Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Pháp luật về phục hồi doanh nghiệp tại việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.15 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THẢO HUYỀN

PHÁP LUẬT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Viết Tý

HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP VÀ
PHÁP LUẬT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP ........................... 6
1.1.

KHÁI QUÁT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP ............................... 6

1.1.1. Khái niệm phục hồi doanh nghiệp ....................................................... 6


1.1.2. Vai trò của phục hồi doanh nghiệp ...................................................... 8
1.2.

KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM ........................................................................................ 10

1.2.1. Khái quát về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
theo Luật phá sản Việt Nam............................................................... 10
1.2.2.

Khái quát về phục hồi doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật
Việt Nam ........................................................................................... 18

1.3.

THỦ TỤC PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ................................................... 24

1.3.1. Pháp luật Nhật Bản ............................................................................ 24
1.3.2. Pháp luật Cộng hoà Pháp ................................................................... 27
1.3.3. Pháp luật Cộng hoà Liên bang Nga.................................................... 28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP ..................................... 30
2.1.

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN (2004) VỀ PHỤC
HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN............. 30

2.1.1. Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh ................. 30
2.1.2. Vai trò của HNCN trong quá trình áp dụng thủ tục phục hồi của

doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ........................................... 32
2.1.3.

Thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản...................................................... 34


2.1.4. Xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản...................................................... 34
2.1.5. Trình tự, thủ tục thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản .......................... 42
2.1.6. Trình tự, thủ tục thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản .......................... 46
2.1.7. Đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và hệ quả pháp
lý của việc đình chỉ thủ tục tục phục hồi hoạt động kinh doanh ......... 51
2.2.

THỰC TRẠNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC .................................... 55

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC THI CÓ HIỆU
QUẢ CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP ......... 63
3.1.

CÁC KIẾN NGHỊ VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP THEO
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁ SẢN (2004) ...................................... 63

3.1.1. Khẳng định rõ mục tiêu của Luật phá sản Việt Nam là phục hồi
hoạt động của doanh nghiệp .............................................................. 63
3.1.2. Sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật phá sản (2004) về

phục hồi doanh nghiệp ....................................................................... 63
3.1.3. Các giải pháp tăng cường thi hành các quy định về phục hồi
doanh nghiệp trong Luật phá sản 2004 .............................................. 68
3.2.

CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC THI CÓ HIỆU QUẢ PHÁP
LUẬT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ................... 72

KẾT LUẬN .................................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ Luật tố tụng Dân sự

DN

: Doanh nghiệp

DNNN

: Doanh nghiệp nhà nước

HĐKD

: Hoạt động kinh doanh

HNCN


: Hội nghị chủ nợ

TTPS

: Thủ tục phá sản

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp trên thị trường ngày càng lớn, sự rút lui, phá sản của một bộ
phận doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Đặc biệt, do những tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, tình trạng khó khăn của nền
kinh tế đã và đang dẫn tới sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp, kể cả
các doanh nghiệp ở các nước phát triển và các doanh nghiệp ở các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam. Doanh nghiệp bị phá sản sẽ gây ra nhiều tác
động tiêu cực cho xã hội. Vì vậy, Nhà nước đã và đang cố gắng tìm ra những
giải pháp nhằm hạn chế và giảm thiểu các tác động đó; pháp luật về phá sản,
pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước đã được ban hành với nhiều
mục tiêu, trong đó có mục tiêu phục hồi hoạt động doanh nghiệp.
Phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một thủ tục quan
trọng trong pháp luật phá sản doanh nghiệp được quy định trong Luật phá sản

2004. Thủ tục này nhằm tạo ra những điều kiện, cơ hội để doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản có thể vượt qua được tình trạng mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn, tránh bị tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó, nếu việc phục hồi
doanh nghiệp thành công còn có thể đảm bảo quyền, lợi ích cho chủ nợ và
những người liên quan; tạo công ăn việc làm cho người lao động, duy trì ổn
định, trật tự xã hội từ đó làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh cho
doanh nghiệp.
Một bộ phận nữa không thể thiếu trong pháp luật về phục hồi doanh
nghiệp tại Việt Nam là chuyển đổi DNNN. Quá trình chuyển đổi DNNN ở
nước ta trong thời gian qua đã thu được những kết quả to lớn, các doanh


2

nghiệp sau cổ phần hóa đều nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp với các mức độ khác nhau nhưng cũng có nhiều vấn đề, thách
thức đặt ra đòi hỏi phải có giải pháp phù hợp nâng cao hiệu quả của việc
chuyển đổi này.
Các quy định pháp luật hiện hành đã tạo nên một hành lang pháp lý
quan trọng, khá chặt chẽ để giúp các doanh nghiệp nói chung và các DNNN
nói riêng có thể định hướng phục hồi doanh nghiệp một cách khá thuận lợi
hơn so với trước đây. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là pháp luật hiện
hành đã hoàn toàn đầy đủ, không còn những lỗ hổng, những điểm gây vướng
mắc khó giải quyết cho doanh nghiệp đang tiến hành phục hồi. Những quy
định pháp luật gây ra vướng mắc cho doanh nghiệp cần phải được sửa đổi, bổ
sung giúp cho quá trình phục hồi của doanh nghiệp ngày càng hiệu quả hơn
trên thực tế.
Trước những yêu cầu đòi hỏi đó, việc nghiên cứu những quy định pháp
luật về phục hồi doanh nghiệp là điều rất quan trọng và cần thiết, trên cơ sở
đó đưa ra những kiến nghị nhằm sớm hoàn thiện những quy định về phục hồi

doanh nghiệp và áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Với mong muốn đó, tôi
đã mạnh dạn lựa chọn đề tài : “Pháp luật về phục hồi doanh nghiệp tại Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”làm đề tài tốt nghiệp cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến thời điểm hiện nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu về pháp
luật phục hồi doanh nghiệp, đó là các công trình: “Thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản’’- Luận văn thạc sỹ luật học 2005 của Thạc
sỹ Nguyễn Thị Hường; Công trình dự thi giải thưởng Sinh viên nghiên cứu
khoa học 2009 “Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản theo Luật của Pháp và những vấn đề đặt ra đối với Pháp luật Việt Nam


3

của nhóm ngành XH2b, sinh viên đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;
và các bài viết : “Tìm hiểu các quy định của Luật phá sản năm 2004 về thủ tục
phục hồi, thủ tục thanh lý, tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản và
một số kiến nghị ” của tác giả Bùi Thị Dung Huyền; “Cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước – dưới góc nhìn phát triển kinh tế – xã hội bền vững’’ của
PGS.TS Tô Huy Rứa, “Luật phá sản còn nhiều bất cập khi áp dụng vào thực
tiễn” của Thái Nguyên Toàn, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam, “Phục
hồi doanh nghiệp” của Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thạch… Các công trình cũng
như bài viết này đã nghiên cứu những nội dung về phục hồi doanh nghiệp
song còn ở mức khiêm tốn, đặc biệt trong thời điểm hiện nay, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường kèm theo những hậu quả xấu đối với
doanh nghiệp, vấn đề phục hồi doanh nghiệp trở nên nóng hơn bao giờ hết.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp
khoa học khác như phân tích, so sánh, tổng hợp…Bên cạnh việc nghiên cứu

các quy định pháp luật về phục hồi doanh nghiệp, có sự so sánh, đối chiếu và
đánh giá khách quan để hoàn thiện các nội dung trong khuôn khổ đề tài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lí luận và thực
tiễn các quy định pháp luật về phục hồi doanh nghiệp được quy định trong
pháp luật phá sản và các quy định về sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Từ
đó đưa ra một số đề xuất cho việc thực thi và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
phục hồi doanh nghiệp. Với mục đích đó, đề tài có những nhiệm vụ sau;
- Làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về phục hồi doanh nghiệp
theo quy định của pháp luật Việt Nam


4

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về phục hồi doanh nghiệp, nêu
lên những điểm mới, tiến bộ cũng như những hạn chế của các quy định đó
- Đưa ra một số kiến nghị, phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về
phục hồi doanh nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về
phục hồi doanh nghiệp.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phục hồi doanh nghiệp là một thủ tục quan trọng nhằm cứu vãn doanh
nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, đưa doanh nghiệp trở lại
hoạt động kinh doanh một cách bình thường. Dưới góc độ pháp lý, phục hồi
có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, đó có thể là các biện
pháp hành chính nhằm phục hồi doanh nghiệp hoặc thủ tục phục hồi doanh
nghiệp, với tư cách là một thủ tục tư pháp .
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ cao học Luật, chúng tôi nghiên cứu
cả 2 thủ tục phục hồi trên, Tuy nhiên, nội dung trọng tâm của luận văn tập
trung nghiên cứu thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
6. Những đóng góp mới của luận văn

Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và chi tiết về các
quy định liên quan đến phục hồi doanh nghiệp trong pháp luật hiện hành. Vì
vậy, luận văn có những đóng góp sau :
Thứ nhất, Lần đầu tiên luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống
những quy định về phục hồi doanh nghiệp sẽ gợi mở một số vấn đề cho các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền lưu tâm trong quá trình ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp;
Thứ hai, Luận văn đã phân tích, đánh giá toàn bộ các quy định liên
quan đến phục hồi doanh nghiệp và thực tiễn áp dụng các quy định đó;


5

Thứ ba, Luận văn đưa ra một số đề xuất kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện các quy định pháp luật về phục hồi doanh nghiệp và nâng
cao hiệu quả điều chỉnh của các quy định pháp luật đó.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương :
Chương 1: Khái quát về phục hồi doanh nghiệp và pháp luật về phục
hồi doanh nghiệp;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về phục hồi doanh nghiệp;
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm thực thi có hiệu quả các quy định về
phục hồi doanh nghiệp.


6

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP VÀ

PHÁP LUẬT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI QUÁT VỀ PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP

1.1.1. Khái niệm phục hồi doanh nghiệp
Phục hồi, theo từ điển Tiếng Việt của nhà xuất bản Đồng Nai 1997
được hiểu là “khôi phục cái đã mất đi” [15, tr.764]. Cũng theo từ điển này,
khôi phục còn được hiểu là “làm cho có lại được hay trở lại được như trước”
[15, tr. 490]. Theo nghĩa này thì thủ tục phục hồi là một thủ tục làm cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã trở lại được như trước.
Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam tập 2 thì khái niệm phục hồi hay hồi
phục được hiểu là thiết lập lại cân bằng về…[16,tr.362].
Đến thời điểm hiện nay, trong hệ thống pháp luật văn bản khoa học
pháp lý Việt Nam chưa xây dựng khái niệm khoa học về phục hồi doanh
nghiệp. Song, trong một số công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài
nước chúng tôi có thể đưa ra một số cách hiểu sau về khái niệm “phục hồi”.
Có quan điểm cho rằng “Phục hồi được hiểu là đem lại cho con nợ
đang trong tình trạng những điều kiện và cơ hội để tiếp tục kinh doanh chứ
không phải là thanh toán con nợ”[ 10, tr.13]. Từ cách hiểu đó, khái niệm phục
hồi được thể hiện thông qua ba dấu hiệu đặc trưng sau :
- Đối tượng áp dụng của phục hồi là những con nợ nằm trong tình trạng
khó khăn về tài chính.
- Trong tiến trình phục hồi không có sự thanh lý tài sản của con nợ.
Mục đích của việc phục hồi là nhằm tạo điều kiện cho con nợ được tiếp tục
hoạt động kinh doanh.


7

Cùng bàn về khái niệm phục hồi có tác giả cho rằng “Phục hồi doanh
nghiệp mắc nợ trên phương diện pháp lý là một thủ tục được mở cho mọi

doanh nghiệp của luật tư nằm trong tình trạng ngừng thanh toán các khoản nợ
nhằm cho phép cứu vãn doanh nghiệp, duy trì hoạt động của doanh nghiệp và
việc làm cũng như hoàn trả các khoản nợ”[ 13, tr9 ].
Đồng thời, tác giả cũng đưa ra ba đặc trưng cơ bản của việc phục hồi
doanh nghiệp, ba đặc trưng đó được thể hiện như sau:
- Phục hồi doanh nghiệp là một thủ tục luật định;
- Đối tượng áp dụng là những doanh nghiệp ngừng thanh toán các
khoản nợ đến hạn;
- Mục đích của việc phục hồi là cứu vãn, duy trì hoạt động của doanh
nghiệp để hoàn trả các khoản nợ.
Trong hoạt động kinh doanh, việc một doanh nghiệp vừa là con nợ vừa
là chủ nợ là hiện tượng bình thường. Chỉ khi doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì lúc đó doanh
nghiệp mới lâm vào tình trạng phá sản. Tình trạng phá sản có thể xuất hiện
tạm thời nhưng cũng có thể là vĩnh viễn (không khắc phục được) đó là khi
doanh nghiệp mắc nợ không thể kiếm được nguồn tài chính để thanh toán nợ
đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Tình trạng phá sản cũng có thể xuất hiện đột
xuất (thiên tai, hỏa hoạn hoặc những nguyên nhân khách quan khác), nhưng
thông thường là xuất hiện từ từ trong quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp,
hay nói chính xác hơn là lãnh đạo doanh nghiệp chỉ cảm thấy tình trạng này
và họ thường có những biện pháp cần thiết nhằm thoát khỏi tình trạng này
như : vay vốn tín dụng, hoãn nợ, kêu gọi đầu tư, cơ cấu lại sản xuất, cắt giảm
nhân công… Thực chất, đây cũng là những hành động nhằm phục hồi doanh
nghiệp, hợp tác xã; cứu vãn doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng ngày một xấu


8

đi – phá sản. Quá trình này chưa bắt đầu và chưa được gọi là thủ tục phục hồi
mà chỉ là quá trình áp dụng các biện pháp phục hồi của chính doanh nghiệp

mắc nợ.
Tại Việt Nam, vấn đề phục hồi doanh nghiệp hiện nay chủ yếu được
điều chỉnh theo các quy định của pháp luật phá sản, tuy nhiên, việc chỉ nghiên
cứu vấn đề này trong pháp luật phá sản chưa thể làm rõ được nội dung của
phục hồi doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhà nước,
bởi vì đối với các DNNN, chủ yếu hoạt động bằng vốn vay, vốn chiếm dụng
nên cơ cấu tài chính bấp bênh, chi phí lãi vay cao nên khả năng thua lỗ lớn.
Nếu không tiếp cận kịp thời với các nguồn vốn và tài chính cần thiết, nếu
không có những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp thì doanh
nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bộ phận doanh nghiệp chiếm
tỉ trọng lớn nhất trong nền kinh tế, có thể bị phá sản hàng loạt, và hệ lụy đi
theo khá nặng nề, lao động sẽ mất việc làm, trở thành gánh nặng cho xã hội.
Nhà nước phải chi trợ cấp lao động dôi dư và trợ cấp mất việc làm; không thu
được nợ bảo hiểm xã hội tồn đọng; ngân sách không thu được thuế và các
khoản phải nộp tồn đọng. Tài sản Doanh nghiệp bán thanh lý không được tiếp
tục đưa vào sản xuất, gây lãng phí của cải và nguồn lực của xã hội... Như
vậy, để thực hiện phục hồi doanh nghiệp nhà nước một cách có hiệu quả,
pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ra đời như là một trong
những giải pháp để đẩy nhanh quá trình sắp xếp, đổi mới DN và hỗ trợ cho
DNNN phục hồi một cách tốt nhất.
1.1.2. Vai trò của phục hồi doanh nghiệp
Phục hồi doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định và
phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói
chung, cụ thể:


9

Một là: Đưa doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn về tài chính, hoạt động
kinh doanh trở lại bình thường

Rắc rối tài chính làm cho doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn: sản
xuất bị đình trệ, nhân viên có thể bị sa thải hàng loạt, uy tín và vị thế đang có
trên thị trường có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng, và gây ảnh hưởng không
nhỏ đối với các chủ nợ lẫn bản thân doanh nghiệp
Đối với chủ nợ, trong trường hợp con nợ gặp khó khăn, sự lựa chọn tốt
nhất là để con nợ tiếp tục tồn tại và hoạt động. Bởi lẽ, nếu doanh nghiệp được
cứu vãn, hoạt động kinh doanh trở lại bình thường thì trong tương lai doanh
nghiệp có thể thu được lợi nhuận và khả năng trả nợ là rất cao.
Đối với con nợ, việc doanh nghiệp bị phá sản có thể dẫn tới việc nhiều
người mất việc làm, mất nguồn thu nhập, doanh nghiệp mất đi công cụ sản
xuất, kiến thức về khoa học, công nghệ hoặc kinh nghiệm quý giá và gây ra
những hậu quả khác cho xã hội
Hai là: áp dụng thủ tục phục hồi là tối đa hóa khả năng thanh toán cho
chủ nợ, thông qua đó bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ và những người liên quan
Áp dụng thành công thủ tục phục hồi có nghĩa là doanh nghiệp mắc nợ
đã thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán (tình trạng phá sản). Doanh
nghiệp trở lại hoạt động sau khi đã có được những giải pháp về kinh tế, kỹ
thuật, quản lý của Hội nghị chủ nợ cũng như sự giúp đỡ về tinh thần, vật chất,
kỹ thuật, công nghệ….Thay vì cùng nhau phân chia giá trị tài sản còn lại của
doanh nghiệp theo tỷ lệ thì chủ nợ có cơ hội được nhận đủ 100% số nợ.
Ba là: Duy trì trật tự và ổn định xã hội
Việc áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp sẽ góp phần tạo một môi
trường kinh doanh lành mạnh và an toàn, tránh được ảnh hưởng xấu, tác động


10

dây chuyền do hậu quả của doanh nghiệp bị phá sản gây ra. Mặt khác, nếu
doanh nghiệp không thể phục hồi, bị tuyên bố phá sản, vấn đề đi liền với nó là
việc làm và tiền lương của người lao động. Mỗi doanh nghiệp đều có một số

lượng người lao động nhất định, doanh nghiệp còn tức là người lao động còn
việc làm, gia đình họ được bảo đảm và ổn định, xã hội không phải tiếp nhận
số lao động dôi ra do doanh nghiệp bị phá sản. Trong điều kiện nhu cầu việc
làm đang bức xúc trong xã hội hiện nay thì việc không phải tìm thêm việc làm
cho doanh nghiệp này có ý nghĩa to lớn.
Phục hồi thành công doanh nghiệp sẽ góp phần hạn chế những tác động
tiêu cực nếu doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Doanh nghiệp phục hồi thành
công vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh và tạo ra của cải vật chất, tinh thần
cho xã hội; đảm bảo nguồn thu nhập và việc làm cho người lao động; duy trì
trật tự, ổn định xã hội và lành mạnh hóa môi trường kinh doanh cho các
doanh nghiệp.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

1.2.1. Khái quát về phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản theo Luật phá sản Việt Nam
1.2.1.1. Phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo Luật
phá sản 2004
Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là một trong những thủ tục theo
Luật phá sản năm 2004. Từ những nghiên cứu của các học giả và những quy
định của pháp luật về phá sản, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản có những dấu hiệu pháp lý sau :
Thứ nhất, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục
được điều hành bởi Tòa án


11

Phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là mục tiêu ưu tiên
hàng đầu của Luật phá sản Việt Nam nói riêng và Luật phá sản các nước trên
thế giới nói chung. Vì vậy, để đạt được hiệu quả trong tiến trình áp dụng thủ

tục phục hồi, tất cả các quy định của Luật phá sản liên quan đến thủ tục phục
hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đều được điều hành bởi Tòa án.
Tòa án là chủ thể có thẩm quyền ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi cũng
như các quyết định khác liên quan đến thủ tục phục hồi và đảm bảo các quyết
định đó được thực hiện trên thực tế. Tòa án là chủ thể có quyền kiểm tra,
giám sát, đánh giá, ghi nhận toàn bộ quá trình áp dụng thủ tục phục hồi, đồng
thời phối hợp với các chủ thể khác trong quá trình xây dung, thông qua và
thực hiện phương án phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, có thể
doanh nghiệp đã áp dụng một số các giải pháp kinh tế - tài chính để khắc phục
tình trạng đó. Song, những giải pháp đó không được coi là phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với tư cách là một nội dung của thủ tục
phục hồi. Bởi lẽ, những giải pháp đó do con nợ tự xây dựng và áp dụng không
tuân theo thủ tục do Luật phá sản quy định và do Tòa án tiến hành.
Mặt khác, trong quá trình tiến hành áp dụng thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Thẩm phán phải tuân thủ những quy định
về trình tự của thủ tục phục hồi. Các quyết định của Thẩm phán ban hành đều
phải dựa trên quy định của pháp luật về phá sản, các quyết định của Thẩm
phán sẽ không có giá trị nếu phát hiện có sự vi phạm về mặt thủ tục
Thứ hai, Đối tượng áp dụng của việc phục hồi là các doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn là lúc doanh
nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Để đưa doanh nghiệp thoát


12

khỏi tình trạng đó, thủ tục phục hồi có vai trò rất quan trọng. Song trên thực
tế, không phải doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nào cũng được áp
dụng thủ tục phục hồi. Pháp luật về phá sản của hầu hết các nước trên thế giới

trong đó có Việt Nam đều tạo cơ hội tối đa cho con nợ thực hiện việc tổ chức
lại, phục hồi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, đối với những con nợ chắc
chắn không còn khả năng phục hồi thì pháp luật tạo điều kiện thuận lợi để
việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản được thực hiện trong thời gian
sớm nhất. Vì vậy, khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp, Tòa án phải xem xét doanh nghiệp đã thực sự rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn hay chưa thông qua việc điều tra tình hình tài
chính, kiểm tra, thẩm định báo cáo tài chính, bản cân đối tài sản và những
giấy tờ kế toán khác của doanh nghiệp. Từ đó, Thẩm phán đánh giá khả năng
phục hồi của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc ra quyết định có mở hay không
mở thủ tục phục hồi.
Thứ ba, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là một thủ
tục đặc biệt. Tính chất đặc biệt của thủ tục phục hồi được thể hiện ở những
điểm sau:
Một là, đây là một thủ tục được áp dụng nhằm cứu vãn doanh nghiệp
mắc nợ, cứu vãn một doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản, tức là tình
trạng không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có
yêu cầu. Toà án quyết định can thiệp phục hồi doanh nghiệp khi doanh nghiệp
đã bị yêu cầu tuyên bố phá sản và toà án đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp đó.
Hai là, quá trình áp dụng thủ tục phục hồi sẽ không có sự phân chia tài
sản của doanh nghiệp mắc nợ. Tài sản còn lại của doanh nghiệp này được giữ
nguyên và còn được bổ sung, đầu tư thêm cho hoạt động kinh doanh. Các


13

khoản nợ phải trả sẽ tạm ngừng thanh toán, các khoản nợ phải thu thì sẽ được
khuyến khích thu về tập trung nguồn lực cho doanh nghiệp.
Ba là, hoạt động của doanh nghiệp mắc nợ vẫn được duy trì và còn

được khuyến khích, ưu tiên tăng cường và được đặt dưới sự giám sát của Toà
án, của đại diện chủ nợ.
Bốn là, khi áp dụng thủ tục phục hồi, chủ nợ, con nợ được thoả thuận
với nhau, đưa ra phương án, biện pháp thực hiện phương án phục hồi dưới sự
giám sát, cho phép của Toà án. Các chủ nợ theo quy định của pháp luật hoặc
phải chấp nhận những thiệt thòi, bất lợi (như chưa được đòi nợ, phải trả lại
những khoản tiền đã thanh toán trước đó trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày
Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản…).
Như vậy, thủ tục phục hồi là một trong những thủ tục phá sản do Tòa
án quyết định, theo thủ tục này, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có
được một thời hạn nhất định để thực hiện phương án phục hồi đã được HNCN
thông qua dưới sự giám sát của Tòa án và đại diện chủ nợ.
Việc áp dụng thành công thủ tục phục hồi mang lại nhiều ý nghĩa kinh
tế, xã hội quan trọng, nó cứu vãn được một doanh nghiệp, tránh được thủ tục
xóa sổ một doanh nghiệp. Áp dụng thành công thủ tục phục hồi có nghĩa là
doanh nghiệp mắc nợ đã thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán. Trở
lại hoạt động sau khi có được những giải pháp, có được sự giúp đỡ về tinh
thần, vật chất, kĩ thuật, công nghệ... Và cả những giải pháp kinh tế, kĩ thuật,
quản lý của HNCN, thay vì cùng nhau phân chia giá trị tài sản còn lại của
doanh nghiệp theo tỉ lệ, thì các chủ nợ có cơ hội nhận đủ 100% số nợ.
1.2.1.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc áp dụng thủ tục phục hồi
Trong nền kinh tế thị trường, với sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế, xét về mặt tâm lý, không một nhà doanh nghiệp chân chính nào muốn


14

doanh nghiệp mình bị tuyên bố phá sản. Khi đã xác định bước chân vào
thương trường, nhà doanh nghiệp ý thức được những khó khăn, thách thức đặt
ra đối với họ và họ sẵn sàng chấp nhận thử thách, chấp nhận rủi ro. Do vậy,

khi doanh nghiệp gặp khó khăn, họ sẽ cố gắng bằng mọi biện pháp, kêu gọi
đầu tư, cải tiến quy trình sản xuất, cải tiến công tác quản lý, cắt giảm lao
động, hoãn nợ, gia hạn nợ… nhằm vượt qua thử thách. Trong cơ chế kế hoạch
hoá, tập trung, nhà nước cũng đã đề ra nhiều biện pháp nhằm hạn chế sự kinh
doanh thua lỗ của các công ty, xí nghiệp, như cấp vốn, đổi mới quản lý, sắp
xếp lại doanh nghiệp nhà nước, sáp nhập, chia tách và khi thật sự khó khăn
mới giải thể công ty, xí nghiệp làm ăn thua lỗ. Với việc làm này, các doanh
nghiệp đã được áp dụng những biện pháp nhằm phục hồi doanh nghiệp. Chỉ
khi họ thực sự lâm vào tình trạng không có khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu, không còn cách nào khác để cải thiện tình
hình, lúc đó họ đã thực sự lâm vào tình trạng phá sản và theo quy định của
pháp luật, họ hoặc các chủ nợ của họ có nghĩa vụ và có quyền nộp đơn đến
Toà án yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, không phải khi đã có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và
Toà án đã thụ lý đơn là doanh nghiệp đó sẽ bị tuyên bố phá sản, bởi vì:
Thứ nhất, không phải bất kỳ người nào nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản (doanh nghiệp, chủ nợ, người lao động) cũng đều mong muốn Toà án
tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Về phía chủ nợ, khi có khoản nợ đến hạn đã yêu cầu mà không được
thanh toán, theo quy định của Luật phá sản, họ được quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản để thu lại khoản nợ của doanh nghiệp mắc nợ, làm rõ mọi
quá trình và phương thức kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ, giúp doanh
nghiệp mắc nợ hiểu rõ được tình trạng và khả năng thực của họ để có những


15

biện pháp hữu hiệu, tổng thể hơn để phục hồi buộc tất cả các chủ nợ cùng
“chung sức”giúp doanh nghiệp mắc nợ phục hồi. Thông qua việc gửi đơn đến
Toà án, chủ nợ cũng mong muốn, hy vọng sẽ thu được nhiều nợ hơn, hạn chế

được những mất mát, những thất thoát tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
Về phía doanh nghiệp mắc nợ, quá trình làm ăn thua lỗ đã kéo dài,
mặc dù đã có nhiều biện pháp; xin gia hạn nợ, hoãn nợ, cải tiến quy trình sản
xuất, đổi mới quản lý… và nhất là những thương lượng với các chủ nợ
nhưng không thành công họ muốn thông qua Toà án, nhờ sự can thiệp của
Toà án tạo cho họ một diễn đàn tin tưởng, vừa được tiếng nói chung giữa
doanh nghiệp mắc nợ với chủ nợ. Vận động để tồn tại là mục tiêu cao nhất
của doanh nghiệp.
Về phía người lao động, không ai là người muốn mất việc làm vì doanh
nghiệp bị phá sản. Họ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là muốn được trả
lương, muốn biết tình trạng thực của doanh nghiệp nơi họ làm việc. Thông
qua đó, họ cũng gióng lên tiếng chuông đối với lãnh đạo doanh nghiệp…
Như vậy, không phải mọi doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng này đều
không còn “thuốc chữa”, đều trong tình trạng không thể hồi sinh. Sản xuất,
kinh doanh thua lỗ mà doanh nghiệp lâm vào có thể do nguyên nhân chủ
quan, nguyên nhân khách quan, do trình độ, năng lực chuyên môn, năng lực
quản lý, trình độ tổ chức yếu kém.Nguyên nhân khách quan có thể do rủi ro
trong kinh doanh, do bị chiếm dụng vốn, do bị ảnh hưởng dây chuyền trong
kinh doanh, do cơ chế chính sách thay đổi.
Từ những phân tích trên đây cho thấy, có nhiều nguyên nhân đưa doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản và không phải trong trường hợp
nào cũng hết khả năng khắc phục, nhất là chính chủ nợ, đại diện chủ sở hữu,
người lao động cũng không muốn doanh nghiệp đó bị xoá sổ. Do vậy, việc


16

xem xét áp dụng thủ tục phục hồi đối với một doanh nghiệp đã có dấu hiệu và
lâm vào tình trạng phá sản là thực sự cần thiết và có ý nghĩa xã hội to lớn.


1.2.1.3. Pháp luật về phá sản và những quy định về phục hồi doanh nghiệp
Pháp luật về phá sản là tập hợp những quy phạm pháp luật điều chỉnh
những mối quan hệ xã hội phát sinh hoặc liên quan đến tình trạng phá sản của
doanh nghiệp.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp trên thị trường ngày càng lớn, sự rút lui, phá sản của một bộ
phận doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Đặc biệt, do những tác động
tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, tình trạng khó khăn
của nền kinh tế đã và đang dẫn tới sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp,
kể cả các doanh nghiệp ở các nước phát triển và các doanh nghiệp ở các nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Doanh nghiệp bị phá sản sẽ gây ra
nhiều tác động tiêu cực cho xã hội. Để hạn chế và giảm thiểu các tác động đó,
pháp luật về phá sản đã được ban hành với nhiều mục tiêu, trong đó có mục
tiêu phục hồi hoạt động doanh nghiệp.
Luật phá sản đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
có tên gọi là Luật phá sản Doanh nghiệp, được thông qua ngày 30/12/1993
(có hiệu lực từ ngày 01/07/1994) nhằm hình thành khung pháp lý bảo đảm sự
quản lý và giám sát của Nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Mục tiêu quan trọng nhất trong luật này là nhắc nhở,
cảnh báo các doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động kinh doanh và hướng
dẫn thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Những quy định
trong Luật thiên về bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và hầu như không đặt mục
tiêu tái tạo lại doanh nghiệp. Trong bối cảnh đất nước đang ở chặng đầu của
thời kì đổi mới nền kinh tế, những kiến thức và kinh nghiệm về pháp luật phá


17

sản còn khá mơ hồ. Luật có những quy định về phục hồi hoạt động kinh
doanh nhưng chưa thừa nhận những nội dung đó là những thủ tục cấu thành

độc lập, chưa nhìn nhận được tính đặc thù về mối quan hệ giữa các thủ tục đó.
Trong Luật phá sản doanh nghiệp 1993, thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp gần như là một hoạt động bắt buộc trước khi tiến
hành hoạt động thanh lý. Chỉ sau khi phục hồi hoạt động kinh doanh không
thành công - tức là khi: (1) Thực hiện kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh
doanh không mang lại kết quả; (2) Người mắc nợ vi phạm cam kết; (3) Hội
nghị chủ nợ không chấp nhận kế hoạch phục hồi hoặc; (4) Người mắc nợ
không có kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh thì lúc đó tòa án mới có thể
quyết định chuyển sang tuyên bố phá sản doanh nghiệp và thanh lý tài sản
Giải quyết mối quan hệ giữa hai thủ tục phục hồi và thủ tục thanh lý với quy
trình như vậy là cứng nhắc và máy móc. Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp
tại thời điểm thụ lý đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản đã có nhiều người mắc
nợ ngừng hoạt động hoàn toàn và không còn khả năng phục hồi, nhưng do Luật quy
định, Thẩm phán vẫn phải tuần tự thực hiện các quy định của thủ tục phục hồi, điều
này chỉ làm kéo dài thời gian vô ích, không có ý nghĩa.
Trên thực tế, những quy định này của Luật Phá sản doanh nghiệp
(1993) đã không hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, ngày 15/06/2004,
Luật phá sản mới được ban hành. Luật này có tên gọi là Luật phá sản năm
2004 (có hiệu lực từ ngày 15/10/2004). Một trong những điểm mới của Luật
phá sản năm 2004 so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 là Luật Phá
sản năm 2004 đã bổ sung những quy định về phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Với 10 điều khoản cụ thể trong luật (từ
Điều 68 đến Điều 77), Luật phá sản 2004 đã tăng cường các biện pháp bảo
toàn tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nhằm tạo khả năng
phục hồi cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.


18

Cùng với sự ra đời của Luật phá sản 2004, các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền cũng ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể :
- Nghị quyết số 03/2005/NQ-TANDTC ngày 28 tháng 04 năm 2005
của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định của Luật phá sản;
- Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC ngày 27 tháng 04 năm 2005
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Thẩm phán
phụ trách tiến hành thủ tục Phá sản;
- Nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 07 năm 2005 về giải
quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp và HTX bị phá sản.
1.2.2. Khái quát về phục hồi doanh nghiệp nhà nước theo pháp
luật Việt Nam
1.2.2.1. Khái quát về doanh nghiệp nhà nước
DNNN là một mô hình kinh tế phổ biến kể cả ở các nước xã hội chủ
nghĩa cũ và các nước tư bản chủ nghĩa, gồm cả một số nước công nghiệp phát
triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức… Hầu hết các DNNN là những doanh nghiệp
có quy mô lớn hoặc rất lớn, hoạt động trong các lĩnh vực chế tạo máy, khai
thác khoáng sản, giao thông vận tải, tài chính và dịch vụ công cộng…
Ở nước ta, Luật DNNN (1995) đã định nghĩa : DNNN là tổ chức kinh
tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh
doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội
do Nhà nước giao.
Những năm qua trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại DNNN đã xuất
hiện nhiều loại hình như : doanh nghiệp cổ phần có cổ phần nhà nước chi phối
(hơn 50%) và cổ phần không chi phối (được chuyển đổi để thành lập theo
Nghị định 44/ NĐ - CP/1998, Nghị định 64/ NĐ- CP/2002 và Nghị định


19

187/ NĐ-CP/2004 về cổ phần hóa DNNN); công ty trách nhiệm hữu hạn 1

thành viên là Nhà nước (được thành lập theo Nghị định 63/NĐ-CP/2001);
DNNN được đem cho thuê, khoán (Theo Nghị định 103/NĐ-CP/2000). Vì
vậy, quan niệm về DNNN nên hiểu là một tổ chức kinh tế do Nhà nước sở
hữu 100% vốn và tạo thành bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước. DNNN
có thể được tổ chức theo mô hình công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà
nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước, tổng công ty nhà nước theo
mô hình công ty mẹ - công ty con, công ty cổ phần - trong đó Nhà nước
chiếm cổ phần chi phối.
Những thay đổi của DNNN trong thực tế đã đưa đến việc sửa đổi, bổ
sung định nghĩa về DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa IX)
và xác định trong Luật DNNN được Quốc Hội Khóa XI, kì họp thứ 4 thông
qua ngày 26/11/2003 là : DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn
bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình
thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 được Quốc hội Khóa XI thông qua tại kì
họp thứ 8 ngày 29 tháng 11 năm 2005 gọi DNNN là doanh nghiệp trong đó
Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ.
Doanh nghiệp nhà nước có những đặc trưng cơ bản như: (1) Vốn đầu tư
kinh doanh do Nhà nước bỏ ra là chủ yếu; Chính phủ là người sở hữu chính (ở
một số nước thì không nhất thiết phải chiếm 51% vốn). Chính phủ còn có
quyền cử hoặc bãi chức người lãnh đạo cao nhất (chủ tịch hoặc giám đốc điều
hành).; (2) Nhà nước là chủ sở hữu có thể dùng nhiều tiêu chí để đánh giá
hiệu quả của DNNN mà không chỉ riêng một tiêu chí lợi nhuận.
Theo mục đích và đặc điểm hoạt động, có 2 loại DNNN là DNNN hoạt
động kinh doanh (phải có lợi nhuận cao) và DNNN hoạt động công ích (chủ


20

yếu hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của

Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh)
Mô hình tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước qua các năm đã có
nhiều cải tiến, nhưng nhiều khiếm khuyết vốn có của nó làm cho cơ chế tạo
động lực cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả bị hạn chế, thiếu
đồng bộ, nổi cộm là cơ chế tài chính còn gò bó lợi ích, trách nhiệm không rõ
ràng. Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của Nhà nước vừa phiền nhiễu
vừa kém hiệu lực, cản trở lớn tinh thần và môi trường kinh doanh, phát huy
tính chủ động của cán bộ công nhân trong doanh nghiệp. Tình trạng tài chính
không trong sạch, thiếu lành mạnh, lao động dôi dư lớn vừa thu nhập bình
quân thấp lại vừa chi phí tiền lương trên một đơn vị sản phẩm quá cao làm
giảm nghiêm trọng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp… các số liệu báo
cáo, hạch toán không phản ánh đúng thực trạng doanh nghiệp. Doanh nghiệp
nhà nước lại luôn ở thế bị động ứng phó với các khoản nợ, bố trí lao động dôi
dư và yêu cầu phải sắp xếp nên không yên tâm tổ chức sản xuất…
Tình trạng trên đã đặt ra yêu cầu đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại doanh
nghiệp nhà nước càng trở nên cấp bách khi nước ta mở cửa thị trường và hội
nhập kinh tế với thế giới
1.2.2.2. Chuyển đổi DNNN và sự cần thiết phải chuyển đổi DNNN
Chuyển đổi DNNN là việc thay đổi hình thức sở hữu vốn, tài sản của
doanh nghiệp và thay đổi cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động sản xuất
kinh doanh của DNNN nhằm tạo ra một cơ chế hoạt động hợp lí hơn, có hiệu
quả kinh tế hơn.
Bản chất của việc chuyển đổi này là chuyển phương thức sở hữu,
phương thức hoạt động cũ không hợp lý, kém hiệu quả, năng suất chật lượng
thấp sang một phương thức mới hợp lí hơn, hiệu quả hơn.


21

Chuyển đổi DNNN có nhiều hình thức khác nhau ở các nước trên thế

giới và Việt Nam. Đó là : Cổ phần hóa DNNN, bán toàn bộ DNNN, giao
DNNN cho tập thể người lao động trong doanh nghiệp…
Những năm qua, việc sắp xếp, chuyển đổi sở hữu DNNN luôn gắn với
đổi mới cơ chế, chính sách nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của DNNN trong mọi lĩnh vực hoạt động, đồng thời dần tiến tới mục tiêu để
các DNNN hoạt động trên cùng một mặt bằng pháp lý với các doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường.
Vấn đề đổi mới, sắp xếp, chuyển đổi DNNN đã được đặt ra cùng với
đường lối đổi mới toàn diện đất nước từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986.
Đại hội đã thực sự mở đầu cho công cuộc đổi mới và phát triển DNNN một
cách cơ bản, mạnh mẽ và toàn diện. Cho đến nay, Nhà nước đã ban hành hệ
thống các văn bản pháp lý tương đối đồng bộ qua các thời kỳ, tạo khung pháp
lý để sắp xếp, đổi mới và phát triển công ty nhà nước.
Quá trình sắp xếp, chuyển đổi sở hữu DNNN trong thời gian qua cho
thấy, đã giảm mạnh các doanh nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ, phát triển những
doanh nghiệp quy mô lớn, tập trung vào những ngành then chốt, tiếp tục giữ
vai trò nòng cốt trông nền kinh tế, công cuộc cổ phần hóa đã và đang thực sự
trở thành bước chuyển mình quan trọng để sắp xếp lại, tạo chuyển biến cơ bản
trong việc nâng cao hiệu quả của DNNN
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, việc sắp xếp, chuyển
đổi DNNN còn gặp nhiều khó khăn và còn những hạn chế : Quy mô DNNN
vẫn chưa lớn, còn nhiều doanh nghiệp hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực
mà Nhà nước không cần chi phối, tỷ lệ nợ trên vốn của doanh nghiệp còn quá
cao, cơ chế quản lý DNNN còn nhiều bất cập, kết quả sản xuất kinh doanh
chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước, vấn đề hậu cổ phần hóa chưa được


×