Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

KTCT cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.54 KB, 32 trang )

Mục lục
A. Phần mở đầu……………………………………………………..2
B. Phần nội dung…………………………………………………….3
I. Lịch sử và hình thành sự phát triển của kinh tế thị trường ……….3
1. Quá trình chuyển hoá từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá ….3
2. Những bước chuyển biến từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước ……………………………5
3. Những đặc trưng chung của kinh tế có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa…………………………………….6
II. Thị trường và cơ chế thị trường ……………………………….7
1. Thị trường và cạnh tranh thị trường ………………………………7
2. Cơ chế thị trường …………………………………………………9
3. Những ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường và sự cần thiết
phải có sự quản lý của nhà nước………………………………..12
III. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và sự vận động của nó ở Việt Nam………………….13
1. Bản chất sản xuất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa………13
2. Các giai đoạn hình thành cơ chế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam…………………………………………..18

1


A: Phần mở đầu
Việc nghiên cứu lý thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin về nền kinh tế thị
trường là cần thiết không chỉ đối với người nghiên cứu khoa học kinh tế,
đối với cán bộ quản lý kinh doanh,với những người có nhiệm vụ hoạch
định đường lối phát triển kinh tế của đất nước mà nó rất cần thiết đối với
mỗi con người,mỗi gia đình trong xã hội
Lý thuyết về nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mac Lênin là một


nội dung hết sức to lớn và rất quan trọng trong học thuyết của chủ nghĩa
Mác Lênin. Trong điếu văn đọc trước mộ Mác - Ănghen đã khẳng định,
cùng với lý luận về giá trị thặng dư, học thuyết hình thái kinh tế xã hội,thì
lý thuyết về nền kinh tế thị trường là một phát kiến vĩ đại của Mác mà sau
này đã được Lênin phát triển toàn diện,nó là hòn đánền tảng của chủ nghĩa
Mác Lênin,lý thuyết này vẫn ngời sáng,cho đến ngày hôm nay và mai sau.
Trong bối cảnh đầy biến động của thị trường thế giới nói chung cũng
như thị trường Việt Nam nói riêng, đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Để có cơ sở
hiểu hơn lý thuyết của Mác Lênin, có cơ sở thống nhất cao hơn đường lối
của Đảng ta, vấn đề nghiên cứu, nắm vững lý thuyết về nền kinh tế thị
trường của chủ nghĩa Mác Lênin là hết sức cần thiết
Em chọn đề tài: Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với đề tài này, bước đầu nghiên cứu
một số vấn đề lý thuyết nền kinh tế thị trường qua đó làm rõ hơn xây dựng
thêm lòng tin về đường lối mới của Đảng ta.

2


B. Phần nội dung

I: Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế thị trường
1. Quá trình chuyển hoá từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá
1.1. Những khái quát chung về kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá
Trong lịch sử, nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng hoá la hai hình
thức tổ chức kinh tế – xã hội đã tồn tại từ lâu. Hai hình thức này được hình
thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ phân
công lao động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi.
Với nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu

dùng. Từ sản xuất tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật nhất của nền kinh tế tự
nhiên. Mục đích là tạo ra giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
của chính bản thân người sản xuất, chính vì thế nói quá trình sản xuất của
nền kinh tế tự nhiên gồm hai khâu. Đó chính là khâu tự nhiên đều mang
chung một hình thái hiện vật.
•Những ưu điểm của nền kinh tế hàng hoá so với nền kinh tế tự nhiên.
Trong nền kinh tế hàng hoá,do sự phát triển của phân công lao động
thị trường ngày càng được mở rộng. Chính điều đó tạo điều kiện phát huy
lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy
việc cải tiến công cụ lao động , nâng cao trình độ kỹ thuật, học hỏi, áp dụng
kết quả khoa học kỹ thuật, mở rộng phạm vi sản xuất, thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của sản xuất không phải là để
tiêu dùng cho chính bản thân người sản xuất mà là để thoả mãn nhu cầu
ngày càng tăng của thị trường đã tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát
triển của sản xuất hàng hoá. Đối với sản xuất hàng hoá thì người tiêu dùng
3


được coi là thượng đế,được quyền tự do lựa chọn hàng hoá phù hợp với
nhu cầu và khả năng thanh toán cũng như thị hiếu của mình trên cơ sở chất
lượng và giá cả của hàng hoá,nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao thì kích
thích sản xuất phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Kinh tế hàng hoá cạnh tranh ngày càng gay gắt. Yêu cầu của cạnh
tranh đòi hỏi những đơn vị sản xuất hàng hoá phải thường xuyên quan tâm
tới năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm để hạ giá thành sản
phẩm...Mục đích thu lợi nhuận được nhiều hơn.Cũng chính từ cạnh
tranh,chạy theo lợi nhuận sẽ làm cho lực lượng sản xuất có những bước
tiến bộ lâu dài và vững chắc trong quá trình sản xuất.
- Cũng trong nền kinh tế hàng hoá, do sản xuất xã hội ngày càng phát

triển, quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng mở rộng,do đó sản phẩm hàng
hoá ngày càng phong phú và đa dạng. Việc giao lưu văn hoá, kinh tế giữa
các vùng, các địa phương,các đơn vị kinh tế và các quốc gia ngày càng phát
triển. Đời sống vật chất cũng như tinh thần và văn hoá của nhân dân ngày
được nâng cao.
1.2 Những tiền đề tạo cơ sở cho quá trình chuyển từ nền kinh tế tự
nhiên lên nền kinh tế hàng hoá
Qua những ưu điểm của nền kinh tế hàng hoá, ta thấy sự ra đời và
phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu
khi kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ là xuất hiện đến tiền đề của kinh
tế hàng hoá. Trong lịch sử những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ
hàng hoá - tiền đề tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của
kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện những tiền đề phủ định kinh tế
tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá. Mỗi một bước nhảy vọt của kinh
tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình
vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên
và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội độc lập.
4


Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn
ra với sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau:
+ Phân công lao động xã hội
+ Sự độc lập tương đối và kinh tế giữa những người sản xuất
+ Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ
+ Hệ thống thông tin và giao thông vận tải
Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác
nhau. Do phân công lao động xã hội cho nên mỗi người chuyên làm một
việc trong một ngành nghề nhất định. Những nhu cầu tiêu dùng của họ lại
cần nhiều loại sản phẩm khác nhau cho cuộc sống.Để thoả mãn nhu cầu của

mình,những người sản xuất phải nương tựa vào nhau, trao đổi và quan hệ
với nhau.Phân công lao động xã hội làm nảy sinh những mối quan hệ kinh
tế giữa người sản xuất với nhau.
Do có phân công lao động xã hội và sự độc lập tương đối về kinh tế
giữa những người sản xuất cho nên quan hệ giữa những người sản xuất là
quan hệ mâu thuẫn, họ vừa liên hệ, phụ thuộc vào nhau vừa độc lập với
nhau. Để giải quyết những mâu thuẫn này buộc phải trao đổi dựa trên cơ sở
giá trị, nghĩa là dựa trên cơ sở trao đổi ngang giá.
Sản xuất hàng hoá ra đời khi trao đổi trở thành tập quán và là mục
đích của sản xuất
Như ta thấy phân công lao động xã hội phát triển từng nào thì quan
hệ trao đổi cũng được mở rộng và ngày càng phong phú, phức tạp hơn
nhiều.
Phân công lao động xã hội phát triển cũng hấp dẫn tới sự ra đời của
ngành thương nghiệp. Đôi khi thương nghiệp ra đời thì phân công lao động
xã hội và quan hệ trao đổi có sắc thái mới, cũng chính nhờ thương nghiệp
phát triển làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền
5


tệ được phát triển nhanh chóng. Đó là nguyên nhân của sự mở rộng quan hệ
trao đổi giữa các vùng, đồng thời liên kết với người sản xuất lại với nhau,
tập trung họ chạy theo sự phát triển nhanh chóng của kinh tế hàng hoá
Quan hệ trao đổi được mở rộng và phát triển đòi hỏi hệ thống giao
thông vận tải,cơ sở và kiến trúc thượng tầng cũng phải mở rộng và phát
triển. Đây chính là cơ sở vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi,
mở rộng thị trường.
2. Những bước chuyển biến từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh
tế thị trường có sự quản lý nhà nước
2.1 Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng

hoá .
Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường và kinh tế hàng hoá ở trình độ
phát triển. Kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế
hàng hoá . Khi kinh tế hàng hoá phát triển điều đó có nghĩa là phạm trù
hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng.
Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn
bao hàm các yếu tố đầu vào của sản xuất . Sức chứa của thị trường và cơ
cấu của thị trường được mở rộng và ngày càng hoàn hảo hơn. Mọi quan hệ
kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá, đến khi đó thì kinh tế hàng hoá
mới được coi là kinh tế thị trường.
2.2 Kinh tế thị trường là hình thành trên những điều kiện sau:
Kinh tế thị trường hình thành và phát triển được là nhờ vào những
điều kiện cơ bản sau đây:
Sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động.
Chúng ta phải khẳng định rằng sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động là
một tiến bộ lịch sử. Con người lao động được tự do, người lao động có
6


quyền làm chủ khả năng lao động của mình và là một chủ thể bình đẳng
trong các mối quan hệ làm ăn, sản xuất với người khác
Sự hoạt động của qui luật giá trị đã từng dẫn tới sự phân hoá những
người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo, sự phân hoá này diễn ra chậm
chạp cho nên cần phải có sự can thiệp bạo lực của nhà nước để thúc đẩy sự
phân hoá này diễn ra nhanh hơn. Cũng chính là từ sự phân hoá giàu nghèo
tới một giới hạn nhất định đã làm nảy sinh hàng hoá sức lao động và thị
trường sức lao động. Nhờ sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị
trường sức lao động, tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện lưu thông
mà còn trở thành phương tiện làm tăng giá trị , nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh ,thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của kinh tế xã hội

Cùng với sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động dẫn tới sự hình
thành thị trường các yếu tố sản xuất một cách hoàn chỉnh. Khi có kinh tế
thị trường ra đời
Phải tích luỹ một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vấn đề
tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Khi có lợi nhuận
thì mới kích thích sự sản xuất phát triển,nó mới trở thành động lực thực sự.
Như ta đã bắt kinh tế thị trường là kinh tế của tiền tệ cho nên vai trò
của đồng tiền vô cùng quan trọng.Nhưng để hình thành được nền kinh tế thị
trường cần phải có hệ thống tài chính tín dụng,ngân hàng tương đối phát
triển. Không thể có được kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính tín
dụng của ngân hàng còn quá yếu ớt và đơn giản, không đáp ứng được nhu
cầu sản xuất kinh doanh .
Sự hình thành nền kinh tế thị truờng đòi hỏi phải có hệ thống kết cấu
hạ tầng tương đối phát triển, trên cơ sở đó mà đảm bảo được lưu thông
hàng hoá và lưu thông tiền tệ đựơc thuận lợi ,dễ dàng, mới tăng được
phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi
7


Tăng cường vai trò kinh tế nhà nước, riêng đối với nước ta là điều
kiện quyết định để hình thành nền kinh tế thị trường .Nhờ có ngân hàng và
hệ thống pháp luật đã tạo môi trường và hành lang cho thị trường phát triển
lành mạnh,đồng thời nhà nước sử dụng biện pháp hành chính cần thiết để
phát huy những ưu thế và hạn chế những mắt tích cực của thị trường. Nhà
nước thực hiện chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc kết hợp
công bằng xã hội với hiệu quả kinh tế xã hội . Nhà nước còn thực hiện sự
điều tiết nhằm giải quyết hài hoà quan hệ giữa sự tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội.
Với sự tác động của những tiêu đề trên, nền kinh tế thị trường được
xã hội hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ

hàng hoá tiền tệ và nó được tiền tệ hoá. Chính vì vậy mà những quy luật
của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách đầy đủ.
3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Khi chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu khách quan nhằm phát triển lực
lượng sản xuất , quá trình đó phù hợp với xu thế của thời đại và xu thế của
nhân dân ta.
Trong quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải đòi hỏi những đặc điểm của mô
hình kinh tế hướng tới.
Đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình
kinh tế thị trường. Chẳng hạn, mô hình kinh tế thị trường xã hội của cộng
hoà liên bang Đức, kinh tế thị trường các nước đang và đã trải qua đều
mang những đặc trưng sau đây:

8


Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao, các chủ thể kinh
tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất
và kinh doanh của mình, các chủ thể được tự do liên kết kinh doanh ,tự do
tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là một đặc trưng rất quan
trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện
khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá không bao
dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ,
năng động.
Hai là: Trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua,
bán hàng hoá . Trong đó người mua chọn người bán, người bán tìm người
mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt

hơn hẳn cả kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
Ba là: Giá cả được hình thành ngay cả trên thị trường. Giá cả thị
trường vừa là sự biểu hiện thành tiền của giá thị trường, vừa chịu sự tác
động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ. Trên
cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận
giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy
luật lưu thông hàng hoá. Trong quá trình trao đổi mua với giá thấp, đối với
người bán luôn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp.
Đối với người bán, giá cả phải bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Chi phí
sản xuất là giới hạn dưới,là phần cứng của giá cả, cón doanh lợi càng
nhiều càng tốt. Đối với người bán, giá cả phải phù hợp với lợi ích giới hạn
của họ.
Bốn là: cạnh tranh là một yếu tố tất yếu của kinh tế thị trường. Nó
tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về
lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của qui luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất
hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã
hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản
9


xuất kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào
sản xuất để nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến
trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông.
Năm là: kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng,
phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của
nhà nước.
Mỗi đặc trưng trên đây phản ánh mọi khía cạnh của mô hình kinh tế
thị trường
II. Thị trường và cơ chế thị trường

1. Thị trường và cạnh tranh thị trường
1.1 Thị trường:
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do
đó mà có nhiều cách thức định nghĩa về thị trường . Theo nghĩa ban đầu thì
thị trường gắn liền với một địa điểm nhất định. Nó là nơi diễn ra quá trình
trao đổi, mua bán hàng hoá . Thị trường có tính không gian và thời gian.
Theo nghĩa này, thị trường có thể là hội chợ, các khu tiêu thụ phân theo các
mặt hàng, ngành hàng. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản
phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú
hơn; thị trường được mở rộng. Nếu hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn, nó là lĩnh
vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây, người mua
và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng
hoá lưu thông trên thị trường.
Khi nói tới thị trường, chúng ta phải nói tới các yếu tố cấu thành thị
trường đó là hàng và tiền ( H và T), người mua và người bán tác động qua
lại lẫn nhau. Từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá tiền tệ, mua bán, cung
cầu và giá cả hàng hoá

10


Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh ,tự do mua bán, giao
dịch. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng.
Nhưng trong thực tế thì có nhiều thuật ngữ để biểu hiện khái niệm thị
trường như: thị trường bán buôn, thị trường bán lẻ, thị trường hàng tiêu
dùng, thị trường tư liệu sản xuất , thị trường sức lao động ..
Ngoài ra mỗi loại hàng hoá lại có thị trường riêng của nó: như thị
trường gạo, thị trường muối, thị trường lãi…Sở dĩ như vậy là vì trao đổi trở
nên thường xuyên, phạm vi và qui mô ngày càng mở rộng. Mọi hàng hoá
đều phải thông qua trao đổi mới đến được tiêu dùng. Có trao đổi, có cung

cầu là có thị trường. Mỗi loại hàng hoá hoặc dịch vụ đều có một thị trường
tương ứng. ở mỗi thị trường này người ta có thể đưa ra các số liệu thống kê
về tổng cung, tổng cầu và giá cả thị trường
Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều cách phân loại thị trường khác nhau.
Chẳng hạn, dựa vào các hình thức lưu thông hàng hoá , người ta đã phân
chia thị trường thành: thị trường vật tư cung ứng kỹ thuật, thị trường hàng
tiêu dùng. Dựa vào quan hệ sở hữu, người ta chia thị trường thành thị
trường có tổ chức và thị trường tự do.
Chúng ta có thể sơ lược về cách phân chia thị trường như sau:
- Thị trường thứ nhất là thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ : ở thị
trường này người ta mua bán những tư liệu sinh hoạt trong gia đình…
Những hàng hoá tiêu dùng ngày càng nhiều theo đà phát triển của kinh tế
hàng hoá . Ngoài những hàng hoá hữu hình còn có những hàng hoá vô hình
được coi là dịch vụ như: sửa chữa, may vá. Nhìn chung,ở thị trường hàng
hoá và dịch vụ người ta mua bán những sản phẩm là kết quả của sản xuất,
nên thị trường này được gọi là thị trường đầu ra
- Thị trường thứ hai là thị trường các yếu tố sản xuất .Trên thị trường
này người ta mua, bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất như các
11


loại nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, sức lao động …thị trường này được
gọi là thị trường đầu vào
Để phân chia được như trên là dựa trên cơ sở chủng loại hàng hoá
đưa ra trao đổi trên thị trường , dựa vào sự phát triển của phạm trù hàng
hoá . Hàng hoá phát triển và mở rộng đến đâu thì thị trường phát triển và
mở rộng đến đó.
Khi nói đến thị trường thì chúng ta phải nói đến vai trò của nó. Như
phần trên đã nêu thi kinh tế hàng hoá gắn liền với thị trường , sản xuất cho
thị trường , tiêu dùng phải thông qua thị trường . Thị trường là trung tâm

của quá trình tái sản xuất
Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo
quan hệ tỉ lệ nhất định. Quan hệ tỉ lệ này tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật
của sản xuất . Nếu kỹ thuật tiến bộ thì một lực lượng sức lao động nhất
định sẽ vận hành được nhiều tư liệu sản xuất hơn, sản xuất ra nhiều sản
phẩm hơn. Để sản xuất cần có các yếu tố sản xuất . thị trường chính là nơi
cung cấp các yếu tố đó, đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành
bình thường. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán, thị trường
lại là nơi tiêu thụ các hàng hoá cho doanh nghiệp. Thông qua thị trường ,
giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu hồi được vốn
1.2 Sự cạnh tranh trên thị trường
Trong nền kinh tế thị trường , cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến
trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông . Cạnh tranh
trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh
giữa những ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm:
Cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị
trường , người bán với người bán, người mua với những người mua. Hình
thức và biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và
mục đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận. Sự ganh đua giữa
12


các chủ thể kinh tế nhằm dành phần sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi
cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là môi trường tồn tại của nền
kinh tế thị trường . Nó đòi hỏi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả
năng thắng lợi trên thị trường
Đối với nước ta,việc cạnh tranh trên thị trường là hết sức quan trọng,
có cạnh tranh thị trường mới làm cho quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất phát triển nhanh chóng đẩy lùi những nhược điểm, cái lạc hậu, cổ hủ
trong nền sản xuất kinh tế . Nhờ cạnh tranh thị trường mà chất lượng, só

lượng hàng hoá được nâng cao rõ rệt, trình độ kỹ thuật phát triển cao,
nhanh chóng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhưng trong cơ chế thị
trường phải có sự quản lý vĩ mô của ngân hàng mới làm cho cạnh tranh
mang tính lành mạnh, giữ được bản sắc văn hoá dân tộc ta.
2. Cơ chế thị trường
2.1 Khái niệm về cơ chế thị trường
Khi nói đến cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết của quá
trình sản xuất là lưu thông hàng hoá , điều tiết sự vận động của nền kinh tế
thị trường
Cơ chế thị trường là một khái niệm rộng sau đây là một số khái niệm
về cơ chế thị trường dựa trên kinh tế chính trị học Mác Lênin “ Cơ chế thị
trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường, động lực và qui luật
phân phối sự vận động của thị trường” ( Kinh tế chính trị học. NXB Sự
thật, Hà Nội 1993, trang 65 ).
“Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chí và hành động
của người sản xuất và người tiêu dùng, người bán và người mua thông qua
thị trường để xác định vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: sản xuất cái
gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai?” ( lý luận hiện đại về kinh tế
thị trường .NXB Hà Nội 1992 trang 28).
13


Cũng có thể khái quát cơ chế thị trường là chính “bộ máy” kinh tế
điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự tác động của các qui luật kinh tế
của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật giá trị – quy luật kinh tế căn
bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá
Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện giá cả thị trường lên
xuống xoay quanh giá cả thị trường . Ngoài giá trị thị trường , sự hình
thành giá cả thị trường còn phải chịu sự tác động của quan hệ cung cầu

hàng hoá. Tính quy luật của quan hệ hàng hoá giữa giá cả thị trường với giá
trị trong tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện.
2.2 Cung cầu trong cơ chế thị trường:
Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị
trường còn nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị thị
trường. Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động tới quan hệ
cung cầu hàng hoá, nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống,
nó sẽ kích thích mức cầu , làm cho mức cầu thị trường của loại hàng hoá
này tăng lên, đồng thời giá cả giảm xuống. Ngược lại, nếu giá cả của một
loại hàng hoá nào đó tăng lên,nó sẽ kích thích mức cung làm cho mức cung
giảm xuống. Ngược lại nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên,
đồng thời hạn chế mức cầu làm cho mức cầu giảm xuống. Như vậy có thể
nhận biết được quan hệ cung cầu qua giá cả thị trường. Quan hệ cung cầu
hàng hoá trên thị trường là những biểu hiện của những người bán và những
người mua cũng như quan hệ giữa những người sản xuất và người tiêu
dùng. Trên thị trường , người bán hàng hoá của mình với giá cao, còn
người mua thì lại luôn luôn muốn hàng hoá với giá thấp. Trên cơ sở giá trị
thị trường , giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua
và người bán
14


Cũng thông qua sự biến động của giá cả thị trường , quy luật giá trị
có tác dụng điều tiết sản xuất là lưu thông hàng hoá.
Điều tiết sản xuất hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu
sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế .Nếu giá cả của hàng hoá
trong một ngành kinh tế nào đó tăng lên thì ngành đó sẽ thu hút lao động xã
hội , làm cho qui mô sản xuất của ngành này tăng lên. Ngược lại, nếu giá
cả của hàng hoá có xu hướng tăng lên sẽ làm cho những người sản xuất
hàng hoá thu được nhiều lợi nhuận hơn. Điều này tạo ra động lực thúc đẩy

những người sản xuất hàng hoá khai thác những khả năng tiềm tàng, tranh
thủ giá cả cao, mở rộng quy mô sản xuất có xu hướng ngược lại, nghĩa là
giá cả giảm xuống sẽ làm cho quy mô thu hẹp lại.
Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đảy hoạt động của cơ chế thị
trường .Theo C.Mác,những nhà kinh doanh dưới chủ nghĩa tư bản “ghét
cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng
khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không”.
2.3 Giá cả trong cơ chế thị trường
Thông qua giá cả sự biến động của giá cả thị trường , quy luật giá trị
còn có tác dụng điều tiết lưu thông hàng hoá , nghĩa là chi phối luồng vận
động của hàng hoá . Hàng hoá sẽ được vận chuyển từ những thị trường có
giá trị thấp đến thị trường có giá trị cao.
Khả năng tách rời giá trị của giá cả không phải là nhược điểm của
quy luật giá trị mà trái lại nó sẽ là vẻ đẹp riêng biệt của quy luật giá trị: là
cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Nếu giá cả của hàng hoá luôn ngang
bằng với giá trị của nó thì không có sự hoạt động của quy luật giá trị, nó
khác đi điều đó cũng có nghĩa là phủ định của quy luật giá trị.
Trong giai đoạn tự do cạnh tranh , vì giá trị hàng hoá chuyển thành
giá cả sản xuất ( giá cả sản xuất =chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân)
15


cho nên hoạt động của quy luật giá trị trong giai đoạn này có thể biểu hiện:
Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả sản xuất .
Còn đối với giai đoạn độc quyền, sự hoạt động của quy luật giá trị có
biểu hiện mới giá cả thị trường lên xuống xung quanh giá cả độc quyền.
Giới hạn thấp nhất của giá trị thị trường là chi phí sản xuất ( C +V) giá cả
phải bù đắp được chi phí sản xuất . Giới hạn trên của giá cả tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh thị trường. Người bán phải biết bán giá cao, nhưng giá cao quá
sẽ có lợi cho đối thủ cạnh tranh vì người mua luôn muốn mua với giá thấp.

Giá bán cao quá sẽ mất khách hàng,hàng hoá khó tiêu thụ, bước chuyển
hoá thành tiền không thực hiện được. Vì vậy giới hạn trên của giá cả chính
là nhu cầu có khả năng thanh toán của người mua.
Qua đó ta có thể sơ lược về chức năng của giá cả thị trường như sau:
- Chức năng thông tin: Giá cả là phương tiện phát tín hiệu thông qua
đó các doanh nghiệp biết được mình cần phải sản xuất những loại hàng
hoá gì để thu được lợi nhuận cao, giá cả thấp sẽ không hấp dẫn được các
nhà kinh doanh.
- Giá cả làm cân bằng cung cầu nếu các nguồn lực được sử dụng hợp

- Giá cả làm chức năng phân phối và phân phối lại của các tầng lớp
dân cư trong xã hội
- Giá cả là phương tiện nối liền hàng hoá với tiền tệ, người sản xuất
với tiêu dùng. Nói tới cơ chế thị trường theo những quy luật nội tại của nó:
quy luật nội tại, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật lưu
thông tiền tệ xác định khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm đảm bảo sự
hoạt động nhịp nhàng của cơ chế thị trường. Việc thừa hoặc thiếu đều dẫn
tới tác động tiêu cực. Nếu thiếu tiền,hàng hoá không lưu thông được. Nếu

16


thừa tiền sẽ gây nên tình trạng lạm phát,giá cả hàng hoá tăng vọt, thị trường
bất ổn định.
Vậy chúng ta có thể nói sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường
là yêu cầu khách quan đối với xã hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Coi
nhẹ hay bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường là một trong những nguyên
nhân sâu xa trên lĩnh vực kinh tế . chính vì vậy mà cơ chế thị trường được
phát hiện sớm. Cơ chế thị trường được coi là “bàn tay vô hình” điều tiết sự
vận động của nền kinh tế hàng hoá

3. Những ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường và sự cần
thiết cần phải có sự quản lý của nhà nứơc.
3.1 Những ưu điểm của cơ chế thị trường
- Khi cơ chế thị trường phát triển thì kích thích mạnh việc áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động ,nâng cao trình độ xã hội hoá
sản xuất .
Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động:
Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao
động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều này đòi
hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu
mới của khoa học công nghệ
Cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh
chóng. Sở dĩ như vậylà vì: trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai
đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được lợi
nhuận nhiều nhất. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên.
- Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng. Do
vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những
nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên
trong xã hội
17


3.2 Những nhược điểm của cơ chế thị trường
Ngoài những ưu điểm của nó ,cơ chế thị trường cũng không có ít
những nhược điểm hạn chế như sau:
Trước hết phải nói tới những bệnh gắn liền với sự hoạt động của cơ
chế thị trường đó là : khủng hoảng kinh tế ,thất nghiệp, lạm phát,phân hóa
giàu nghèo và gây ô nhiễm môi trường sống nghiêm trọng.
Khủng hoảng sản xuất “thừa” là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế
thị trường phát triển. ở đây do mức cung hàng hoá vượt mức cầu có khả

năng thanh toán cho nên dẫn đến tình trạng dư thừa hàng hoá.
Nguyên nhân của tình trạng đó là do mâu thuẫn cơ bản của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.Mâu thuẫn này được thể hiện ở tính độ cao
trong từng doanh nghiệp với tính vô chính phủ trên toàn bộ sản xuất xã
hội.
Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn với sức mua có hạn của quần
chúng. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản.
- Gắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp của người lao
động, đây là một căn bệnh nan giải của kinh tế thị trường
- Kinh tế thị trường tạo ra sự phân hoá giai cấp,do đó nó cũng làm
tăng thêm mâu thuẫn giai cấp. Tác động của kinh tế thị trường đã dẫn đến
tình trạng một số người phát tài giàu có , còn một số người khác bị phá sản,
trở thành những người làm thuê. Sự đối kháng về kinh tế là cơ sở của đấu
tranh giai cấp.
- Một khuyết tật của cơ chế thị trường cần thiết phải kể đến là gây ô
nhiễm môi trường sinh thái,tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn, khí thải công
nghiệp làm cho nhiệt độ của trái đất ngày càng nóng lên. Chỉ do chạy theo
lợi nhuận trước mắt mà không tính toán đến hiểm hoạ đang đe doạ toàn
nhân loại.

18


Tóm lại, cơ chế thị trường tác động điều tiết sản xuất và lưu thông
hàng hoá . Chi phối sự vận động của cơ chế thị trường ,những sự điều tiết
đó mang tính chất mù quáng, hơn nữa các chủ thể tham gia thị trường hoạt
động vì lợi ích riêng của mình. Cho nên sự vận động của cơ chế thị trường
tất nhiên dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột, có người giàu lên,lại có
người nghèo đi. Cạnh tranh khó tránh khỏi sự lừa gạt, phá sản và thất
nghiệp… thị trường tất cả đã gây nên tình trạng không bình thường trong

quan hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định xã hội . Vì vậy, xã hội đòi hỏi
phải có sự kiểm tra, điều tiết, định hướng một cách có ý thức đối với sự vận
động của cơ chếtt . Đó là lý do cần thiết lập vai trò quản lý của nhà nước ở
tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. ở nước ta, sự quản lý của nhà
nước nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội , sự công bằng và hiêu
quả cũng như làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với
tốc độ cao.
III. Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa và sự vận động của nó ở Việt Nam
1. Bản chất sản xuất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam
sang nền kinh tế thị trường theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước một thực
trạng là: Đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội , vốn
là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
xã hội thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại
còn nặng nề. Nhưng tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh
hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Với đặc điểm xuất phát thấp như trên,có thể nhận xét rằng : Nền kinh
tế nước ta không hoàn toàn là nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc, nhưng
cũng chưa phải là nền kinh tế hàng hoá theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác, do sự
đổi mới về mặt kinh tế , nền kinh tế nước ta cũng không còn là nền kinh tế
19


chỉ huy. Có thể nói, thực trạng nền kinh tế nước ta khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn mang nặng tính
chất tự cung, tự cấp và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp. Thực trạng đó biểu hiện ở các mặt sau đây:
1.1 Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng
tính chất tự cung, tự cấp:

Sự yếu kém của nền kinh tế hàng hoá nước ta được biểu hiện ở những
dấu hiệu có tính chất đặc trưng dưới đây:
- Trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ sản xuất còn thấp kém.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng,dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ
đẻ mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế.
- Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, từ điểm xuất phát
thấp, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế cả
nước
ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hiện
tượng cây lúa vẫn còn tồn tại, nghành nghề chưa phát triển. Từ Đại hội lần
thứ VI của Đảng đến nay tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu kinh tế được
coi là hiệu quả.
Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý và hiệu quả khi nó phản ánh
đúng yêu cầu của các quy luật khách quan, khi nó cho phép khai thác mọi
năng lực của đất nước và thực hiện được sự phân công, hợp tác quốc tế .
-

Chưa có thị trường đúng theo nghĩa của nó.

Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành
và phát triển. Xem xét một cách khái quát về thị trường ở nước ta trong
những năm vừa qua thì thấy thị trường ở nước ta còn là thị trường ở trình
độ thấp. Tính chất của nó còn hoang sơ. Dung lượng thị trường còn thiếu
và có phần rối loạn, chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói
20


chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ thống giá
cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường. Về cơ bản nước
ta chưa có thị trường sức lao động hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu

vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ, trong
khu vực kinh tế nhà nước về cơ bản vẫn sử dụng chế độ lao động theo biên
chế. Chúng ta chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn, hoặc chỉ
mới có thị trường này ngoài khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay
trả, mua bán còn thô sơ khu vực kinh tế nhà nước về cơ bản vẫn sử dụng lãi
suất, tỉ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do nhà nước quy định. Chưa có lãi
suất, tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường.
Thực trạng trên đây chỉ thị trường nước ta là hậu quả của nhiều
nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan đó là trình độ phát triển của
phân công lao động xã hội còn thấp. Nền kinh tế còn mạng nặng tính chất
tự cung tự cấp. Còn về mặt chủ quan, là do những nhận thức chưa đúng đắn
về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do sự phân biệt suy ý chí giữa thị trường
có tổ chức và thị trường tự do.
Một thời gian khá dài ở nước ta đã tồn tại quan niệm cho rằng những
tư liệu sản xuất lưu truyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những
hàng hoá đặc biệt. Nó không được mua bán một cách tự do và sở dĩ như
vậy. Là vai trò đặc biệt quan trọng của những tư liệu sản xuất, nếu tư liệu
sản xuất rơi vào tay tư nhân, nó sẽ trở thành phương tiện nô dịch của người
khác. Sức lao động tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng
hoá..v..v.. Mặt khác do quản lý theo chiều dọc theo chức năng của từng
nagành (công nghiệp, nông nghiệp, vận tải, nội thương, ngoại thương...)
một cách máy móc, cho nên đã dẫn tới hiện tượng cửa quyền. Cắt đứt mối
quan hệ tự nhiên giữa các ngành, dẫn dến thị trường bị chia cắt và manh
mún.

21


Năng xuất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người
còn thấp.

Phần này phản ánh thực trạng kinh tế hàng hoá còn kém phát triển. Do
trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất
và dịch vụ xã hội còn kém. Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong
nước chưa phát triển... Cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình
quân tính theo đầu người ở nước ta tất yếu vẫn còn thấp.

1.2 ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp.
Do nhận thức chủ quan suy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong
nền thập kỷ vừa qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp. Thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô
hình này công nghiệp hiện đại hoá có nhiều nhược điểm, nó gần như đối
lập với kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.
Hai kinh tế cũ và mới (cơ chế tập trung quan liêu bao cấp được gọi là
cưo chế cũ, còn cơ chế thị trường được gọi là cơ chế mới) có nhiều điểm
khác nhau căn bản là ở chỗ: cơ chế cũ hình thành trên cơ sở thu hẹp hoặc
gần như xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ, làm cho nền kinh tế bị hiện vật
hoá. Cơ chế mới hình thành trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ. ở
cơ chế cũ, đó là cơ chế lệnh kế hoạch, kèm theo lệnh giá cả, tài chính tiền
tệ theo quy tắc cấp phát giao lệnh nhằm thực hiện kế hoạch. ở cơ chế mới
là mới là cơ chế hoạch kinh doanh, tài chính kinh doanh, tín dụng kinh
doanh phục vụ nhu cầu mua bản của các chủ thể sản xuất theo nguyên tắc
hạch toán kinh tế. Như vậy, trong cơ chế cũ các phạm trù giá cả tài chính,
lwu thông tiền tệ là những phạm trù vốn có của kinh tế hàng hoá mặc dù có
được sử dụng nhưng chỉ là hình thức.
22


Có thể tóm tắt đặc trưng cơ bản của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
trên hai góc độ: quan hệ tổ chức hành chính và quan hệ kinh tế. Về quan hệ

tổ chức hành chính đó là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng
lại được điều hành bởi nhiều đầu mối của các chức năng (công nghiệp,
nông nghiệp.v.v.) điều đó chẳng khác gì một giàn nhạc trưởng. Kiểu quản
lý như vậy, nó mang tính chất phân tán.
Về quan hệ kinh tế, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thể hiện quan
hệ giao nộp, thu mua, cấp phát. Sản xuất và kinh doanh được tiến hành gần
như khu vực hành chính quan liêu bao cấp hết sức nặng nề.
Điều này được thể hiện như sau:
- Làm mất sức mạnh của tổ chức thống nhất theo kế hoạch trước hết
đối với kinh tế Nhà nước. Sự chỉ huy tập trung và theo nhiều mối đã gò bó
gây ra sự vướng mắc. Từ đó, cơ chế tập trung đã trở thành bần lực và
buông lỏng cho thức tế tự phát.
- Làm suy yếu, triệu tiêu động lực kinh tế, thậm chí gây ra tác động
như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những
người tích cức, tạo môi trường cho lãng phí, gây thất thoát tài sản quốc gia.
- Cản trở mục tiêu ổn định, cải thiện đời sống phát triển sản xuất trong
điều kiện tồn tại cơ chế giao nộp và cấp phát, dù có nói nhiều về quy luật
giá trị thì cũng chỉ là chính thức. Việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng
hoá là một tất yếu lịch sử, cho nên sự hạn chế quan hệ hàng hoá và quy luật
giá trị trở thành sự cản trở tiến bộ kinh tế, kìm hãm nhân tố mới, do đó làm
cho Nhà nước không thể làm chủ những quá trình kinh tế khách quan mặc
dù trong tay Nhà nước không thể làm chủ những quá trình kinh tế to lớn. Vì
vậy, Đại hội lần thứ VII của Đảng ta khẳng định xoá bỏ triệt để cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoach, chính sách và
công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu
23


dùng, vật tư dịch vụ, tiền vốn, sức lao động... Thực hiện giao lưu kinh tế
thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới. (1)


1.3 Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước theo định nghĩa Xã hội chủ
nghĩa,.
Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường có thể rút ra kết luận: Thực hiện chất của quá trình
chuyền nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định nghĩa là
quá trình kết hợp giữa nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp sang nền
kinh tế hàng hóa tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển đổi cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước.
Chính C. Mác đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát và
là điều quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển
của nền sản xuất lớn Tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lê Nin cũng
chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP) về thực chất, đó là sự
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, khơi dậy sự sống động
của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn,
thực hiện các quan hệ kinh tế băng nhình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ trên
thị trường.
Quá trình hình thành chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có
đặc điểm khác với các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Những nước này có
nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế được cớ khí hoá, không có một cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đó đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Tính tự nhiên, tự cấp tự túc như nền kinh tế nước ta, vì vậy quá trình
hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình chuyển
24


nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cung tự cấp sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, mặt khác ở nước ta cũng đã tồn tại mô hình

kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường được coi là trung tâm
sản xuất.
Kinh tế “đóng”, “khép kín” thường gắn liền với nền kinh tế phong
kiến, gắn với sản xuất nhỏ mang tính cục bộ, địa phương chủ nghĩa và với
tình trạng bế quan toả cảng.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta có nhiều đổi mới quan trọng.
Chúng ta đã chuyển biến quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa
phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo
nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vao công việc nội bộ của
nhau.
Trong những năm gần đây, thực hiện về quan điểm kinh tế đối ngoại
mới trên hoạt động kinh tế quốc tế nước ta đã có những tiến bộ lớn, xuất
khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ trên 120% hàng năm. Đảm bảo nhập
khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu, cải thiện dần cán cân thanh toán
quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng khắc phục được những hẫng hụt về
nguồn vốn và thị trường từ các nước SNG và Đông Âu. Hàng hoá xuất
khẩu của nước ta đã tìm được những thị trường mới trong khu vực Đông
Nam á và Tây Âu. Nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng tăng
nhanh đáng kể.
Trong khi hàng hoá nhập vào thị trường thế giới và đẩy mạnh hoạt
động ngoại thương cần áp dụng có hiệu quả lợi thế so sánh. Từ đó cân nhắc
quyết định cụ thể xem xét nền sản xuất và cung ứng cho thị trường khu vực
và thị trường thế giới những loại hàng hoá nào, với số lượng bao nhiêu, từ
đó xác định rõ quy mô sản xuất cho thích hợp.

25


×