Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tăng cường pháp chế trong hoạt động công chứng ở thành phố vinh tỉnh nghệ an hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.58 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THẢO

TĂNG CƢỜNG PHÁP CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
Ở THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 60380101

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
Tác giả luận văn.


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng và sâu sắc nhất đến Phó Giáo sư, Tiến


sĩ, Thầy giáo Nguyễn Minh Đoan - người hướng dẫn thực hiện luận văn này, đến
các thầy cô giáo của Trường Đại học Luật Hà Nội, đến gia đình và bạn bè - những
người đã giúp đỡ hết sức mình cho luận văn này hoàn thành!
Tác giả luận văn.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài ................................................................................... 4
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài ........................................... 5
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài .................................................... 5
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn ........................................................ 5
7. Cơ cấu của luận văn ............................................................................................ 6
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ TRONG HOẠT
ĐỘNG CÔNG CHỨNG............................................................................................... 7
1.1. Khái quát chung về hoạt động công chứng ........................................................ 7
1.1.1. Khái niệm công chứng ......................................................................................... 7
1.1.2. Quá trình hình thành hoạt động công chứng ....................................................... 8
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động công chứng ................................................................. 11
1.2. Quan niệm và những biểu hiện của pháp chế trong hoạt động công chứng ........ 14
1.2.1.Quan niệm về pháp chế trong hoạt động công chứng ........................................ 14
1.2.2.Những biểu hiện của pháp chế trong hoạt động công chứng ............................. 17
1.3. Những bảo đảm cho pháp chế trong hoạt động công chứng. ............................. 25
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................... 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BIỂU HIỆN CỦA PHÁP CHẾ TRONG HOẠT
ĐỘNG CÔNG CHỨNG Ở THÀNH PHỐ VINH TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY 30
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính pháp chế trong hoạt động công chứng ở
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An............................................................................... 30


2.2. Những thành tựu, kết quả và nguyên nhân ................................................. 33
2.2.1. Những thành tựu, kết quả ................................................................................... 33
2.2.2.Nguyên nhân của những thành tựu, ưu điểm đã đạt được .................................. 40


2.3. Những vướng mắc, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. ................................. 41
2.3.1. Những vướng mắc, tồn tại, hạn chế ................................................................... 41
2.3.2. Một số nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại ............................................... 49
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 . ......................................................................................... 56
CHƢƠNG 3: SỰ CẦN THIẾT VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHÁP CHẾ
TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG Ở THÀNH PHỐ VINH, TỈNH
NGHỆ AN HIỆN NAY ....................................................................................... 57
3.1. Sự cần thiết và mục đích ý nghĩa của việc tăng cường pháp chế trong hoạt
động công chứng ở Thành phố Vinh Nghệ An hiện nay. ............................................ 57
3.1.1.Sự cần thiết của việc tăng cường pháp chế trong hoạt động công chứng ở
Thành phố Vinh, Nghệ An hiện nay ............................................................................. 57
3.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc tăng cường pháp chế trong hoạt động công
chứng ở Thành phố Vinh, Nghệ An hiện nay. .............................................................. 59
3.2. Giải pháp tăng cường pháp chế trong hoạt động công chứng ở Thành phố Vinh,
Nghệ An hiện nay ..................................................................................................60
3.2.1. Đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật về hoạt động công chứng .................. 60
3.2.2. Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật công chứng. ............................................. 63
3.2.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, xử lý
nghiêm những vi phạm của các tổ chức, cá nhân hành nghề công chứng ................. 65
3.2.4. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về công chứng .................................... 65
3.2.5. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng về công tác pháp chế trong lĩnh vực
công chứng ................................................................................................................... 68
3.2.6. Một số giải pháp khác ........................................................................................ 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 . ......................................................................................... 70

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 71


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Ngữ nghĩa

CCV

Công chứng viên

NYCCC

Người yêu cầu công chứng

PCC

Phòng công chứng

LCC

Luật công chứng

HĐCC

Hoạt động công chứng

TCHNCC


Tổ chức hành nghề công chứng

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật

VPCC

Văn phòng công chứng

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Những năm gần đây, Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật,
đẩy mạnh cải cách tư pháp, mở rộng dân chủ đã tạo điều kiện cho nhiều văn phòng
luật sư, văn phòng công chứng (VPCC) ra đời, nghề luật có cơ hội phát triển. Trong
bối cảnh nền kinh tế thị trường đang phát triển sôi động bậc nhất, hợp đồng giao
dịch diễn ra từng giờ từng phút, như hợp đồng thế chấp để vay vốn, mua bán, cầm
cố… trong khi đó sự quá tải của các phòng công chứng (PCC) nhà nước dẫn đến
việc thực hiện các giao dịch trên gặp không ít khó khăn. Trước tình hình đó, cần

một mạng lưới PCC và VPCC tương ứng với số lượng công việc và sự đòi hỏi cần
thiết của xã hội để đáp ứng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, loại hình này
đối với Việt Nam hoàn toàn mới mẻ. Với quy định về việc cho phép thành lập
VPCC là kết quả của nhận thức cho rằng về bản chất, công chứng chỉ là một hoạt
động bổ trợ tư pháp. Mặc dù chưa có nhiều trên thực tế, nhưng chúng ta có thể
khẳng định rằng, khi có VPCC người dân có điều kiện so sánh chất lượng dịch vụ
công chứng, phong cách phục vụ của công chứng viên (CCV) và từ đó được thực
hiện quyền tự lựa chọn nơi công chứng phù hợp. Có thể nói, một trong những ưu
điểm lớn của công chứng tư - VPCC là sẽ tạo điều kiện cho nhiều người có đủ năng
lực có được việc làm, chất lượng phục vụ cho người dân sẽ được tốt hơn và một
phần cũng để xóa bỏ cơ chế độc quyền tiêu cực.
Luật công chứng (LCC) đã được Quốc hội thông qua tháng 11/2006 và có hiệu
lực từ ngày 1/7/2007, chính thức cho phép thành lập VPCC hoạt động theo Luật
doanh nghiệp (tức tư nhân cũng được lập VPCC). LCC có hiệu lực đã thể chế hoá
dịch vụ công chứng của nhiều giao dịch mà trước kia vẫn còn lỏng lẻo. Sự ra đời
của LCC 2006 đánh dấu một bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển hệ thống pháp
luật Việt Nam trong lĩnh vực công chứng, đáp ứng được kịp thời nhu cầu phát triển
của kinh tế thị trường và đời sống xã hội ngày càng cao. Và hiện nay, hoạt động
công chứng (HĐCC) ngày càng thể hiện tính ưu việt và được toàn xã hội đón nhận


2

một cách tích cực, góp phần không nhỏ vào bình ổn đời sống kinh tế, xã hội của
toàn dân, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân.
Trong dòng chảy đó, tỉnh Nghệ An là một điển hình cho sự phát triển của
HĐCC. Và HĐCC mang lại hiệu quả, điển hình nhất là ở thành phố Vinh. Bên cạnh
những thành tựu đạt được đáng ghi nhận, mặt khác tính pháp chế của hoạt động này
chưa thực sự được bảo đảm, một số CCV chưa tôn trọng và thực hiện nghiêm minh
pháp luật công chứng trong HĐCC, gây hậu quả nghiêm trọng, cản trở cho sự phát

triển của kinh tế, điều tiết xã hội. Bởi vậy, việc nghiên cứu về pháp chế trong
HĐCC trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An nhằm tìm ra giải pháp để hoàn
thiện pháp luật và nhằm tăng cường hơn nữa tính pháp chế, nâng cao chất lượng
hoạt động này là việc làm cần thiết và cấp bách trong tình hình hiện nay. Chính vì
vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Tăng cường pháp chế trong hoạt động công chứng ở
Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Theo nguồn tư liệu mà tác giả có, đã có nhiều công trình nghiên cứu về pháp
chế và về HĐCC. Trong đó nổi trội phải kể đến những công trình nghiên cứu như:
*. Các luận án, luận văn:
-. Luận án tiến sĩ luật học: “Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta
hiện nay” của tác giả Dương Khánh (2002). Luận án này đã trình bày về cơ sở lý
luận cũng như cách thức tổ chức HĐCC của công chứng Nhà nước;
-. Luận án tiến sĩ luật học: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định
phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở
nước ta hiện nay” của tác giả Đặng Văn Khanh (2000). Luận án này có cách nhìn
nhận dưới góc độ hành vi công chứng và giá trị của văn bản công chứng;
-. Luận án tiến sĩ luật học: “Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số
nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Tuấn Đạo Thanh (2008).
Luận án đã tạo nên những luận cứ khoa học trong lĩnh vực công chứng bằng cách


3

học hỏi cũng như so sánh với pháp luật công chứng trên thế giới để từ đó áp dụng
xây dựng hợp lý vào Việt Nam;
-. Luận văn thạc sĩ luật học: “Xã hội hoá công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Quang Minh (2009). Luận văn đề
cập đến vấn đề riêng của quá trình xã hội hóa HĐCC ;

-. Luận văn thạc sĩ luật học: “Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Lê Dung (2011);
-. Luận văn thạc sĩ luật học: “Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Chí Thiện (2006). Luận văn đã làm rõ
cách thức, phương pháp để giúp HĐCC hoạt động mang lại giá trị thiết thực;
-. Luận văn thạc sĩ luật học: “Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng
hình sự và vấn đề bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong giai đoạn xét xử hình sự
sơ thẩm trong giai đoạn hiện nay" của Nguyễn Mạnh Hùng (2003). Trong luận văn,
tác giả đã nghiên cứu các đặc trưng cơ bản của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa (XHCN) trong tố tụng hình sự, đề ra các biện pháp phù hợp nhằm bảo đảm
thực hiện nguyên tắc này trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm;
-. Luận văn thạc sĩ luật học: “Nguyên tắc pháp chế trong hoạt động nghề nghiệp
của luật sư - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay " của Trần Thị
Tích (2011). Tác giả đã nghiên cứu đến nguyên tắc pháp chế dưới góc độ hoạt động
của nghề luật sư;
-. Luận văn cử nhân: “Hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay” của tác giả Lê
Thị Thu Hiền (2011). Tác giả trình bày về nguyên tắc, khái niệm, đặc điểm của
HĐCC về cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng;
-. Luận văn cử nhân: “Pháp luật về văn phòng công chứng ở Việt Nam” của tác giả
Đào Phương Thanh (2012). Tác giả trình bày nhằm phân biệt với PCC (Nhà nước)
và những ưu việt của VPCC (văn phòng công chứng tư) ở giai đoạn hiện nay;
*. Sách chuyên khảo:
-. “Công chứng Nhà nước: quy định mới nhất” của tác giả Dương Đình Thành sưu
tầm, biên soạn, Nxb Chính trị quốc gia, 1998;


4

-. “Một trăm năm mốt câu trả lời về hộ tịch, hộ khẩu, chứng minh nhân dân và công
chứng, chứng thực” của tác giả Trần Huyền Nga biên soạn, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh, 2002;
*. Các bài viết:
-. “Những bất cập và hướng sửa đổi các quy định pháp luật về công chứng” của tác
giả Cao Vũ Minh, Võ Phan Lê Nguyễn (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng
Quốc hội, Số 5/2012);
-. “Công chứng, chứng thực trong hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng
quyền sử dụng đất” của tác giả Đoàn Đức Lương (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
Văn phòng Quốc hội, Số 5/2012);
-. “Mấy bình luận về đề án cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng”
của tác giả Tuấn Đạo Thanh (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng Quốc hội.
Số 11/2011);
Trong các công trình trên một số tác giả đã nghiên cứu về những quy định của
pháp luật hiện hành, thực trạng, tìm ra nguyên nhân và đưa ra các giải pháp để hoàn
thiện pháp luật về công chứng ở một số quốc gia trên thế giới, ở Việt Nam hoặc ở
một địa phương nhất định, một số tác giả đề cập đến một vấn đề chuyên sâu như:
các giải pháp hoàn thiện LCC hay vấn đề bảo đảm pháp chế công chứng để nâng
cao giá trị thực thi… Tuy nhiên cho đến thời điểm này chưa có một công trình nào
nghiên cứu việc tăng cường hơn nữa về nguyên tắc pháp chế trong HĐCC, chỉ ra
những yêu cầu tất yếu để bảo đảm pháp chế trong hoạt động này, nêu rõ những ưu
điểm cũng như hạn chế do nguyên tắc pháp chế trong HĐCC mang lại để từ đó đề
xuất các giải pháp hiệu quả để hoàn thiện thêm một bước pháp luật về công chứng
trên địa bàn thành phố Vinh trong thời cuộc hiện nay.
Như vậy, tính đến thời điểm luận văn này được khởi thảo, chưa có một công
trình nghiên cứu nào có nội dung nghiên cứu hoặc tên đề tài trùng với luận văn
này.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
-. Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp chế trong HĐCC;


5


-. Thực trạng pháp chế trong HĐCC trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
từ năm 2006 đến nay;
-. Giải pháp tăng cường pháp chế trong HĐCC ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
hiện nay.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài:
-. Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
-. Phương pháp nghiên cứu đề tài: Tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, nghiên cứu mẫu,
dự báo khoa học, phương pháp điều tra xã hội học thông qua phiếu hỏi (phương
pháp Ankét) và phương pháp phỏng vấn chuyên gia.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:
-. Làm rõ những vấn đề lý luận về pháp chế trong hoạt động công chứng;
-. Khảo sát thực tiễn về pháp chế trong hoạt động công chứng. Trong mục đích
này thì nhiệm vụ là đánh giá rõ những mặt đã làm được cũng như những tồn tại, hạn
chế của tính pháp chế trong hoạt động công chứng;
-. Vạch ra các giải pháp tăng cường pháp chế trong hoạt động công chứng. Từ đó
triển khai nhiệm vụ cụ thể cho hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An để thực hiện có hiệu quả những yêu cầu cơ bản mà nguyên tắc pháp
chế trong hoạt động công chứng đề ra.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn:
Luận văn nghiên cứu một cách cụ thể, theo chiều sâu tính pháp chế chi phối
trong HĐCC về cả lý luận và thực tiễn, đưa ra cách hiểu về nguyên tắc này như
một khái niệm khoa học. Đồng thời đó là cách tiếp cận khách quan, toàn diện về
thực trạng HĐCC trên địa bàn thành phố Vinh từ năm 2006 khi LCC có hiệu lực thi
hành đến nay. Từ đó đã chỉ ra được các giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm tăng
cường pháp chế cho HĐCC trên địa bàn thành phố Vinh mà từ trước đến nay chưa
một đề tài nào đề cập tới. Các giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, chính
trị, pháp lý của thành phố Vinh hiện nay và có thể được thực hiện với chi phí



6

không quá lớn, có tác dụng trong thời gian dài và mang lại hiệu quả xã hội, kinh tế
cao.
7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, cơ cấu của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp chế trong hoạt động công chứng;
Chương 2: Thực trạng pháp chế trong hoạt động công chứng ở thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An hiện nay;
Chương 3: Sự cần thiết và giải pháp tăng cường pháp chế trong hoạt động công
chứng ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An hiện nay.


7

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ TRONG
HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG

1.1.

Khái quát chung về hoạt động công chứng:

1.1.1. Khái niệm công chứng:
Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề mấu chốt của HĐCC. Khái niệm
công chứng đã được nêu trong 3 Nghị định của Chính phủ: Nghị định số 45/HĐBT
ngày 27 tháng 2 năm 1991 về tổ chức và HĐCC nhà nước, Nghị định số 31/CP
ngày 18 tháng 5 năm 1996 về tổ chức và HĐCC nhà nước và Nghị định số

75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 về công chứng, chứng thực, việc thể
hiện cụ thể khái niệm này có sự khác nhau, song có sự giống nhau về cơ bản như
sau: công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng, giao dịch khác.
Và đến khi LCC 2006 ra đời, khái niệm về công chứng được mở rộng hơn, quy
định rõ tại Điều 2 của LCC 2006 như sau: “Công chứng là việc công chứng viên
chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi
là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng” [23, tr.1].
Từ đó cũng cho ta thấy được sự khác biệt giữa HĐCC và hoạt động chứng thực.
Công chứng và chứng thực là hai loại hoạt động khác nhau về tính chất của hành vi
cũng như đối tượng và chủ thể thực hiện. Công chứng là hoạt động mang tính chất
dịch vụ công do CCV thực hiện. Đối tượng của HĐCC là các hợp đồng, giao dịch
về dân sự, kinh tế, thương mại… HĐCC bao gồm một chuỗi thủ tục rất phức tạp kể
từ khi CCV tiếp nhận ý chí của các bên giao kết hợp đồng như: xác định tư cách chủ
thể của các bên, kiểm tra năng lực hành vi dân sự của chủ thể, tính tự nguyện của
các bên hợp đồng, xác định nguồn gốc hợp pháp của đối tượng hợp đồng, kiểm tra
tính hợp pháp của nội dung hợp đồng, thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng…
Những tình tiết này là rất quan trọng, bảo đảm cho hợp đồng không bị vô hiệu và có
ý nghĩa chứng cứ về sau nếu xảy ra tranh chấp giữa các bên cũng như với bên thứ
ba. Trong khi đó, hoạt động chứng thực là hành vi mang tính chất hành chính của


8

các cơ quan hành chính công quyền. Đối tượng của hoạt động chứng thực là các
giấy tờ, tài liệu như: chứng thực sao y giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ ... Theo thông lệ
quốc tế, các vấn đề về công chứng được quy định trong luật dân sự, tố tụng dân sự.
Pháp luật về công chứng thuộc loại pháp luật về chứng cứ. Còn vấn đề chứng thực
thì được quy định trong luật về hành chính. Việc tách biệt công chứng và chứng
thực như vậy vừa là đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính (không lẫn lộn chức năng

của cơ quan hành chính công quyền với chức năng của tổ chức sự nghiệp, dịch vụ),
đồng thời cũng là điều kiện để chuyển tổ chức công chứng sang chế độ dịch vụ
công. Như vậy, công chứng chỉ tập trung vào việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch
nhằm đưa HĐCC đúng với mục tiêu, mục đích và ý nghĩa của nó.
1.1.2. Quá trình hình thành hoạt động công chứng:
Công chứng đã có lịch sử hình thành, phát triển hàng ngàn năm và gắn bó chặt
chẽ với đời sống dân sự. Khởi đầu, công chứng là một nghề tự do trong xã hội, phục
vụ cho nhu cầu tự nhiên, tự bảo vệ của dân chúng khi thiết lập các văn tự, khế ước.
Trải qua sự thăng trầm của lịch sử, công chứng đã khẳng định sự tồn tại vững chắc
và đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, được Nhà nước thừa nhận và trở
thành hoạt động hổ trợ đắc lực cho công dân và Nhà nước trên cả hai phương diện:
hỗ trợ hành pháp (quản lý Nhà nước) và bổ trợ tư pháp. Cho đến nay, công chứng
tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và hình thành nên ba hệ thống công
chứng sau [12, tr.1]:
-. Hệ thống công chứng Latinh (chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống luật La
mã, còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự – Civil Law). Hệ thống này tồn tại ở hầu
hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch và Anh); châu Phi (các nước
thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ - La tinh, bang Quebec của Canada, bang
Luisane của Hoa Kỳ, một số nước châu Á (Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ...).
-. Hệ thống công chứng Anglo-saxon, gắn liền với hệ thống pháp luật AngloSaxon (Common Law), tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang
Luisane), Canada (trừ bang Quebec); Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan...


9

-. Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các nước
XHCN trước đây và phát triển mạnh vào các năm 70 của thế kỷ XX đến trước năm
1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu Ba,
Trung Quốc, Việt Nam.
Mặc dù hình thành ba hệ thống công chứng như trên, song chung quy lại, chỉ có

hai mô hình công chứng: mô hình công chứng tự do (ở hệ thống công chứng Latinh
và hệ thống công chứng Anglo-Saxon) - các CCV được Nhà nước bổ nhiệm, hành
nghề tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức VPCC tư nhân hoặc
VPCC tập thể, tự chủ trong tổ chức, hoạt động, tự hạch toán và đóng thuế cho Nhà
nước; CCV chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình, phải bồi
thường thiệt hại bằng tài khoản tiền ký quỹ của mình nếu hành vi công chứng gây
thiệt hại cho khách hàng người thứ ba và mô hình công chứng nhà nước (chỉ tồn tại
ở hệ thống công chứng Collectiviste) - cơ quan công chứng là thiết chế nhà nước,
CCV là công chức nhà nước, do nhà nước bổ nhiệm, hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước, CCV không phải chịu trách nhiệm vật chất trước đương sự về các hậu quả do
hành vi công chứng trái pháp luật của mình gây ra, chỉ phải chịu trách nhiệm hành
chính trước Nhà nước. Lệ phí công chứng được nộp cho ngân sách Nhà nước, có
trích lại một phần để trang trải thêm cho hoạt động của PCC. Có thể nói, với sự bao
cấp toàn bộ của Nhà nước, mô hình công chứng Nhà nước chỉ phù hợp với cơ chế
kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hiện vật, trong đó, các giao lưu dân sự, kinh
tế, thương mại không phát triển. Vì vậy, ở đó, vai trò công chứng chủ yếu nhằm bảo
vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản XHCN và tài sản cá nhân. Qua đây cho ta thấy
rõ ưu thế vượt trội của mô hình công chứng tự do so với mô hình công chứng Nhà
nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của CCV, tạo ra cơ chế cạnh
tranh lành mạnh, tạo động lực để các CCV phát huy tính tích cực, chủ động nhiệt
tình trong hoạt động của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của Nhà nước, làm cho bộ máy
Nhà nước tinh giản, gọn nhẹ, tách bạch chức năng quản lý Nhà nước với chức năng
cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng. Mô hình tổ chức này không chỉ
tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước mà còn tăng thu ngân sách thông qua việc đóng


10

thuế của các CCV. Về mặt tổ chức và hoạt động, mô hình công chứng tự do tạo ra
sự linh hoạt về mặt tổ chức, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu công chứng của

nhân dân.
Ở Việt Nam, thiết chế công chứng chính thức ra đời năm 1991 theo Nghị định
số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về tổ
chức và HĐCC Nhà nước. Qua 10 năm (1991 – 2000), thể chế công chứng nước ta
đã hai lần sửa đổi, thay thế (theo Nghị định số 31/CP ngày 15/8/1996 của Chính phủ
về tổ chức và HĐCC Nhà nước và Nghị định số 75/CP ngày 08/12/2000 của Chính
phủ về công chứng, chứng thực). Theo các văn bản trên, công chứng nước ta được
tổ chức theo mô hình công chứng Nhà nước (cơ quan công chứng là thiết chế nhà
nước, CCV là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước). Mặc dù
còn nhiều khó khăn trong tổ chức, hoạt động, song trong giai đoạn đầu của quá trình
chuyển đổi nền kinh tế của đất nước, công chứng thực sự đã góp phần tạo môi
trường pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại phát triển, phòng ngừa
tranh chấp và vi phạm pháp luật, tạo sự ổn định cho xã hội. Điều quan trọng hơn là
công chứng đã góp phần mở rộng dân chủ, tạo điều kiện để người dân bước đầu
hình thành ý thức sử dụng các công cụ pháp lý, biện pháp hợp pháp để bảo vệ mình
trong đời sống dân sự; tạo cho người dân ý thức, trách nhiệm tốt hơn khi tham gia
giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại.
Từ ngày 01/7/2007, tổ chức và HĐCC được thực hiện trong bối cảnh hoạt động
công chứng tách bạch với chứng thực. Có thể nói, lần đầu tiên tổ chức và HĐCC
được điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) dưới hình thức là
LCC. Triển khai thực hiện LCC trong điều kiện hình thức tổ chức hành nghề công
chứng (TCHNCC) gồm có PCC và VPCC. PCC là đơn vị sự nghiệp, chế độ tài
chính được áp theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của
Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. PCC trên đã
thực hiện chuyển đổi theo công văn số 4282/BTP-HCTP ngày 10/10/2007 của Bộ
Tư pháp về việc chuyển đổi PCC sang đơn vị sự nghiệp. VPCC là hình thức


11


TCHNCC được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp. Thời gian qua,
những người được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm làm CCV và là Trưởng VPCC
đa số là những người được miễn đào tạo nghề công chứng và miễn tập sự hành nghề
công chứng theo quy định của LCC.
Về cơ bản, hai hình thức hành nghề công chứng PCC và VPCC là giống nhau.
Việc hành nghề công chứng mang tính chất công, nhiệm vụ, trách nhiệm nghề
nghiệp trong thực hiện các việc công chứng, mức thu phí của VPCC và PCC là như
nhau. Việc thành lập PCC và VPCC được giao cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
(UBND) cấp tỉnh ra quyết định thành lập khi thấy có nhu cầu và đều không phải có
chấp thuận của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Về giá trị pháp lý của văn bản công chứng
được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 6 LCC cũng cho thấy không có sự phân
biệt về giá trị văn bản công chứng của PCC và VPCC, giải quyết được những ý kiến
băn khoăn của NYCCC và người muốn thành lập VPCC. Ngoài ra, quy định về địa
vị pháp lý, trình tự, thủ tục thành lập PCC và VPCC, quyền hạn, nghĩa vụ của
TCHNCC về cơ bản không có sự phân biệt giữa hai TCHNCC này.
Song bên cạnh đó vẫn có nét khác biệt để phân biệt giữa PCC và VPCC. PCC
do nhà nước thành lập, CCV và một số nhân viên là viên chức nhà nước, nhà nước
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho PCC nếu không tự trang trải được.
Đối với VPCC do CCV thành lập, tự đăng ký hoạt động, tự đầu tư cở sở vật chất,
trụ sở làm việc, tự trang trải trả lương cho CCV, nhân viên phục vụ, phải mua bảo
hiểm trách nhiệm cho CCV và nộp thuế theo quy định của pháp luật. VPCC còn có
nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV của tổ chức mình. Hiện
nay sự phân định và lựa chọn PCC hay VPCC không còn khó khăn đối với NYCCC
bởi chất lượng phục vụ và bảo đảm tính pháp chế giữa PCC và VPCC đã được
thống nhất.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động công chứng:
Thông qua các quy định của pháp luật công chứng hiện hành và thực tiễn công
chứng trong những năm qua cho thấy về bản chất, HĐCC là một hoạt động mang



12

tính công quyền của nhà nước, công chứng là hoạt động được Nhà nước ủy quyền
để công chứng tính hợp pháp, tính xác thực của các hợp đồng, giao dịch. Công
chứng tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, ngăn ngừa vi phạm pháp luật,
phòng ngừa rủi ro, tranh chấp hoặc khi có rủi ro, tranh chấp xảy ra, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền dựa vào hình thức của công chứng để chứng minh sự thật, lấy
đó làm cơ sở pháp lý để giải quyết vụ việc tranh chấp. Vì vậy, HĐCC ở nước ta
hiện nay mang những đặc điểm sau:
-. Thứ nhất, hoạt động công chứng bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao
dịch.
Theo khoản 1 Điều 6 LCC 2006, hợp đồng, giao dịch khi đã được công chứng
đúng theo các quy định của pháp luật thì giá trị pháp lý của các hợp đồng, giao dịch
đó sẽ được thừa nhận và các bên tham gia trong quan hệ được phản ánh trong văn
bản được công chứng sẽ được bảo đảm an toàn pháp lý. Văn bản đã được công
chứng sẽ có ý nghĩa ràng buộc các bên tự nguyện thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình mà không cần phán xét của Tòa án. Trừ khi bên có nghĩa vụ không tự nguyện
thực hiện văn bản đã công chứng thì bên còn lại trong hợp đồng, giao dịch có quyền
yêu cầu Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là văn bản đã
được công chứng luôn tạo ra một biện pháp an toàn cho các bên khi mà bên còn lại
không thực hiện nghĩa vụ như đã thỏa thuận. Vì vậy, văn bản công chứng không chỉ
đơn thuần có hiệu lực thi hành giữa các bên trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng,
giao dịch mà nó còn có giá trị thực hiện đối với các bên có liên quan, ngay cả khi đó
là những cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước hay
thậm chí là những cơ quan tư pháp hoặc bổ trợ tư pháp. Như vậy, những văn bản,
hợp đồng đã được công chứng có giá trị pháp lý cao hơn hẳn những hợp đồng, giao
dịch cùng loại nhưng không được công chứng, bởi những văn bản này đã được nhà
nước trao quyền năng hợp pháp hóa, hợp thức hóa cho một cá nhân thực hiện [33,

tr.109].
-. Thứ hai, hoạt động công chứng tạo lập các văn bản có giá trị chứng cứ.


13

Điều này có nghĩa là khi có tranh chấp xảy ra thì văn bản đã được công chứng
có giá trị là một chứng cứ pháp lý để góp phần quan trọng vào việc giải quyết tranh
chấp. Văn bản công chứng được tạo lập theo một trình tự, thủ tục nhất định theo
quy định của pháp luật công chứng và được tạo lập trước khi có tranh chấp xảy ra
nên đây là nguồn chứng cứ có giá trị pháp lý cao hơn các nguồn chứng cứ khác.
Việc này đòi hỏi các văn bản đã được công chứng cần được bảo quản sao lưu đúng
theo quy định của pháp luật khi có nhu cầu cần sử dụng thì nó vẫn đảm bảo được
khả năng của một văn bản có chức năng chứng cứ để cung cấp cho cơ quan có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến các vấn đề đã được công chứng đó.
Tuy nhiên giá trị chứng cứ của những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh
trong văn bản công chứng sẽ không còn nếu như văn bản công chứng bị Tòa án
tuyên là vô hiệu.
-. Thứ ba, hoạt động công chứng là hoạt động mang tính chuyên môn, nghề nghiệp.
Thực vậy, PCC và VPCC thực hiện HĐCC bằng kiến thức chuyên môn của
CCV (CCV là những người do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm với đầy đủ các điều
kiện, tiêu chuẩn quy định tại Điều 13 và Điều 15 LCC 2006) nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của NYCCC. PCC và VPCC là những TCHNCC và chức năng của
các tổ chức này là công chứng các hợp đồng, giao dịch mà pháp luật buộc phải công
chứng hoặc là các bên yêu cầu công chứng. Những người làm việc trong các tổ
chức này là những người có chuyên môn về pháp luật và nghiệp vụ công chứng. Vì
thế mà HĐCC là hoạt động mang tính chất chuyên môn, nghề nghiệp của các CCV.
-. Thứ tư, hoạt động công chứng chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
Sự quản lý này thể hiện ở các mặt của HĐCC như: xây dựng chính sách phát triển
công chứng; hợp tác quốc tế về công chứng; ban hành các văn bản pháp luật về

HĐCC trong đó quy định rõ các vấn đề có sự quản lý của cơ quan nhà nước gồm
thành lập tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng, phí công chứng, tiêu
chuẩn CCV… Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về công chứng, LCC 2006
phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong quản lý về tổ chức và
HĐCC, theo hướng tăng cường vai trò của UBND cấp tỉnh đối với việc phát triển


14

và quản lý hệ thống TCHNCC ở địa phương mình, đồng thời bảo đảm tính thống
nhất trong việc quản lý nhà nước về công chứng trong phạm vi toàn quốc. Theo đó,
việc thành lập PCC phải do chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
ra quyết định (khoản 1 Điều 24 LCC 2006), còn với các VPCC, việc thành lập phải
được UBND cấp tỉnh cho phép khi có hồ sơ của CCV có đủ điều kiện thực hiện
hoạt động ( khoản 1 Điều 27 LCC 2006). Đối với CCV, trong khi hành nghề công
chứng phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn CCV, quy
trình xét duyệt, bổ nhiệm CCV khi CCV không đáp ứng các yêu cầu quy định tại
khoản 1, khoản 2 Điều 20 LCC 2006. Việc giải thể PCC và VPCC được thực hiện
theo quy định tại Điều 33 và Điều 34 của LCC 2006. Theo đó, PCC giải thể khi sự
tồn tại của nó là không cần thiết theo đề án của Sở Tư pháp trình lên UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, việc giải thể PCC do UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương xem xét quyết định. Việc chấm dứt hoạt động của VPCC
trong trường hợp tự chấm dứt hoạt động phải báo cáo lên Sở Tư pháp; với trường
hợp bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động do VPCC vi phạm pháp luật hoặc không còn
CCV do bị miễn nhiệm thì Sở Tư pháp trực tiếp thu hồi giấy đăng ký hoạt động.
1.2.

Quan niệm và những biểu hiện của pháp chế trong hoạt động công

chứng:

1.2.1.Quan niệm về pháp chế trong hoạt động công chứng:
Pháp chế là một khái niệm khoa học có nội dung đa diện, đa nghĩa, được nhắc
đến ngay sau khi nhà nước và pháp luật được hình thành. Khái niệm pháp chế phát
triển từ thời kỳ ban đầu của Nhà nước tư sản và đã trở thành một trong những
nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước tư sản. Nhận thức
được tầm quan trọng và tính tất yếu của nguyên tắc pháp chế trong sự tồn tại và
phát triển, mỗi một thiết chế nhà nước nào cũng quan tâm và phát triển nó. Mặc dù
có nhiều cách định nghĩa khác nhau dưới các góc độ khoa học pháp lý khác nhau,
nhưng suy cho cùng, hạt nhân, cốt lõi của pháp chế chính là sự tôn trọng và thực
hiện pháp luật một cách tự giác, đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất trong các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân [38, tr.195]. Với tư cách là một


15

bộ phận cấu thành đời sống pháp luật, pháp chế quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời
với pháp luật. Nếu pháp luật vừa là cơ sở, nền tảng để xây dựng pháp chế, vừa là
công cụ bảo đảm, bảo vệ pháp chế thì pháp chế cũng vừa là điều kiện cho sự tồn tại
của pháp luật, vừa là căn cứ, cơ sở để củng cố, phát triển, hoàn thiện pháp luật [9,
tr.12]. Như vậy, có thể hiểu pháp chế chính là “một chế độ đặc biệt của đời sống
chính trị xã hội, trong đó mọi tổ chức và cá nhân phải tôn trọng và thực hiện pháp
luật một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ, thống nhất, nhằm xây dựng một xã hội có trật
tự, kỷ cương” [7, tr.213].
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của mình, ở các nước xã hội chủ nghĩa, pháp chế
đều được nâng lên thành nguyên tắc hiến pháp và được coi là một trong những cơ
sở quan trọng nhất cho việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước và xã hội nói
chung. Ở nước ta, nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc hiến định, được ghi nhận tại
Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” [16, tr.7]. Như vậy, pháp chế XHCN
là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước XHCN, là nguyên tắc hoạt

động của các tổ chức chính trị, xã hội và các đoàn thể quần chúng, là nguyên tắc xử
sự của công dân. Có thể có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng về cơ bản pháp
chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội, trong đó tất cả các
cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên Nhà nước, nhân viên
các tổ chức xã hội và mọi công dân phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách
nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác [38, tr.250]. Pháp chế chính là nhu cầu và điều
kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội: Nghiêm chỉnh thực hiện các yêu cầu của pháp
chế sẽ tạo cho đời sống xã hội có trật tự, kỷ cương cần thiết, bảo đảm cho hoạt động
của toàn xã hội thống nhất, đồng bộ nhịp nhàng theo quy định của pháp luật để xã
hội tồn tại và phát triển. Trong văn kiện của Đảng có nêu lên mục tiêu “phát huy
dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế” [5, tr.6], như vậy, tăng
cường pháp chế là biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm dân chủ, thể hiện ở việc thể
chế hóa đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và quyết tâm đưa pháp luật vào cuộc sống.


16

Từ sự phân tích trên cho ta thấy pháp chế có vai trò hết sức to lớn trong mọi
hoạt động kinh tế, xã hội. Và pháp chế trong hoạt động tư pháp, trong đó có HĐCC
là một bộ phận cấu thành nền pháp chế XHCN nói chung. Để hiểu rõ về pháp chế
trong HĐCC, chúng ta cần xem xét trên hai khía cạnh: thứ nhất, các quy định pháp
luật là cơ sở pháp lý cho HĐCC, thứ hai, hành vi tôn trọng, thực hiện pháp luật của
các bên tham gia giao dịch trong HĐCC.
Đầu tiên, về cơ sở pháp lý cho hoạt động công chứng đó chính là những văn bản
pháp luật có liên quan đến HĐCC của các bên tham gia, đảm bảo cho những hoạt
động này được pháp luật cho phép, nằm trong những quy định của pháp luật. Và cụ
thể đó là những văn bản pháp luật chứa đựng các quy định về phạm vi điều chỉnh
HĐCC, nguyên tắc hành nghề công chứng, giá trị pháp lý của văn bản công chứng,
về tiêu chuẩn và điều kiện của một CCV, NYCCC, quyền và nghĩa vụ của các bên

tham gia công chứng, về TCHNCC, trình tự, thủ tục khi công chứng hợp đồng, giao
dịch, về lưu trữ hồ sơ công chứng, về phí, lệ phí công chứng cũng như các hình thức
xử lý vi phạm pháp luật về công chứng … Những nội dung trên được pháp luật ghi
nhận trong những văn bản sau: Hiến pháp năm 1992; Luật công chứng năm 2006;
Luật dân sự; Luật đất đai; Luật hôn nhân và gia đình; các Nghị định của Chính phủ
về công chứng, chứng thực; các Thông tư, Thông tư Liên tịch và nhiều văn bản
pháp luật khác có liên quan đến công chứng.
Một nét đặc thù của HĐCC đó là nó liên quan đến hầu khắp các lĩnh vực trong
đời sống pháp luật như dân sự, kinh tế, hành chính, đất đai… Vì vậy nên để nắm rõ
quy trình và thủ tục của HĐCC cần nắm rõ tất cả các Luật hiện hành trong đời sống
kinh tế, xã hội như Luật dân sự, Luật hình sự, Luật hôn nhân gia đình, Luật khiếu
nại tố cáo, Luật đất đai, Luật Thương mại, Luật sở hữu trí tuệ….và các văn bản
hướng dẫn thi hành các Luật này để làm cơ sở pháp lý cho HĐCC thực sự chặt chẽ
và đúng pháp luật, tạo nên sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt
Nam nói chung.
Về khía cạnh thứ hai, hành vi tôn trọng, thực hiện pháp luật của các bên tham
gia giao dịch trong HĐCC. Khía cạnh này được cụ thể hóa tại Điều 3 LCC 2006 về


17

nguyên tắc hành nghề công chứng. Cụ thể là: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;
khách quan, trung thực; chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng và
tuân theo quy tắc đạo đức hành nghề công chứng. Đây chính là kim chỉ nam cho
HĐCC theo đúng quy định của pháp luật, gắn chặt HĐCC dưới sự kiểm soát và
quản lý của pháp luật, tạo thành thể thống nhất trong pháp luật Việt Nam, tránh hiện
tượng chồng chéo, thiếu đồng bộ trong quá trình thực hiện pháp luật. CCV đại diện
cho HĐCC của một TCHNCC. CCV hội tụ đủ những điều kiện để có thể đảm bảo
cho HĐCC diễn ra đúng quy định pháp luật. Thông qua đó, CCV hướng dẫn cho
những người tham gia giao dịch phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy định mà pháp

luật về công chứng yêu cầu. CCV giúp cho hành vi tôn trọng, thực hiện pháp luật
trong HĐCC được thực thi hiệu quả.
Đồng thời xuất phát từ những đặc trưng của HĐCC như đã phân tích ở phần trên
nên quá trình thực hiện hoạt động này nằm trong dòng chảy chung của hệ thống
pháp luật Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nào vi phạm pháp luật về công chứng thì phải
chịu trước pháp luật về hành vi đó. Chính vì vậy nên LCC 2006 đã quy định cụ thể
về quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên, cụ thể là CCV và những NYCCC, hay còn
gọi là người tham gia giao dịch công chứng. Để bảo đảm hiệu lực pháp lý cho giao
dịch, đòi hỏi các bên tham gia đầu tiên phải tôn trọng pháp luật và làm đúng, đủ
những yêu cầu mà pháp luật về công chứng yêu cầu.
Từ quá trình phân tích trên, tác giả đưa ra cách hiểu về pháp chế trong HĐCC đó
chính là: sự hiện diện của các quy định pháp luật về công chứng cần và đủ và sự
tôn trọng, thực hiện pháp luật công chứng hiện hành một cách chính xác, thường
xuyên và thống nhất của tất cả các tổ chức và của cá nhân tham gia hoạt động công
chứng, nhằm xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, bảo đảm cho hoạt động của
toàn xã hội thống nhất, đồng bộ, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
1.2.2. Những biểu hiện của pháp chế trong hoạt động công chứng:
Pháp chế trong HĐCC được thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau: Thứ nhất là
sự hiện diện của các quy định pháp luật về công chứng cần và đủ để có thể tiến


18

hành các HĐCC một cách thuận lợi và có hiệu quả; thứ hai là sự tôn trọng và thực
hiện pháp luật công chứng nghiêm minh, triệt để của tất cả các tổ chức và cá nhân,
nhằm đạt được mục đích mong muốn.
1.2.2.1. Sự hiện diện của các quy định pháp luật về công chứng cần và đủ:
Đây là biểu hiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về pháp chế trong HĐCC. Nói tới
pháp chế trước hết là nói tới pháp luật, trong xã hội phải có pháp luật, nếu không có

pháp luật thì không thể có pháp chế. Sự hiện diện của một hệ thống pháp luật hoàn
thiện là điều kiện cần và đủ để đảm bảo an toàn pháp lý cho lĩnh vực đó. Và trong
HĐCC cũng vậy, nó đòi hỏi các hành vi của HĐCC phải được điều chỉnh bằng hệ
thống PL về CC, bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp với kỹ thuật pháp lý
chính xác, khoa học. Ở khía cạnh này, sự hiện diện của các quy định pháp luật về
công chứng cần và đủ thể hiện ở những nét cơ bản sau:
-. Thứ nhất, tất cả các mối quan hệ kinh tế - xã hội trong phạm vi công chứng đều
được điều chỉnh bằng hệ thống pháp luật thực định. Thực vậy, đó là nguyên tắc đã
được Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ghi nhận. Và hành vi công chứng diễn ra cũng
nằm trong phạm vi đó. Vì vậy, để được pháp luật bảo vệ và văn bản công chứng có
giá trị pháp lý tối cao, đòi hỏi các bên tham gia phải tuân thủ những quy định pháp
luật hiện hành, chịu sự điều chỉnh của các VBQPPL điều chỉnh nội dung cần công
chứng. Để thực hiện nội dung pháp chế này, LCC 2006 đã ghi nhận thành một
nguyên tắc trong hành nghề công chứng, đó là “Chịu trách nhiệm trước pháp luật
về văn bản công chứng” (Điều 3). Điều đó có nghĩa nếu vi phạm những quy định
của pháp luật về hành vi công chứng thì văn bản công chứng đó đương nhiên vô
hiệu và sẽ không được pháp luật bảo vệ. Chính vì vậy, đòi hỏi CCV phải trang bị
kiến thức chuyên môn nhất định để đảm bảo giá trị pháp lý cho văn bản công
chứng.
-. Thứ hai, Luật công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành trong lĩnh vực
công chứng triệt để tôn trọng hiệu lực pháp lý của Hiến pháp, các bộ luật, luật và
các VBQPPL liên quan đến lĩnh vực công chứng, tạo nên thể thống nhất trong hệ
thống pháp luật Việt Nam.


19

Thực vậy, trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN nói chung, luật công
chứng được hình thành muộn hơn so với luật dân sự, luật đất đai, luật nhà ở, luật
hôn nhân và gia đình… nhưng nó đã tuân theo trên cơ sở nguyên tắc pháp chế nói

chung, tránh sự thiếu đồng bộ, chồng chéo trong quá trình thực thi HĐCC. Nét đặc
trưng của HĐCC đó chính là sự hội tụ của nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế - xã
hội. Vì vậy nên trong quá trình hành nghề công chứng, CCV cần phải linh hoạt
trong việc sử dụng các quy định của các lĩnh vực khác nhau để xử lý các hồ sơ công
chứng theo đúng quy định pháp luật. Ví dụ như: Đối với hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất thì cần tìm hiểu đến Luật đất đai, Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia
đình,... Đối với văn bản phân chia di sản thừa kế thì cần phải nắm rõ các hàng thừa
kế trong Bộ luật dân sự, Luật đất đai, luật nhà ở… Như vậy, để một văn bản công
chứng được bảo đảm an toàn pháp lý cần phải có sự thống nhất trong quá trình áp
dụng các quy định pháp luật về lĩnh vực liên quan một cách thống nhất và triệt để
tuân thủ nguyên tắc hiến định.
-. Thứ ba, pháp luật về công chứng được mọi đối tượng trong xã hội nhận thức
thống nhất và thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước, không có sự phân biệt
giữa các PCC và VPCC như một số định kiến trước đây đã có. Việc xác định phạm
vi công chứng thể hiện rõ điều này - thẩm quyền công chứng của CCV là thực hiện
công chứng, không thực hiện chứng thực (Điều 1- LCC). Theo đó, CCV chứng
nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà
theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu
cầu công chứng. Đồng thời, CCV còn có thẩm quyền nhận lưu giữ di chúc và cấp
bản sao văn bản công chứng. Việc xác định được phạm vi công chứng như vậy đã
giúp CCV cũng như toàn xã hội biết được giới hạn cũng như nhiệm vụ, quyền hạn
của công chứng để thực thi đúng yêu cầu của pháp luật giao phó. Sự phân định
thành các TCHNCC là PCC và VPCC chỉ là cơ sở quản lý của nhà nước, còn văn
bản công chứng có giá trị pháp lý hoàn toàn giống nhau. Chính sự nhận thức đó đã
tạo điều kiện cho các VPCC có nhiều ưu thế phát triển hơn trong chủ trương xã hội
hóa HĐCC ngày càng rầm rộ như hiện nay. Ngoài ra, không chỉ phía cơ quan quản


×