Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ HỒNG NGHĨA

PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI - 2012




MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......….......………..……………………. .......….......………..…...

1

CHƯƠNG 1


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ MÔ HÌNH PHÁP LUẬT
VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ……………………..………………...

5

1.1.1. Bản chất của lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại... ………….......………..………………….....................………..

5

1.1.2. Các loại lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại …….......….......………..……………………….......………...........…......

11

1.1.3. Các yếu tố tác động đến lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng thương mại …………..………..…….......…..…………………….........

13

1.1.4. Vấn đề hiệu quả của việc tăng, giảm lãi suất dưới góc độ lý thuyết
kinh tế học ………….......…..………..………..…….......…..……….........….

16

1.2. MÔ HÌNH PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ….......…..........……..


21

1.2.1. Các nguyên tắc chung trong việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với lãi
suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại .......….......…....

21

1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật đối với lãi suất trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại ….......….......………..……….....…...

23

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ..........

29

2.1.1. Giới hạn điều chỉnh của pháp luật đối với lãi suất trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam ……………............……

29

2.1.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam ………….....…………......................


32


2.1.2.1 Ưu điểm của pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại ở Việt Nam ……………….....….............…….....…...

32

2.1.2.2 Những hạn chế của pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam ………….....…………….....…....

42

2.1.3. Tình hình vi phạm pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam thời gian qua và các biện pháp xử lý
đã áp dụng ……………….....…………….....….……….....……............……

49

2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM ……………..…………….....….….................………....

56

2.2.1. Các kiến nghị về phương diện chính sách ……………….....................

57

2.2.2. Các kiến nghị về phương diện thể chế …………………………...........


62

KẾT LUẬN .......….......………..……………………. .......….......………..…

67

TÀI LIỆU THAM KHẢO ….......….......………..……………………..…….

68

Phụ lục ………….......….......………..……………………….......…..............

71


Đại học luật Hà Nội

1

Luật kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử nhân loại, lãi suất ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ, vì xét
về bản chất thì lãi suất chính là “giá cả” của việc sử dụng tiền tệ thông qua giao dịch
cho vay. Tuy nhiên, chỉ đến khi hệ thống ngân hàng hình thành và phát triển, các
giao dịch của ngân hàng được các tổ chức, cá nhân trong xã hội sử dụng thường
xuyên thì lãi suất mới thực sự thể hiện được hết tầm quan trọng của mình. Trong
giai đoạn hiện nay, khi hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đều hướng về mô hình

kinh tế thị trường thì “sức nóng” của lãi suất càng nổi bật hơn nữa và lãi suất trở
thành biến số quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của nền kinh tế. Những
biến động của lãi suất không chỉ thu hút sự chú ý của các cơ quan quản lý, các
doanh nghiệp, giới đầu tư mà còn thu hút sự quan tâm của cả các tổ chức, cá nhân
khác trong xã hội. Cũng chính vì “sức nóng” của lãi suất trong đời sống hàng ngày
ở mỗi quốc gia mà hầu hết các nước đều tìm cách sử dụng pháp luật để can thiệp
vào lãi suất, cho dù theo những cách thức khác nhau nhằm giúp Nhà nước đạt được
các mục tiêu quản lý của mình. Điều này cho thấy việc điều chỉnh bằng pháp luật
đối với lãi suất nói chung và lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại nói riêng là điều cần thiết và ý nghĩa của nó là không thể phủ nhận.
Ở Việt Nam, vấn đề lãi suất đã được Nhà nước quan tâm bằng cách đưa ra một
số quy định về lãi suất trong các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Tuy
nhiên, trải qua thời gian, các quy định về lãi suất ở Việt Nam luôn thay đổi để phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Do tính
phức tạp của vấn đề lãi suất, việc điều hành lãi suất thông qua các quy định của
pháp luật cũng không tránh khỏi những khúc mắc trong thực tiễn áp dụng cần được
nghiên cứu giải quyết một cách thỏa đáng.
Để tìm ra câu trả lời thỏa đáng cho vấn đề lãi suất trong hoạt động kinh doanh
của NHTM hiện nay, hàng loạt câu hỏi được đặt ra cần được trả lời, chẳng hạn như:
bản chất kinh tế và bản chất pháp lý của lãi suất là gì? Lãi suất có ảnh hưởng như
thế nào đến hoạt động kinh doanh của NHTM? Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng
pháp luật đối với vấn đề lãi suất và mô hình pháp luật về lãi suất trong hoạt động
kinh doanh của NHTM? Thực trạng pháp luật về lãi suất và thực tiễn áp dụng pháp
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội


2

Luật kinh tế

luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM được thể hiện như thế nào?
Giải pháp nào cho việc nâng cao tính hiệu quả của việc điều hành lãi suất trong hoạt
động kinh doanh của NHTM?... Tất cả những câu hỏi này có thể được trả lời thông
qua việc nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu về các hoạt động của NHTM ở Việt Nam rất phong
phú, cả tài liệu tiếng Việt lẫn tài liệu tiếng nước ngoài.
Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu như:
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về lãi suất dưới góc độ kinh tế như:
Cuốn sách Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính của PGS. TS Lê Văn Tư, do Nhà
xuất bản Tài chính xuất bản năm 2004; cuốn sách Lãi suất trong nền kinh tế thị
trường – Phương pháp luật và thực hành của Nguyễn Bá Nha do Nhà xuất bản
thống kê xuất bản năm 1997; các bài nghiên cứu được đăng trên tạp chí Ngân hàng
ví dụ bài viết: “Tác động của chính sách lãi suất đối với nền kinh tế” của tác giả Lê
Trang đăng trên Số 15(8/2011) - Tạp chí Ngân hàng nhà nước (trang16 – 19); các
bài viết về những diễn biến của lãi suất đăng trên các trang báo mạng, ví dụ Bài viết
Lãi suất tiết kiệm lại vượt trần của tác giả H.Sương đăng trên website
vào năm 2011...
Thứ hai, những công trình nghiên cứu đề cập đến một nội dung nhỏ của lãi
suất dưới góc độ pháp lý như: Bài viết Thoả thuận về lãi suất giữa các ngân hàng và
pháp luật cạnh tranh của Th.S Nguyễn Thanh Tú, đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập

pháp số 02/2005 (trang 56-64). Tuy nhiên, bài viết chỉ tập trung vào một nội dung
rất nhỏ trong quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM đó là quy
định về cạnh tranh; Từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp biên

soạn có đưa ra khái niệm lãi suất, lãi suất cho vay và lãi suất ngân hàng cùng một số
cách phân loại lãi suất ngân hàng (trang 452 - 454)...
Do đó, trên cơ sở tiếp thu và phát huy các thành quả từ các công trình nghiên
cứu trước đây, người viết hy vọng sẽ đem đến một cách nhìn hệ thống, có tính phản
biện về pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

3

Luật kinh tế

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm hướng tới việc tìm hiểu các vấn đề
lý luận về lãi suất, các quy định pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hoạt động kinh
doanh của NHTM, từ đó đề ra các kiến nghị để hoàn thiện các quy định pháp luật
trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm: Các quan điểm, học thuyết về ngân
hàng và lãi suất ngân hàng, các quy định của pháp luật về lãi suất trong hoạt động
kinh doanh của NHTM ở Việt Nam, bao gồm cả các quy định hiện hành và quy
định đã tồn tại;
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề chính sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về lãi suất trong hoạt động kinh doanh
của NHTM ở Việt Nam;
- Tìm hiểu thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về lãi
suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM;

- Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về lãi suất trong hoạt động
kinh doanh của NHTM ở nước ta.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện dựa trên nguyên tắc sử dụng kết hợp
các phương pháp chủ yếu trong khoa học xã hội như phương pháp phân tích, so
sánh và tổng hợp, khảo sát và khái quát hóa...
Phương pháp phân tích được sử dụng khi đánh giá thực trạng pháp luật về lãi
suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi đối chiếu quy định của pháp luật Việt
Nam với pháp luật của các nước khác trên thế giới khi sử dụng lãi suất là công cụ
điều hành chính sách tiền tệ.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc đánh giá khái quát, rút ra kết
luận về từng vấn đề trong phạm vi nghiên cứu, cũng như đưa ra các kiến nghị để
hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Với việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

Luật kinh tế

4

của ngân hàng thương mại ở Việt Nam”, luận văn có một số điểm mới sau:
- Góp phần xây dựng hệ thống lý luận chung về lãi suất trong hoạt động kinh
doanh của NHTM ở Việt Nam ở phương diện các quy định pháp luật.

- Chỉ ra những ưu điểm và những bất cập trong các quy định hiện hành về lãi
suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam;
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về lãi
suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của Luận văn được chia làm hai chương sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận về lãi suất và mô hình pháp luật về lãi suất
trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Chương II: Thực trạng pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của
NHTM ở Việt Nam và một số kiến nghị.

Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

Luật kinh tế

5

Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ MÔ HÌNH PHÁP LUẬT VỀ
LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Bản chất của lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng

thương mại
1.1.1.1. Lịch sử hình thành lãi suất
Theo giả định, từ thời cổ đại, cùng với sự xuất hiện của tiền thì con người bắt
đầu tính lãi cho khoản vốn mình đầu tư mặc dù người ta có thể vay mượn nhiều thứ
khác ngoài tiền. Khi trao đổi hàng hóa đã trở lên phổ biến, các khoản tín dụng đầu
tiên được áp dụng đối với lương thực. Ví dụ: một người nông dân cho người khác
vay một lượng ngũ cốc và được trả lại một lượng ngũ cốc lớn hơn.
Hoạt động của những người cho vay (người có một khoản nợ phải đòi) đã làm
cho “lãi suất ngân hàng” trở thành một hiện tượng quan trọng nhất trong thế giới
hiện đại và cũng là vấn đề gây tranh cãi nhất trong quá khứ. Thu lãi đã được các nhà
triết học Hi Lạp cổ đại biết đến và sự phản đối kịch liệt của họ đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến thái độ đối với lãi suất trong thời kỳ Trung cổ ở cả Châu Âu và thế giới Hồi
giáo. Lập luận của những nhà Ngụy biện có một logic rất lạ, theo họ, tiền không có
giá trị nội tại, vì nó không tồn tại trong giai đoạn thế giới được tạo ra. Vì nó không
có giá trị nội tại, nên người sở hữu tiền không mất gì khi cho vay tiền. Do đó, người
cho vay không thể đặt ra yêu cầu là sẽ có doanh thu từ việc đầu tư là cho vay. Vì
vậy, không thể nghĩ đến lãi suất.
Theo quan điểm của Giáo hội, những người cho vay tiền đã phải chịu sự phản
đối kịch liệt không ngừng khi vừa bắt đầu, vì vậy, họ đã phải tạo ra mô hình tín
dụng mới để tránh các khoản vay trực tiếp. Trong đó, thành công nhất là những
người đổi tiền của nước Ý vào thế kỷ 14 được gọi là những chủ ngân hàng (theo
tiếng Ý “banco” – là cái bàn). Thay vì những khoản vay trực tiếp, họ cung cấp hối
phiếu. Giao dịch như vậy là bán một loại tiền để lấy loại tiền khác, được trả vào thời
gian đã thỏa thuận. Cùng lúc đó ở Ý và Pháp có quan hệ kinh tế mạnh mẽ. Điều này
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội


6

Luật kinh tế

thể hiện qua việc, một thương gia cần tiền đã đến gặp một chủ ngân hàng người Ý
để mượn tiền mặt của một loại tiền, sau đó cả hai người đã ký vào một tờ hối phiếu,
theo đó thương nhân này đồng ý trả một khoản tiền lớn hơn bằng đồng tiền của
nước Pháp.
Tiền của những chủ ngân hàng mới người Ý đã thúc đẩy thương mại phát triển
vì sự dịch chuyển nhanh chóng của dòng tiền. Vào năm 1338, vận chuyển tiền xu từ
Rouen (phía bắc nước Pháp) đến Avignon mất ba tuần. Khi vận chuyển luôn có
nguy cơ tiền bị lấy trộm hoặc lấy cắp từ những người được thuê vận chuyển. Còn
một hối phiếu chỉ cần tám ngày để vận chuyển và thậm chí khi bị lấy trộm thì tên
trộm cũng không thể sử dụng được. Mặc dù chi phí khi sử dụng hình thức hối phiếu
cao (tỷ lệ lãi suất khoảng từ 8-12 %), nhưng rẻ hơn giá vận chuyển xu hoặc thanh
vàng và bạc.
Đến thời kỳ Phục Hưng, kinh doanh ngân hàng đã xuất hiện và không được
coi trọng trong giai đoạn đầu. Những chủ ngân hàng bắt đầu nỗ lực để trở thành
những công dân đặc biệt bằng cách gia tăng sự giàu có, danh hiệu quý tộc và hàng
ngũ giáo sĩ cao, nhưng nỗ lực của họ chỉ được ghi nhận sau khi dịch vụ đại chúng
cung cấp cho các tầng lớp thấp nhất. Điều này là có khả năng cùng với việc khám
phá ra sự giàu có vô cùng của nước Mỹ. Theo truyền thống thì người dân (như binh
sĩ, nghệ sĩ, luật sư, bác sĩ...) những người phụ thuộc vào tiền muốn lấy lương hơn là
hàng hóa (như chỗ ở, thực phẩm, rượu, muối...) cho các nhu cầu của họ. Ngay cả
những người làm nghề mại dâm hay các chủ quán trọ cũng không muốn được thanh
toán bằng thực phẩm và hàng hóa. Họ cũng muốn vàng hay ít nhất là đồng bạc.
Bằng cách đó, lịch sử lãi suất đã bắt đầu.
Đặc biệt là vào thế kỷ 17, việc phân phối lại tài sản đã đưa đến một cuộc xung
đột, điều này đã làm tầng lớp thương nhân trung lưu phát triển. Đến lượt mình, họ

đã cho ra đời ngành nghề mới liên quan đến tiền. Cùng với sự phát triển của việc
kinh doanh ngân hàng, đã có sự xuất hiện của những người môi giới, những người
này chuyên mua và bán mọi thứ - từ bất động sản đến cổ phần. Các ngân hàng cần
nhiều tiền hơn nữa, và cùng thời gian đó một hệ thống gửi tiền đã được thiết lập, vì
vậy bất kỳ ai cũng có thể trở thành người gửi tiền và sống bằng tiền lãi [23].
1.1.1.2. Khái niệm lãi suất và lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

Luật kinh tế

7

hàng thương mại
Để hiểu đúng bản chất của lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại, cần bắt đầu từ việc làm rõ khái niệm lãi suất.
Về phương diện lý luận, có thể tiếp cận khái niệm lãi suất từ nhiều góc độ
khác nhau, trong đó chủ yếu là sự tiếp cận từ góc độ kinh tế và góc độ pháp lý.
Dưới góc độ kinh tế: Vấn đề bản chất của lãi suất từng được thể hiện rõ rệt
nhất thông qua sự phân tích của các nhà kinh tế học. Trong khuôn khổ giới hạn của
luận văn này, người viết chỉ tập trung giới thiệu quan điểm về lãi suất của
J.M.Keynes và K. Marx.
Theo J.M.KEYNES (1883-1964), “lãi suất là khoản thù lao cho việc mất khả
năng chuyển hoán trong một thời gian nhất định”, là phần thưởng cho việc từ bỏ
việc giữ tiền mặt. Nếu khoản thù lao cho việc không sử dụng tiền mặt giảm xuống,
thì tổng lượng tiền mặt mà dân chúng muốn giữ lớn hơn mức cung tiền mặt và nếu

lãi suất được nâng lên, thì có một số dư tiền mặt mà không một ai muốn giữ. Có hai
nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất: Một là, khối lượng tiền tệ, Keynes cho rằng nếu
khối lượng tiền đưa vào lưu thông tăng, thì lãi suất giảm. Việc dùng lãi suất để điều
tiết kinh tế là một trong những chủ trương của Keynes. Hai là, sự ưa thích giữ tiền
mặt (ưu tiên chuyển hoán), Keynes cho rằng sự ưa chuộng tiền mặt là xu hướng có
tính chất hàm số xác định lượng tiền mà dân chúng sẽ giữ khi biết trước lãi suất.
Ông còn nói rằng đây là cách thức lượng tiền tham gia vào hệ thống kinh tế. Sự ưa
chuộng tiền mặt do các động cơ tâm lý quyết định. Keynes cho rằng lãi suất là một
hiện tượng tâm lý cao độ, có tính quy ước. Nếu người ta tin rằng mức lãi suất đó
được kéo dài thì nó được duy trì lâu dài. Theo ông, tỷ suất lợi tức thực tế chịu ảnh
hưởng của yếu tố tâm lý, song lại tương đối ổn định, trong khi đó hiệu quả giới hạn
của tư bản biến động và rất không ổn định. [12, tr. 220, 221, 222].
Quan điểm của K.Marx về lãi suất: K.Marx không chỉ đưa ra khái niệm lãi
suất mà còn chỉ ra nguồn gốc của lãi suất. Theo K.Marx, tư bản cho vay, sau một
thời gian giao cho nhà tư bản hoạt động sử dụng, phải được hoàn trả lại cho người
chủ sở hữu nó kèm theo một giá trị tăng thêm, giá trị tăng thêm là lợi tức. Lợi tức là
cái giá mà nhà tư bản hoạt động (tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp) phải trả
cho người sở hữu tư bản cho vay về quyền được tạm thời sử dụng khoản tư bản tiền
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

8

Luật kinh tế

tệ của người đó. Lợi tức khi cho vay (các TCTD cho các tổ chức, cá nhân trong xã

hội vay; hoặc ngược lại các tổ chức, cá nhân trong xã hội cho các TCTD vay) –
chính là lãi suất.
Khi phân tích về nguồn gốc và bản chất của lãi suất, K.Marx cho rằng: Tiền là
tư bản ngay từ khi nó được cho vay nhằm mục đích thu lợi nhuận. Nhưng khi
chuyển từ người cho vay sang người đi vay thì tiền chưa đẻ ra lợi nhuận được. Tiền
đi vay phải trở thành tư bản hoạt động mới tạo ra lợi nhuận. Như vậy, về thực chất,
lợi tức chỉ là một phần của giá trị thặng dư mà nhà tư bản hoạt động thu được nhờ
sử dụng tư bản cho vay, trả cho chủ sở hữu tư bản cho vay, tức là một phần của lợi
nhuận trung bình mà các nhà tư bản công, thương nghiệp thu được khi sử dụng tư
bản cho vay vào hoạt động sản xuất – kinh doanh thu lợi nhuận, trả cho nhà tư bản
cho vay [15, tr.284, 285].
Theo Từ điển quản lý tài chính, ngân hàng, lãi suất được định nghĩa là “khoản
tiền thù lao trả cho việc sử dụng một số vốn nhất định, đó là giá thuê của đồng tiền”
[20, tr.225].
Trong nền kinh tế thị trường, ngoại trừ những khoản cho vay giữa các cá nhân
với nhau mang tính tương trợ vì mục đích tiêu dùng, hầu hết các khoản cho vay đều
có phát sinh lãi và khoản lãi này được tính theo một tỷ lệ phần trăm (%) nhất định
trên số vốn đã cho vay (gọi là lãi suất). Về lý thuyết, lãi suất là yếu tố phản ánh “thu
nhập” của người có vốn cho vay, nhưng cũng đồng thời được coi là “chi phí” của
người vay phải trả cho việc sử dụng vốn của người khác. Vì thế, trong hạch toán kế
toán, bên vay bao giờ cũng đưa các khoản lãi phải trả vào chi phí sản xuất kinh
doanh (gọi là chi phí vốn) để từ đó đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh của
mình. Giống như bất kỳ loại hàng hóa nào khác, lãi suất – với tư cách là giá cả của
dịch vụ thuê vốn hay dịch vụ cho vay, luôn luôn vận động theo các nguyên tắc và
quy luật của thị trường, bao gồm nguyên tắc thỏa thuận, nguyên tắc tối đa hóa lợi
ích và tối thiểu hóa chi phí; các quy luật cơ bản như quy luật cạnh tranh, quy luật
giá trị, quy luật cung cầu…
Có thể nhận thấy, quan điểm của các nhà kinh tế chính trị học về lãi suất chính
là cơ sở để khoa học pháp lý đưa ra định nghĩa về lãi suất.
Dưới góc độ pháp lý: Các luật gia cho rằng lãi suất phản ánh một quan hệ

Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

9

Luật kinh tế

pháp lý giữa các chủ thể, trong đó có một bên đóng vai trò là chủ nợ (bên có quyền
được hưởng lãi suất), còn bên kia đóng vai trò là khách nợ (bên có nghĩa vụ phải trả
lãi). Quan hệ pháp luật này có thể phát sinh dựa trên sự thỏa thuận của các bên (ví
dụ các bên thỏa thuận điều khoản về lãi suất trong hợp đồng cho vay) hoặc do quyết
định của một cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (chẳng hạn, tòa án
quyết định buộc bên gây thiệt hại phải trả cho bên bị thiệt hại một khoản tiền lãi
đúng bằng mức lãi suất ngân hàng do việc chậm thanh toán tiền bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng…).
Như vậy, trong khoa học pháp lý, lãi suất vừa phản ánh một nghĩa vụ tài sản
(nghĩa vụ trả lãi) của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền, đồng thời cũng phản
ánh một quyền tài sản (quyền được hưởng lãi) của bên có quyền đối với bên có
nghĩa vụ. Nói cách khác, lãi suất phản ánh một quan hệ tài sản giữa bên có nghĩa vụ
trả lãi đối với bên có quyền và quan hệ tài sản này được pháp luật bảo hộ bằng sức
mạnh cưỡng chế nhà nước. Theo logic đó, mức lãi suất phản ánh mức độ nghĩa vụ
tài sản mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện đối với bên có quyền, đồng thời cũng
phản ánh mức độ lợi ích và mức độ quyền yêu cầu của bên có quyền đối với bên có
nghĩa vụ. Điều này có nghĩa rằng nếu lãi suất cao thì gây bất lợi cho người có nghĩa
vụ nhưng lại rất có lợi cho bên có quyền và ngược lại. Chỉ khi nào lãi suất ở mức độ
hợp lý nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích cho cả hai bên thì khi đó lãi suất này mới được

các bên cùng tự giác thực hiện.
Từ khái niệm về lãi suất như đã phân tích ở trên, có thể rút ra nhận định rằng
lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM là thuật ngữ chỉ các loại lãi suất
phát sinh trong hoạt động huy động vốn và cấp tín dụng của NHTM. Lãi suất trong
hoạt động kinh doanh của NHTM thường được hiểu bao gồm hai nhóm: Lãi suất
huy động vốn (ví dụ: lãi suất tiền gửi, lãi suất trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền
gửi ngân hàng, lãi suất tái cấp vốn...); lãi suất cấp tín dụng (ví dụ: lãi suất cho vay,
lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu...).
Như vậy, có thể hiểu lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM là khoản
tiền mà NHTM phải trả cho khách hàng khi huy động vốn hoặc được trả bởi khách
hàng khi cấp tín dụng cho khách hàng theo hợp đồng.
1.1.1.3. Vai trò của lãi suất
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

Luật kinh tế

10

Vai trò của lãi suất được thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản như sau:
Thứ nhất, đối với NHNN, lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông
qua công cụ lãi suất, NHNN thực hiện chức năng điều chỉnh kinh tế vĩ mô nhằm đạt
được các mục tiêu chiến lược phát triển của đất nước, đó là:
- Kiểm soát giá cả trên thị trường: Bằng cách tăng lãi suất, NHNN có thể làm
yếu đi khả năng cho vay của các NHTM, và khối lượng tiền cần thiết cho việc mở
rộng sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng giảm bớt. Do đó, số lượng

hàng hóa trên thị trường giảm đi, theo quy luật cung cầu, khi đó giá cả hàng hóa
tăng lên. Ngược lại, khi muốn giảm giá cả trên thị trường, NHNN có thể tăng lượng
tiền có thể cho vay của NHTM cho việc sản xuất kinh doanh làm cho hàng hóa
nhiều lên và giá cả hàng hóa giảm đi.
- Kiềm chế lạm phát: Bên cạnh vai trò hướng dẫn điều hành nền kinh tế, lãi
suất tín dụng còn đóng vai trò tích cực trong kìm chế lạm phát. Vai trò này xuất
phát từ sự tác động của lạm phát tới lãi suất sẽ được trình bày cụ thể trong phần sau.
- Đòn bẩy kinh tế: Những ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung ứng tín dụng và
thanh toán là công cụ của nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vào các
loại sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa
quan trọng đối với các nước chậm phát triển muốn có những bước nhảy vọt để đi
ngay vào công nghệ hiện đại trong thời đại hiện nay.
- Điều tiết hoạt động đầu tư, tiết kiệm: Đối với, quy mô tiết kiệm, nếu lãi suất
thực tế càng cao thì số tiền gửi vào ngân hàng càng lớn thay vì tăng quy mô mua
sắm tài sản. Bởi vì, gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng khi lãi suất cao thì sẽ có khả
năng sinh lời cao và an toàn hơn việc tích trữ tài sản và nhờ đó nguồn vốn nói
chung của ngân hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc
dân cũng tăng lên. Bên cạnh đó, lãi suất cũng là công cụ để điều tiết đầu tư: Từ việc
điều chỉnh gián tiếp lãi suất theo hướng tăng hoặc giảm, Nhà nước đã định hướng
các hoạt động đầu tư theo hướng mở rộng hoặc thu hẹp sản xuất.
Tóm lại, lãi suất tác có tác động đến nhiều mặt đến nền kinh tế, một chính
sách lãi suất hợp lý sẽ vừa là điều kiện thu hút các khoản vốn nhàn rỗi, vừa để thúc
đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
Thứ hai, đối với ngân hàng thương mại, lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội


11

Luật kinh tế

có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù đắp chi phí và đem lại lợi nhuận cho NHTM.
Vai trò này thể hiện ở chỗ:
- Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải hoàn trả đúng kì hạn cả vốn lẫn
lãi, để có nguồn vốn trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm thực sự đến kết quả sản
xuất kinh doanh của mình. Trong trường hợp, hoàn trả nợ không đúng kì hạn, lãi
suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng hạn nên các doanh nghiệp phải cố gắng kinh
doanh tốt để trả nợ đúng hạn. Hoạt động của NHTM là huy động vốn để cho vay, do
đó, ngân hàng phải tính toán mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lý để bù đắp các
khoản chi phí nghiệp vụ và có lợi nhuận cho mình.
- Lãi suất chính là công cụ để cạnh tranh giữa các NHTM: Chính sách lãi suất
hiện hành là trần lãi suất huy động và lãi suất cho vay là lãi suất thỏa thuận. Tuy
nhiên, nền kinh tế hiện tại của Việt Nam đang phát triển theo hướng thị trường nên
do yêu cầu của quy luật cạnh tranh, mọi thành phần kinh tế đều có sự cạnh tranh
quyết liệt vì sản phẩm tiêu thụ, giá bán, phương thức phục vụ, dịch vụ bán hàng…
Đứng vững được trong quá trình cạnh tranh đó là điều không đơn giản. Với phương
châm “đi vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng vốn của ngân hàng có
liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, các NHTM đều phải đổi mới phương thức phục
vụ và huy động vốn để huy động được vốn tối đa đồng thời cũng phải đẩy mạnh cho
vay. Ngoài ra, các NHTM cũng cần phấn đấu hạ thấp chi phí, tạo cơ sở hạ thấp lãi
suất”đầu ra” để thu hút được nhiều khách hàng đến mở tài khoản và vay.
Tóm lại, vai trò của lãi suất đối với đời sống kinh tế, xã hội là điều không thể
phủ nhận. Tuy nhiên, để hiểu được rõ hơn về bản chất của lãi suất, thiết nghĩ cần có
những nghiên cứu, phân tích thỏa đáng về từng loại lãi suất trong hoạt động kinh
doanh của NHTM.
1.1.2. Các loại lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Thực tế cho thấy rằng có nhiều loại lãi suất khác nhau hình thành trong hoạt
động kinh doanh của NHTM. Căn cứ vào những tiêu chí khác nhau thì lãi suất trong
hoạt động kinh doanh của NHTM được phân chia thành các loại khác nhau.
Về phương diện lý thuyết, có thể phân chia lãi suất trong hoạt động kinh
doanh của NHTM dựa vào các tiêu chí cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nếu căn cứ vào mục đích của hoạt động nghiệp vụ của NHTM, lãi
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

Luật kinh tế

12

suất được phân chia thành lãi suất huy động vốn và lãi suất cấp tín dụng.
- Lãi suất huy động vốn được hiểu là khoản tiền mà NHTM phải trả cho khách
hàng là các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi NHTM vay tiền của khách hàng để
phục vụ cho mục đích kinh doanh của mình. Lãi suất huy động vốn bao gồm các
hình thức phổ biến như lãi suất tiền gửi, lãi suất trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, lãi
suất tái cấp vốn (trong trường hợp NHTM vay vốn từ NHTW)...
- Lãi suất cấp tín dụng được hiểu là khoản tiền mà khách hàng (tổ chức, cá
nhân) phải trả cho NHTM để được sử dụng khoản vốn vay từ ngân hàng trong một
thời hạn nhất định theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Trong nền kinh tế thị
trường, hoạt động cấp tín dụng của NHTM là rất đa dạng nên lãi suất cấp tín dụng
cũng có nhiều hình thức khác nhau, tương ứng với từng hình thức cấp tín dụng.
Chẳng hạn như: lãi suất cho vay (đối với hoạt động cho vay), lãi suất chiết khấu và
tái chiết khấu (đối với hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá...).

Trên nguyên tắc, để đảm bảo có lãi trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của
NHTM thì lãi suất huy động vốn phải luôn thấp hơn lãi suất cho vay. Về vấn đề
này, PGS.TS Lê Văn Tư có nêu quan điểm như sau: “lãi suất cho vay phải bao gồm
tất cả các chi phí huy động vốn, bù đắp cả chi phí quản lý và thực hiện khoản cho
vay, trang trải được các loại rủi ro, lãi suất cho vay phải chứa đựng phần lợi nhuận
hợp lý” [16, Tr. 441].
Thứ hai, nếu căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn, lãi suất được phân chia thành
lãi suất ngắn hạn, lãi suất trung hạn và lãi suất dài hạn.
- Lãi suất ngắn hạn áp dụng cho những khoản tín dụng có thời hạn sử dụng
vốn dưới 12 tháng.
- Lãi suất trung hạn áp dụng cho những khoản tín dụng có thời hạn sử dụng
vốn từ 12 tháng đến 60 tháng.
- Lãi suất dài hạn áp dụng cho những khoản tín dụng có thời hạn sử dụng vốn
trên 60 tháng.
Trên nguyên tắc, do mức lãi suất luôn tỷ lệ thuận với thời hạn sử dụng vốn nên
lãi suất ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất trung hạn và lãi suất trung hạn lại thấp
hơn lãi suất dài hạn. Mức chênh lệch của các loại lãi suất này thường phụ thuộc vào
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

Luật kinh tế

13

mức độ rủi ro mà bên cung ứng vốn phải chịu trong thời gian sử dụng vốn, bởi lẽ
thời hạn cho vay càng dài thì rủi ro càng cao và do đó lãi suất phải cao tương ứng.

Trên thực tế, nguyên tắc này luôn được các NHTM tuân thủ khi xác định lãi suất
kinh doanh của mình trong việc huy động vốn và cho vay.
Thứ ba, nếu căn cứ vào chủ thể quy định lãi suất có thể phân chia thành lãi
suất do NHTW quy định và lãi suất kinh doanh do NHTM quy định.
Lãi suất do NHNN quy định nhằm mục tiêu điều tiết vĩ mô nền kinh tế và
kiểm soát an toàn đối với các TCTD. Thuộc loại lãi suất này bao gồm lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ
của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng. Trong các loại lãi suất này, lãi suất cơ
bản có vai trò quyết định và là cơ sở để giới hạn mức lãi suất tối đa trong hoạt động
cho vay trong xã hội nhằm cấm việc cho vay nặng lãi. Còn các loại lãi suất khác do
NHNN quy định nhằm mục tiêu định hướng hoạt động kinh doanh của NHTM.
Lãi suất kinh doanh do NHTM quy định và công bố là các loại lãi suất do
NHTM áp dụng trong các hoạt động kinh doanh của mình. Thuộc loại lãi suất này
bao gồm: lãi suất tiền gửi, lãi suất trái phiếu ngân hàng, lãi suất cho vay, lãi suất
chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá... Thông thường, các loại lãi suất này sẽ
do NHTM tự xác định trên cơ sở tình hình hoạt động kinh doanh của mình cũng
như chính sách lãi suất mà nhà nước đưa ra. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, do điều
kiện chưa cho phép mà nhà nước có thể đưa ra mức trần đối với những loại lãi suất
này và buộc NHTM phải áp dụng trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.1.3. Các yếu tố tác động đến lãi suất trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại
Lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM chịu sự tác động của nhiều
yếu tố khác nhau. Ở mức độ khái quát, có thể kể đến những yếu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Mối quan hệ cung - cầu tiền tệ trên thị trường vốn.
Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến việc hình thành lãi suất trên thị trường.
Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để thanh toán trên thị trường. Cầu tiền
tệ là nhu cầu về tiền của các đơn vị, cá nhân, tổ chức để làm phương tiện giao dịch,
trao đổi hàng hoá. Theo quy luật cung - cầu của nền kinh tế thị trường, khi cung tín
Phạm Thị Hồng Nghĩa


Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

Luật kinh tế

14

dụng lớn hơn cầu tín dụng thì lãi suất sẽ hạ xuống. Ngược lại, nếu cung tín dụng
nhỏ hơn cầu tín dụng thì lãi suất sẽ tăng lên. Chính vì cung cầu tiền tệ tác động trực
tiếp đến lãi suất nên nhà nước có thể sự dụng yếu tố này để điều chỉnh lãi suất cho
phù hợp với chính sách tiền tệ nhà nước đang thi hành.
Thứ hai: Tỷ lệ lạm phát tiền tệ trong nền kinh tế.
Lãi suất chịu ảnh hưởng rất lớn từ nhân tố này vì sự biến động của tỷ lệ lạm
phát sẽ kéo theo sự biến động của giá trị tiền tệ. Do đó, lạm phát có thể tác động tới
lãi suất do những hiệu ứng của nó lên lượng tiền có thể huy động và lượng tiền có
thể cho vay. Theo M.Friedman, trong mọi trường hợp tỷ lệ lạm phát của một nước
là cực kỳ cao trong bất cứ thời kỳ kéo dài nào, thì tỷ lệ tăng trưởng của cung ứng
tiền tệ là cực kỳ cao. Ngược lại, nếu lạm phát thấp thì các tổ chức, cá nhân trong xã
hội sẽ giữ tiền thay vì tích trữ hàng hóa, vàng, ngoại tệ, và có thể họ sẽ dụng tiền đó
để cho vay thu lãi. Đồng thời, sẽ có nhiều nguồn vì đã giữ tiền trong tay nên sẽ
không có nhu cầu vay tiền có nghĩa là cầu tiền tệ giảm còn cung tiền tệ tăng, do đó
lãi suất giảm. Do đó, nhiều nhà kinh tế đã khuyến nghị rằng cuộc chiến chống lạm
phát nhất định sẽ thất bại nếu chúng ta muốn hạ thấp lãi suất.
Thứ ba: Tác động của tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế cũng có tác động rất lớn đến lãi suất. Cụ thể là, nếu kinh
tế được dự báo sẽ tăng cao thì các tổ chức, cá nhân trong xã hội sẽ chỉ bớt một phần
tiền nhất định để sử dụng, còn phần lớn tiền sẽ dùng để đầu tư, thậm chí dùng toàn

bộ khoản tiền mình vào sản xuất, kinh doanh, nhằm thu lợi nhuận thay vì chuyển
tiền vào các NHTM, có nghĩa cung tiền tệ giảm đi. Đồng thời, có rất nhiều tổ chức,
cá nhân khác trong xã hội không có nhiều tiền sẽ vay vốn để đầu tư nhằm thu lời,
tức là cầu tiền tệ tăng lên. Do đó, cung tiền sẽ nhỏ hơn cầu, theo quy luật cung cầu
nêu trên thì lãi suất sẽ tăng. Ngược lại, khi kinh tế được dự báo là tăng trưởng thấp
thì thay vì đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, các tổ chức, cá nhân trong xã hội sẽ
chuyển số tiền mình có cho các TCTD giữ. Bởi lẽ, đầu tư vào sản xuất kinh doanh
khi kinh tế tăng trưởng thấp thì lợi nhuận sẽ không cao trong khi công sức mà người
đầu tư phải bỏ ra khi chi tiền vào việc sản xuất, kinh doanh sẽ cao hơn nhiều lần so
với việc chỉ đến các TCTD và chuyển tiền vào các TCTD. Đồng thời, trong xã hội
sẽ có rất ít các tổ chức cá nhân có ý định vay tiền để đầu tư. Vì vậy, cung về tiền sẽ
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

15

Luật kinh tế

cao hơn cầu nên lãi suất sẽ giảm.
Thứ tư: Chính sách kinh tế của Nhà nước.
Quá trình thực hiện các chính sách của nhà nước đều có tác động đến lãi suất
cân bằng trên thị trường. Các chính sách cụ thể có tác động đến lãi suất bao gồm:
- Chính sách tài chính, bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế. Khi chi tiêu
của chính phủ tăng sẽ trực tiếp làm tăng tổng cầu về tiền tệ, khi giảm thuế sẽ kích
thích chi tiêu dùng nên làm giảm cung tiền tệ, do đó lãi suất tăng. Ngược lại, khi chi
tiêu giảm sẽ làm giảm cầu về tiền, khi thuế tăng sẽ giảm chi tiêu dùng nên giảm

cung, do đó lãi suất giảm.
- Chính sách tiền tệ, với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng
trung ương thực hiện vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng của một
quốc gia. Với công cụ lãi suất, ngân hàng trung ương có thể điều tiết hoạt động của
nền kinh tế vĩ mô bằng các phương pháp: Quy định lãi suất cho thị trường; hoặc sử
dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt
buộc, tỷ giá hối đoái...
- Chính sách thu nhập, đó là chính sách về giá cả và tiền lương. Nếu mức giá
cả giảm và cung tiền tệ không thay đổi, giá trị của đơn vị tiền tệ theo giá trị thực tế
tăng, bởi vì nó có thể dùng để mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Do vậy cũng
như ảnh hưởng của một sự tăng lên trong cung tiền tệ khi mức giá được giữ cố định,
làm lãi suất giảm. Ngược lại một mức giá cao hơn làm giảm cung tiền tệ theo giá trị
thực tế, làm tăng lãi suất. Bên cạnh đó, yếu tố cấu thành quan trọng nhất của cho phí
sản xuất là chi phí tiền lương tăng sẽ làm chi phí sản xuất tăng, làm giảm lợi nhuận
theo đơn vị sản phẩm tại một mức giá cả, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, lãi
suất giảm.
- Chính sách tỷ giá, bao gồm các biện pháp liên quan đến việc hình thành quan
hệ về sức mua giữa tiền của nước này so với một ngoại tệ khác, nhất là đối với các
ngoại tệ có khả năng chuyển đổi. Tỷ giá sẽ tác động đến quá trình sản xuất kinh
doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa của một nước. Cụ thể, khi nhà nước tăng tỷ giá
ngoại tệ sẽ làm tăng giá của hàng hóa nhập khẩu, dẫn đến tăng chi phí đầu vào của
các xí nghiệp, giá hàng hóa trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu đầu tư
giảm, cầu tiền tệ giảm nên lãi suất giảm. Mặt khác khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội


16

Luật kinh tế

tiền cung ứng để đảm bảo cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, lãi suất giảm.Vì
vậy, khi thấy đồng tiền của nước mình sụt giá, ngân hàng trung ương sẽ theo đuổi
một chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, giảm bớt cung tiền tệ, tăng lãi suất trong nước,
làm cho đồng tiền của mình vững mạnh. Khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng tiền tăng
giá, không kích thích xuất khẩu, nền công nghiệp trong nước có thể bị sự cạnh tranh
của nước ngoài tăng lên, kích thực đầu tư nhiều hơn, lãi tăng lên. Như vây, khi có
một sự cạnh tranh giữa nền công nghiệp trong nước với công nghiệp nước ngoài
tăng lên, có thể gây áp lực buộc ngân hàng trung ương phải theo đuổi một tỷ lệ tăng
trường tiền tệ cao nhằm hạ thấp tỷ giá.
Tóm lại, từ các phân tích trên đây, có thể nhận xét rằng lãi suất chịu sự tác
động của nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, lãi suất vẫn là biến số quan trọng của
nền kinh tế, vì vậy nghiên cứu đến việc tăng giảm lãi suất thì cần nghiên cứu dưới
góc độ lý thuyết kinh tế học.
1.1.4. Vấn đề hiệu quả của việc tăng, giảm lãi suất dưới góc độ lý thuyết
kinh tế học
Kinh tế học có rất nhiều lý thuyết khác nhau để xem xét tính hiệu quả của việc
tăng giảm lãi suất. Trong khuôn khổ giới hạn của luận văn này, người viết chủ
trương tiếp cận vấn đề hiệu quả của việc tăng, giảm lãi suất dựa vào những lý thuyết
kinh tế chủ yếu sau đây:
1.1.4.1. Vấn đề hiệu quả của việc tăng, giảm lãi suất dưới góc độ lý thuyết
trò chơi
Giả sử người chơi cụ thể trong trò chơi “tăng lãi suất” này là các NHTM,
nhưng không phải tất cả, mà chỉ là các NHTM không có khả năng tiếp cận vốn của
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông qua hình thức chiết khấu tín phiếu. Chính đặc
điểm này sẽ làm cho các NHTM tham gia trò chơi không có lựa chọn nào khác là
huy động vốn từ dân cư hay từ hệ thống liên ngân hàng. Nhưng lãi suất liên ngân

hàng quá cao nên mục tiêu cơ bản vẫn là huy động từ dân cư thông qua lãi suất huy
động. Để đơn giản cho việc khảo sát, giả sử chỉ có hai NHTM là A và B và khách
hàng chỉ có thể gửi tiền vào hai ngân hàng này. Diễn biến của “trò chơi” như sau:
Do ai cũng nghĩ rằng NHNN sẽ không bao giờ làm ngơ khi có một NHTM nào
đó mất khả năng thanh toán và trên thực tế chưa có NHTM nào phải rơi vào tình
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

17

Luật kinh tế

trạng như thế thật, vì vậy khách hàng sẽ gửi tiền vào NHTM nào có lãi suất cao
hơn. Như thế NHTM A và B phải đứng trước lựa chọn, có tăng lãi suất hay không?
Có thể dễ dàng thấy rằng nếu A và B cùng tăng lãi suất thì hai ngân hàng sẽ chịu
thiệt, tức là sẽ huy động được với giá cao. Nhưng nếu một trong hai quyết định tăng
và ngân hàng kia giữ nguyên thì ngân hàng tăng sẽ thu hút được vốn với giá cao,
còn ngân hàng giữ nguyên sẽ không huy động được vốn. Nhưng nếu cả hai cùng giữ
nguyên lãi suất thì lợi ích chia đều cho cả hai, tức huy động được với giá rẻ nhưng
chậm. Rõ ràng với A hay B thì lựa chọn tăng lãi suất là “chiến lược áp đảo” của trò
chơi này, là chiến lược tối ưu bất kể bên kia quyết định thế nào. Vì vậy, cả A và B
đều chọn chiến lược áp đảo này và cùng nhau tăng lãi suất là điều hợp lý và điểm (1,-1) là điểm “cân bằng” của trò chơi. Điều đó nói lên rằng nếu để cho hai NHTM
này tự do đưa ra quyết định thì điểm (-1,-1) là kết cục cuối cùng của trò chơi mặc
dù ở đó lợi ích của cả hai không phải là tối ưu. Nếu hai NHTM này cùng “bắt tay”
không tăng lãi suất để cùng nhau có lợi ích = 1, tức là huy động được vốn với giá rẻ
nhưng chậm. Đây là kết cục tối ưu nhưng do đây là trò chơi có kết thúc (khi các

NHTM hoàn thành mục tiêu huy động) và có thời gian giới hạn nên khi cả hai cùng
huy động chậm thì sẽ nảy sinh những động cơ gian lận để tăng lãi suất nhằm về đích
trước trong trò chơi. Rõ ràng các NHTM không có bất kỳ biện pháp nào để trừng
phạt gian lận ngoài việc đáp trả bằng cách tăng lãi suất, điều đó sẽ dẫn trò chơi đến
điểm “cân bằng”. Nhưng cũng có một thuận lợi là việc gian lận hoàn toàn có thể bị
phát hiện được vì khi tăng lãi suất các NHTM buộc thông báo trên phương tiện
truyền thông, vì thế nguy cơ bị đáp trả là khá rõ ràng. Nhưng nếu cam kết bị một
NHTM phá vỡ, thì trong ngắn hạn, NHTM kia sẽ phải chịu tổn thất khi không có
đáp trả kịp thời. Vì các NHTM đều hiểu rõ việc tuân thủ cam kết là rất mạo hiểm
nên việc có một cam kết giữ nguyên lãi suất giữa các NHTM là bất khả thi.
Ở trên chỉ khảo sát hai NHTM nhưng trong thực tế có rất nhiều NHTM trong
hệ thống và việc đoán được hành vi của mỗi NHTM là rất khó khăn. Càng nhiều
NHTM, động cơ chọn lựa việc tăng lãi suất càng lớn. Vì thế “điểm cân bằng” của
trò chơi mới cũng vẫn là điểm (-1, …, -1), tức là tất cả các NHTM đều tăng lãi suất.
Chính vì có nhiều NHTM nên việc có một cam kết cho tất cả các ngân hàng là khó
khăn hơn rất nhiều. Rủi ro cho việc cam kết là quá lớn trong trường hợp này. Trò
chơi này cứ thế tiếp tục cho đến khi nào tất cả các NHTM cùng đạt đến mục tiêu
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

18

Luật kinh tế

huy động vốn của riêng mình thì trò chơi mới chấm dứt, khi đó lãi suất sẽ không
còn được tăng nữa.

Từ những phân tích ở trên, việc các NHTM tăng lãi suất là hoàn toàn dễ hiểu
và có thể dự đoán được. Nhưng kết quả của việc này là gây ra những bất ổn tạm
thời trong hệ thống ngân hàng, nên việc hạn chế các cuộc đua như thế là hoàn toàn
cần thiết, đây cũng chính là cơ sở để xây để xây dựng các giải pháp để hoàn thiện
quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam [9].
1.1.4.2. Vấn đề hiệu quả của việc tăng, giảm lãi suất dưới góc độ lý thuyết về
chi phí giao dịch
Mục đích của lý thuyết về chi phí giao dịch là để nghiên cứu lý do khiến các
thành viên trong xã hội phải phối hợp với nhau trong khi trên thị trường, giá cả
quyết định việc mua bán giữa các nguồn lực, cạnh tranh quyết định mọi thứ. Và đó
là vì việc trao đổi bằng giá tốn một số chi phí gọi là chi phí giao dịch. Điều này
khiến mọi người muốn tiếp tục kết hợp với nhau hơn là để giá cả chi phối.
Tìm hiểu về chi phí giao dịch trước tiên ta cần tìm hiểu định lý Coase, Coase
phát biểu định lý: việc bảo vệ quyền sở hữu sẽ không cần thiết nếu chi phí giao dịch
bằng không hay nhỏ. Nếu chi phí giao dịch quá lớn, các bên không thể thỏa thuận
được với nhau, mỗi bên sẽ phải dùng quyền sở hữu để bảo vệ quyền lợi của mình.
Từ định lý trên, Coase phát biểu định lý tiếp theo: quyền sở hữu chỉ là một trong
những biện pháp nhằm kiểm soát quyền lợi của một chủ thể kinh doanh chứ không
phải là một quyền tự nhiên. Các biện pháp khác có thể là thỏa thuận hay bồi thường
thiệt hại. Như vậy, thực thi quyền sở hữu không phải lúc nào cũng là phương pháp
bảo vệ quyền tối ưu. Muốn biết một phương pháp bảo vệ quyền có phải là tối ưu
hay không, cần phải xem xét đến chi phí giao dịch. Quyền sở hữu có thể là giải
pháp bảo vệ quyền lợi tối ưu khi chi phí giao dịch để hòa giải hay thỏa thuận với
người xâm phạm là lớn. Chi phí giao dịch là chi phí xác lập và bảo vệ quyền sở
hữu, như chi phí thông tin tìm kiếm tài sản, chi phí thực thi quyền sở hữu, chi phí
thảo luận để trao đổi tài liệu... (Allen 1971). Nếu không có cạnh tranh, lấn chiếm,
trao đổi, thì chi phí giao dịch bằng không. Marx cũng cho rằng khi quyền sở hữu
được xóa bỏ (loài người tiến lên chủ nghĩa cộng sản – hay nói theo Coase – chi phí
giao dịch bằng không), thì nguồn lực trong xã hội được phân bổ có hiệu quả nhất.
Phạm Thị Hồng Nghĩa


Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

Luật kinh tế

19

Tất nhiên điều này chỉ có trong quá khứ - xã hội nguyên thủy.
Ngoài ra, chi phí giao dịch còn được định nghĩa là chi phí liên quan đến việc
trao đổi quyền sở hữu (Demserz 1968). Định nghĩa này được mở rộng hơn so với
định nghĩa đầu tiên, và nó lý giải tất cả những gì không diễn ra được trong thị
trường cạnh tranh hoàn chỉnh.
Các lý do khiến chi phí giao dịch không thể bằng không được bao gồm: thông
tin không đầy đủ và bất đối xứng, một bên ở vị trí độc quyền so với bên kia, một
bên có thể lợi dụng một số ưu thế mà bên kia không có. Định lý Coase, khi nói rằng
nếu chi phí giao dịch bằng không thì quyền sở hữu không cần thiết cũng đồng nghĩa
với nói rằng, khi chi phí giao dịch đáng kể thì quyền sở hữu lại càng cần thiết. Như
vậy, nếu chúng ta quốc hữu hóa các nhà máy, hầm mỏ, điều này tưởng chừng như
làm giảm chi phí giao dịch, song thực chất lại làm tăng chi phí giao dịch – do một
số người nắm nhiều thông tin hơn, có những ưu thế mà người kia không có. Tóm
lại, một nền kinh tế có hiệu quả không thể xóa bỏ được quyền sở hữu, vì chi phí
giao dịch tồn tại trong hầu hết các hình thái kinh tế xã hội. Ngay cả trong chế độ xã
hội chủ nghĩa, khi nền kinh tế phát triển đến mức cao, thì sự tập trung tư liệu sản
xuất trong tay nhà nước cũng sẽ tạo ra các lợi thế chính sách (rent), tăng chi phí
giao dịch. [7, tr. 35, 36].
Khi xét việc tăng giảm lãi góc độ lý thuyết chi phí giao dịch có thể thấy, khi
Nhà nước điều chỉnh việc tăng giảm lãi suất một cách trực tiếp bằng việc ra một

quyết định hành chính thay vì dùng các công cụ khác như tác động vào thị trường
mở thì có vẻ đơn giản hơn rất nhiều. Tuy nhiên, xét ở góc độ lý thuyết về chi phí
giao dịch thì thấy chi phí giao dịch bị đẩy lên. Bởi vì, khi thay đổi chính sách lãi
suất bằng công cụ hành chính, thì Nhà nước đã ở vị thế nắm thông tin và có những
ưu thế mà các TCTD cũng như các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội không thể có
được. Điều này cũng có nghĩa chi phí giao dịch sẽ là lớn và đồng thời Nhà nước và
các TCTD cũng như các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội không thể thỏa thuận
được với nhau và mỗi bên sẽ phải dùng quyền sở hữu để bảo vệ quyền lợi của mình
thay. Trong quá trình các bên bảo vệ quyền lợi của mình, trong khi Nhà nước sử
dụng biện pháp hành chính cứng nhắc để tăng hoặc giảm lãi suất, thì thu hút khách
hàng NHTM sẽ tìm cách “lách luật” do NHTM này rơi vào tình trạng nếu không
“lách luật” sẽ không thể có đủ vốn để hoặc động hoặc không thể cấp tín dụng được.
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học


Đại học luật Hà Nội

20

Luật kinh tế

Tuy nhiên, rất có thể hành động “lách luật” của NHTM sẽ bị Nhà nước phát hiện và
xử phạt. Nếu như thiệt hại từ hành vi “lách luật” của NHTM là rất lớn thì hoạt động
của NHTM này sẽ bị ảnh hưởng, và sau đó, sự suy yếu của NHTM tác động tiêu
cực đến thị trường tiền tệ và nền kinh tế. Như vậy, xét ở phạm vi trong cả xã hội thì
việc sử dụng công cụ hành chính sẽ có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
1.1.4.3. Vấn đề hiệu quả của việc tăng, giảm lãi suất dưới góc độ lý thuyết
cân bằng lợi ích

Trong kinh tế vi mô, cân bằng được hiểu như sau: khi mọi người tăng lợi ích
của mình, thì toàn xã hội sẽ đạt được vị trí cân bằng (equilibrium). Ở đó, mọi sự
trao đổi giữa các chủ thể trên thị trường đạt được vị trí tối ưu hóa. Vị trí cân bằng
tồn tại ngoài ý muốn của các chủ thể tham gia vào thị trường. Cân bằng có hai vị trí:
cân bằng an toàn và cân bằng không an toàn. Cân bằng an toàn là vị trí mà khi giá
cả thị trường đi lệnh khỏi vị trí đó thì các lực tương tác của thị trường kéo giá cả trở
lại vị trí cân bằng. Cân bằng không an toàn là vị trí mà ở đó giá cả có khuynh hướng
rời khỏi vị trí cân bằng. Có một thực tế không thể phủ nhận phần đông mọi người
đều muốn gia tăng lợi ích của mình và thị trường luôn có khuynh hướng trở về vị trí
cân bằng và vị trí cân bằng tốt nhất là vị trí cân bằng có hiệu quả. Trong đó, một
trạng thái gọi là hiệu quả (hiệu quả Pareto - tên nhà kinh tế học Italia đầu thế kỷ 20
Vilfredo Pareto) khi không thể làm tăng lợi ích cho một người mà không làm giảm
lợi ích cho người khác. [7, tr. 31,32].
Trên cơ sở lý thuyết cân bằng lợi ích trên, người viết sẽ xem xét việc tăng
giảm lãi suất theo lý thuyết cân bằng lợi ích.
Trước tiên, người viết sẽ xem xét sự cân bằng lợi ích trên thị trường tiền tệ
giữa các NHTM với nhau. Có thể thấy, trong hoạt động kinh doanh, để tăng lợi ích
của mình, các NHTM nói riêng luôn muốn giảm lãi suất huy động và tăng lãi suất
cho vay. Nếu trong một khoảng thời gian nhất định, NHTM nào có thể huy động
vốn vớn lãi suất thấp, đồng thời cho vay với lãi suất cao thì NHTM đó đạt được lợi
ích tối đa. Tuy nhiên, rõ ràng điều này là rất khó thực hiện với sự phát triển của
công nghệ truyền thông hiện nay, do đó khi một NHTM giảm lãi suất huy động và
tăng lãi suất cho vay thì ngay lập tức các NHTM khác sẽ biết thông tin và điều
chỉnh lãi suất nhằm đạt lợi ích. Do đó, thị trường sẽ trở về ngưỡng cân bằng về lợi
Phạm Thị Hồng Nghĩa

Luận văn thạc sĩ luật học



×