học tập và rèn luyện bản thân để sau khi ra trường có được công việc
đúng chuyên ngành, sở thích của mình. Vì vậy, ngay từ bây giờ - là sinh viên năm
nhất, em phải phát triển cho mình khả năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề
có óc thực tế, không định kiến, không câu nệ thành kiến. Và phát huy tinh thần tự

20


học, tự nghiên cứu và tìm kiếm phương pháp học hay hơn, phù hợp với bản thân,
phù hợp với hệ thống giáo dục của nước ta.

29. Trần Xuân Hiếu
Có quá nhiều sinh viên vừa học vừa chơi vá cũng có quá nhiều sinh viên
quên hết tất cả mọi thứ trên đời để học. Cả hai phương pháp như vậy đều mang lại
những bất cập và hiệu quả khác nhau. Một bên là sự hụt hẫng về kiến thức một
bên là mệt mỏi căng thẳng lo âu chồng chất... đối với bản thân mình việc vừa học
vừa chơi cớ vẻ như mang lại hiệu quả khá tích cực. Biết phân bổ thời gian hợp lý

khi nào học khi nào giải trí thì hiệu quả cũng như chất lượng học tập ngày càng
được nâng cao sau mỗi giò học căng thẳng là khoảng thời gian để bộ não nghỉ
ngơi sẽ là tăng chất lượng hoạt động của bộ não cũng như nâng cao chất lượng
học tập.

30. Trương Phạm Quỳnh Hoa
Bản thân mỗi người phải tự xác định được điều kiện khách quan ảnh hưởng
đến cuộc sống và việc học tập. Bản thân em là một sinh viên năm nhất khoa
HTTT&TMĐT của trường ĐH Thương Mại, học tập theo cơ chế tín chỉ. Trường
ĐH thương mại là môi trường học tập năng động với cơ sở vật chất đầy đủ và
đang được cải thiện năng cấp ngày một tốt hơn. Tuy nhiên, trường vẫn chưa có
sân VĐ và khu vực học tập chuyên biệt, riêng dành cho bộ môn GDTC, khiến cho
quá trình học tập của sinh viên ít nhiều còn bị ảnh hưởng.
Dù vậy, quan trọng nhất vẫn là ở ý thức của mỗi sinh viên cần biết tôn
trọng khách quan và hành động theo các quy luật mang tính khách quan thể hiện
một ở việc tuân thủ thời khóa biểu mà mỗi khoa đã giao cho sinh viên để đi học
đúng giờ, đầy đủ không bỏ tiết hay nhờ hoặc thuê người học hộ. Thực hiện những
yêu cầu mà giảng viên đã giao cho. Ngoài ra cần tuân thủ các nội quy của trường
đặc biệt là quy chế thi cử. Không chỉ vật chất quy định ý thức mà ngược lại ý thức
còn có sự tác động trở lại đối với vật chất mà trong kết cấu của ý thức thì tri thức
21


là yếu tố quan trọng nhất. Chính vì vậy, sinh viên cần tích cực học tập, chủ động
tự tìm hiểu nghiên cứu các kiến thức chuyên ngành mà không nên quá phụ thuộc
vào giảng viên. Ngoài ra, cần trang bị cho bản thân các kĩ năng khác như tin học,
ngoại ngữ, kĩ năng mềm đều rất cần thiết. Tuy nhiên, nhưng tri thức của sách vở
là chưa đủ, xã hội luôn cần và đòi hỏi mỗi người cần có những kỹ năng sống đầy
đủ. Vì vậy, ngoài học tập chúng ta cần tham gia vào các hoạt động tình nguyện,
hoạt động tập thể.

Tình cảm cũng là một yếu tố rất quan trọng, để học tập tốt thì ta cần có đam
mê đối với môn học bất kể là môn chuyên ngành hay môn đại cương. Phải có tinh
thần thoải mái mới tạo được hứng thú trong học tập.
Cuộc sống đại học xa nhà, tự lập một mình, ẩn chứa nhiều thử thách và cám
dỗ. Vì vậy chúng ta cần tạo cho mình ý chí kiên định để tránh xa thói hư tật xấu.
Chẳng hạn cần phải có những quy tắc riêng cho bản thân trước việc bạn bè tụ tập
nhậu nhẹt xa đà, không nên vì lười biếng mà cúp học, chưa học bài xong mà đã đi
ngủ hoặc chat chit, lướt facebook.
Trong chuyện tình yêu nam nữ cần chân thành, thật lòng chứ không phải
tình yêu vụ lợi, yêu vì vật chất tiền bạc và có mục đích khác.
Mặt khác cũng cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo
tyhur trì trệ. Cần tiếp thu có chọn lọc những ý kiến mới, biết lắng nghe điều phải
làm hôm nay không được để dến ngày mai. Không chủ quan trước mọi tình
huống.

31.Nguyễn Thị Hồng
Vật chất và ý thức có mối liên hệ biện chứng, chúng đóng vai trò vô cùng quan
trọng đối với đời sống xã hội hiện nay và đặc biệt là chúng gắn liền với đời sống
học tập của sinh viên. Riêng bản thân em, em cũng thấy rõ được tầm quan trọng
của mối liên hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.

22


Hơn hai tháng trôi qua, kể từ ngày em bước chân vào cánh cổng Đại học
Thương mại, đã biết bao khó khăn đến với em và buộc em phải tự tìm cách giải
quyết vấn đề cho mình. Và vấn đề em cảm thấy khó khăn nhất chính là việc học
tập, sinh sống ở một môi trường mới. Chính vì thay đổi của môi trường sống, xa
gia đình, xa những người thân yêu và những áp lực về kinh tế mà em luôn bị căng
thẳng, lo lắng bởi đây là lần đầu tiên em sống xa nhà và phải tự lập cho cuộc sống

của mình. Đây cũng là lần đầu tiên mà em cầm trên tay số tiền lớn như vậy để tự
đóng học phí và lo cho cuộc sống của mình. Lúc đó trong đầu em vừa lo sợ, vừa
băn khoăn. Lo sợ bởi với số tiền lớn như vậy mình phải giữ thế nào cho khỏi bị
lấy mất, còn băn khoăn vì không biết chi tiêu như nào cho hợp lí để đủ cho cả
tháng xa nhà? Biết bao suy nghĩ đã hiện ra lúc đó và rồi một tháng trôi qua thật
nhanh và với em là khá ổn. Em đã tự tìm cho mình cách chi tiêu hợp lí nhất và
không còn lo lắng về vấn đề chi tiêu như trước nữa. Và chính ví dụ thực tiễn trên
cho thấy vai trò của mối liên hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất quyết định ý
thức. Vì thế vật chất (tiền chi tiêu hàng tháng) đã tác động lên ý thức của em, hay
nói cách khác môi trường sống thay đổi em phải tự điều chỉnh bản thân phải chi
tiêu hợp lí, hiệu quả để thích nghi với môi trường mới.
Vấn đề khó khăn tiếp theo mà em gặp phải đó là việc tiếp cận với phương
pháp học tập mới làm em bị “sốc”. Môi trường học đại học, một lớp học thường
có số lượng sinh viên lớn, để có thể kiểm soát được việc học tập của tất cả sinh
viên là một điều rất khó cho thầy cô. Trước kia ở phổ thông, thầy cô có thể qua
tâm hầu hết đến tất cả học sinh trong lớp nhưng đại học lại không như vậy. Hay
nói cách khác, việc học tập ở đại học không còn là việc chờ đợi sự đôn đốc, thúc
giục của thầy cô, mọi thứ hoàn toàn là sự tự giác của mỗi sinh viên. Em đã từng
thấy một lớp học mà mỗi sinh viên làm một việc, người thì chú ý nghe giảng,
người thì sử dụng điện thoại lướt facebook, chơi game, thậm chí còn có sinh viên
ngủ gục luôn ở trên lớp. Điều em muốn nói ở đây chính là ý thức học tập, sự tự
giác của mỗi sinh viên. Đặc biệt là những sinh viên năm nhất như em, nhìn vào
những hình ảnh trên, em thấy vô cùng thất vọng và chán nản, phải chăng những
23


sinh viên năm nhất như chúng em đang “ngủ quên trong chiến thắng” sau những
vất vả ôn thi đại học? Như chúng ta đã học “ý thức cũng có thể tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động của con người. Nếu ý thức đúng thì hoạt động thành
công, ý thức sai thì hoạt động thất bại”. Vận dụng trực tiếp vào hiện tượng trên,

nếu chúng ta có ý thức, chăm chỉ học tập và rèn luyện thì thành tích học tập sẽ tốt.
Ngược lại nếu mải chơi, không tập trung học thì thành tích học tập sẽ rất kém.
Qua những ví dụ em đưa ra ở trên, em nhận thấy mối liên hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức rất quan trọng với đời sống sinh hoạt cũng như học tập và làm
việc của chúng ta. Vật chất quyết định ý thức và ý thức cũng có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động của con người. Nếu ý thức đúng thì hoạt động
thành công, ý thức sai thì hoạt động thất bại.
32. Nguyễn Thị Hồng
Áp dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc định hướng học tập
để tìm kiếm việc làm trong tương lai.
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất có trước, ý thức có
sau, vật chất là nguồn gốc ý thức, quyết định ý thức. Từ nhận định này, đối với
sinh viên đại học tìm kiếm việc làm trong tương lai sau khi tốt nghiệp là rất quan
trọng . Nhưng tình hình hiện nay đối với sinh viên là khá quan ngại. Để dễ dàng
thì công việc trong thời buổi năng động hiện tại và tương lai yêu cầu sinh viên
phải có kiến thức chuyên ngành, kĩ năng mềm, kĩ năng thực hành thực tế, có tri
thức hiểu biết sâu rộng. Trước tình hình đó, là sinh viên đặc biệt cá nhân mình
phải có ý thức xác định định hướng đúng đắn ý thức tác động đến bản thân mình,
quyết định hành động con người phải tích cực học tập, tìm hiểu, nghiên cứu các
kiến thức thêm ngoài việc học ở trường. Ý thức thôi thúc con người năng động
hơn, thực hành nhiều trong thực tế để tìm việc trong tương lai. Hiện thực khách
quan đã tác động đến ý thức cá nhân phải có ý chí, mục đích rõ ràng đúng đắn tích
cực đến hoạt động sinh viên ngay từ khi là sinh viên năm nhất tại giảng đường đại
học, không ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm cho tương lai.
24


×