Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Hợp đồng trong hoạt động thương mại ở việt nam hiện nay những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.51 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ GIANG

HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG THƢƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN PHÁP LÝ

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. HOÀNG THẾ LIÊN

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy
giáo – PGS. TS. Hoàng Thế Liên – Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội –
Thứ trưởng Bộ Tư pháp đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Em cũng
xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ em trong hai năm học, cũng
như thời gian qua để em có thể hoàn thành tốt luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!





1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Một nghiên cứu tại Trường Đại học Luật thuộc Đại học tổng hợp
Virginia - Hoa kỳ cho rằng: trong giai đoạn 1960-1992, sự tăng trưởng kinh
tế của các nước theo hệ thống luật án lệ nhanh hơn và lớn hơn so với các
nước theo hệ thống luật dân sự. Một trong những lý do của sự khác biệt đó
là: pháp luật của các nước theo hệ thống luật án lệ đưa ra những bảo đảm tốt
hơn đối với các quyền tài sản và quyền hợp đồng so với các nước theo hệ
thống pháp luật dân sự (trích từ luận án [21]).
Kết luận này không chỉ đã gây nên sự chú ý của giới luật gia mà con
của cả các nhà quản lý. Có thể kiểm nghiệm kết luận này bằng chính thực
tiễn của Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua. Sự tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam cũng chủ yếu là do Nhà nước đã đưa ra các quy định pháp
luật để bảo vệ quyền tự chủ của doanh nghiệp và tự do hợp đồng. Việc ban
hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Bộ luật Dân sự (1995), Luật
Thương mai (1997), và các luật về các loại hình doanh nghiệp khác nhau,
sau đó là Bộ luật Dân sự (2005), Luật Thương mại (2005), Luật doanh
nghiệp (2005), Luật đầu tư (2005) thay thế các văn bản trên, đã đánh dấu
những bước phát triển quan trọng của pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam nói
chung, pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương mại nói riêng. Các
quy định về hợp đồng đã từng bước được pháp luật mở rộng và bảo vệ. Sau
20 năm đổi mới, hệ thống các văn bản pháp luật về hợp đồng, về cơ bản,
được xây dựng và hoàn thiện theo hướng ngày càng rõ ràng và thống nhất,
bảo đảm quyền về tự do giao kết hợp đồng, góp phần quan trọng vào việc
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng còn
bộc lộ những bất cập, hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa các quy

định của Bộ luật dân sự, Luật thương mại và việc hiểu để áp dụng một cách


2

thống nhất về hợp đồng trong hoạt động thương mại. Việc sử dụng các thuật
ngữ còn nhiều mâu thuẫn, hạn chế trong các văn bản pháp luật chuyên ngành
quy định về các hợp đồng trong những hoạt động thương mại đặc thù so với
các quy định về hợp đồng của Bộ luật Dân sự (2005), nhất là các văn bản
được ban hành trước Bộ luật Dân sự (2005).
Trước sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, trong điều kiện hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, pháp luật về hợp đồng trong lĩnh vực
thương mại của Việt nam cũng bắt đầu bộc lộ những bất cập nhất định và
không theo kịp yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, yêu cầu cần
có sự đổi mới về tư duy trong lập pháp và hành pháp liên quan đến hợp đồng
trong hoạt động thương mại là tất yếu, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc.
Xuất phát từ những lý do trên cùng với mong muốn tìm hiểu sâu hơn
và góp phần hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương mại,
tác giả đã lựa chọn đề tài “Hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt
nam hiện nay, những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý” làm đề tài luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quy định về hợp đồng nói chung và hợp đồng trong hoạt động thương
mại ở nước ta nói riêng là vấn đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau. Trong những năm qua, giới nghiên
cứu khoa học pháp lý đã có một số công trình, bài nghiên cứu liên quan đến
vấn đề này, như: "Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong
pháp luật hợp đồng Việt Nam" của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (2003), "Một
số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi pháp luật Việt Nam về hợp đồng"

(2004) và "Hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm nhìn từ quyền tự do
hợp đồng" của TS. Nguyễn Am Hiểu (2004),“Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa


3

đổi) và vấn đề cải cách pháp luật hợp đồng ở Việt Nam”của PGS.TS Phạm
Hữu Nghị (2005), "Hoàn thiện chế định hợp đồng" của TS Phan Chí Hiếu
(2005), Luận án tiến sĩ "Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả của hợp đồng
kinh tế vô hiệu" của Lê Thị Bích Thọ (2002), Luận án tiến sĩ "Chế độ hợp
đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam giai đoạn hiện nay" của Phạm
Hữu Nghị (1996), “Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư” của
TS. Nguyễn Thị Dung (2009), “Luật hợp đồng Việt Nam – bản án và bình
luận bản án” của TS. Đỗ Văn Đại (2009). Đề tài này cũng thu hút được sự
quan tâm chú ý của các tổ chức nghề nghiệp (như Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam), các tổ chức và định chế quốc tế tại Việt Nam, như:
Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Châu Á, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Dự án Star
Việt Nam… Các tổ chức này cũng đã có một số nghiên cứu về lĩnh vực này.
Trong những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã tập trung luận
giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh yêu cầu xây dựng và
hoàn thiện pháp luật hợp đồng của Việt Nam. Tuy nhiên, do mục đích
nghiên cứu của các công trình đặt ra khác nhau, nên các công trình này đã
nghiên cứu và giải quyết nhiều khía cạnh khác nhau đề cập đến thực trạng
pháp luật về hợp đồng của Việt Nam nhìn từ góc độ bảo đảm quyền tự do
khế ước. Qua đó, các công trình chỉ ra một số hạn chế, bất cập nhằm đưa ra
các giải pháp hoàn thiện cụ thể về hợp đồng nói chung như: hiệu lực của hợp
đồng; quyền tự do hợp đồng… Trên cơ sở kế thừa và phát triển các kết quả
nghiên cứu đó rất cần có sự nghiên cứu tiếp tục về những vấn đề lý luận và
thực tiễn về hợp đồng trong hoạt động thương mại, nhằm đưa ra cơ sở khoa
học, phương hướng, giải pháp việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong

hoạt động thương mại ở Việt Nam trong điều kiện mới.


4

Với luận văn này tác giả có tham vọng nghiên cứu một cách đầy đủ,
sâu sắc hơn về hợp đồng trong hoạt động thương mại theo pháp luật Việt
Nam và đưa ra những phương hướng, giải pháp để hoàn thiện.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: một số học thuyết, quan điểm
luật học cơ bản về hợp đồng và pháp luật về hợp đồng trong hoạt động
thương mại; pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế và pháp luật của Việt
Nam về hợp đồng trong hoạt động thương mại; thực tiễn xây dựng và áp dụng
pháp luật hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam trong điều kiện
mới.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Pháp luật về hợp đồng trong hoạt
động thương mại là một lĩnh vực pháp luật có nội dung rất rộng và phức tạp,
không chỉ bao gồm các giao dịch thương mại nhằm cung cấp hay trao đổi
hàng hoá, dịch vụ, mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế khác (như:
đầu tư, ngân hàng, chứng khoán, hàng hải, hàng không, sở hữu trí tuệ, xây
dựng...). Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những vấn đề lý luận cơ
bản về pháp luật hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Khi
phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng thương mại ở Việt Nam, tác giả
giới hạn phạm vi đánh giá các quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp
dụng các quy định đó trong giao kết, thực hiện hợp đồng trong hoạt động
thương mại qua đó làm rõ mặt được, mặt còn hạn chế, bất cập của pháp luật.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả luận án sử dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin và các quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về phát trển nền kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa.


5

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như:
phương pháp tổng hợp, phân tích, phương pháp thống kê để đánh giá thực trạng
thực thi pháp luật hợp đồng; phương pháp so sánh luật học để thấy được sự
khác biệt của pháp luật các quốc gia, qua các thời kỳ so với pháp luật các nước
cũng như thông lệ quốc tế về hợp đồng trong hoạt động thương mại từ đó hiểu
vấn đề sâu hơn.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và đánh giá mặt được và mặt còn hạn chế bất cập của pháp luật nước ta
về hợp đồng trong hoạt động thương mại. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất
các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng, góp phần
vào việc đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ
sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng trong hoạt động
thương mại; vai trò, ý nghĩa của việc quy định về hợp đồng trong hoạt động
thương mại.
- Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng trong
hoạt động thương mại. Đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của pháp
luật Việt Nam hiện hành trong việc quy định về hợp đồng trong hoạt động
thương mại.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và những giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt
Nam.

6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận án có những đóng góp mới sau:


6

- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về hợp
đồng trong hoạt động thương mại; mối quan hệ giữa Bộ luật Dân sự với Luật
Thương mại và các văn bản pháp luật chuyên ngành trong việc điều chỉnh quan
hệ hợp đồng trong hoạt động thương mại; trên cơ sở đó xây dựng nguyên tắc áp
dụng pháp luật nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp luật.
- Xác định các yếu tố chi phối pháp luật về hợp đồng trong hoạt động
thương mại.
- Xác định vai trò và sự tác động của Nhà nước đối với các quy định
về hợp đồng trong hoạt động thương mại và tác động của nó tới sự phát triển
kinh tế - xã hội.
- Đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp luật điều chỉnh các quan
hệ hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Trên cơ sở chỉ ra những
điểm bất cập, hạn chế, luận văn khẳng định sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện
quy định pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam.
- Trên cơ sở nghiên cứu xu hướng phát triển và thực tiễn áp dụng
pháp luật hợp đồng ở một số nước và ở Việt Nam, luận văn đề xuất những
phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng trong hoạt
động thương mại ở Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng trong hoạt động thương
mại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thương

mại ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng
trong hoạt động thương mại ở Việt Nam.


7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT
ĐỘNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.1.

Một số vấn đề lý luận về hoạt động thƣơng mại

1.1.1. Quan niệm về hoạt động thƣơng mại

Hoạt động thương mại ra đời và phát triển sớm trong lịch sử xã hội
loài người trên cơ sở sự phân công lao động. Hoạt động thương mại gắn liền
với nền sản xuất hàng hóa. Cùng với những hoạt động thương mại trên thị
trường xuất hiện một tầng lớp người lấy việc mua đi bán lại các sản phẩm
hàng hóa để kiếm lời làm hoạt động chuyên nghiệp của mình, đó là tầng lớp
thương nhân.
Thương mại theo tiếng Anh là “Commerce”, có nghĩa là buôn bán. Ở
nước ta, theo cách hiểu phổ thông, thương mại được hiểu là hoạt động trao
đổi, chuyển giao hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở thuận mua vừa bán.
Theo Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003: “Hoạt
động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá
nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ;
phân phối; đại diện, đại lý thương mại; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng;
tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; thăm dò,

khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách là các hành vi thương mại theo
quy định của pháp luật ”.
Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 (Sau đây viết tắt là LTM 2005)
quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì khái niệm hành vi
thương mại được xem xét tương ứng với khái niệm hoạt động thương mại


8

(tổ hợp các hành vi thương mại) cụ thể, như: mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư,… vì mục đích sinh lời. [10, tr 26-61].
1.1.2. Đặc điểm hành vi thƣơng mại
Đặc điểm của hành vi thương mại được xem xét trong mối quan hệ
với hành vi dân sự, nghĩa là ở đây tập trung giải quyết tính chất của hành vi
thương mại và hành vi dân sự để làm sáng tỏ nhũng điểm chung và nét riêng
biệt của hai loại hành vi này.
Theo GS. TSKH Đào Trí Úc: “Hành vi thương mại là một biểu hiện
của hành vi pháp lý dân sự, phải là đối tượng điều chỉnh của Bộ luật dân sự
2005 (BLDS 2005) và LTM 2005” [8, tr 20]
Mối quan hệ giữa hành vi thương mại và hành vi dân sự được nhìn
nhận trong mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng. Trong đó,
hành vi dân sự là cái chung và hành vi thương mại là cái riêng. Đặc điểm
khác cơ bản của hành vi thương mại và hành vi dân sự đó là:
Thứ nhất, hành vi thương mại khác hành vi dân sự về thời điểm xuất
hiện và tính ổn định.
Về mặt lịch sử thì hành vi dân sự ra đời sớm hơn hành vi thương mại.
Hành vi dân sự liên quan đến trao đổi sản phẩm, ra đời khi xã hội xuất hiện

sản phẩm dư thừa và con người có nhu cầu trao đổi hàng hóa để thỏa mãn
nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng. Hành vi thương mại xuất hiện muộn hơn khi xã
hội đã có sự phân công lao động đạt đến trình độ nhất định và xuất hiện tầng
lớp người chọn hình thức chuyên mua đi bán lại hàng hóa với mục đích
kiếm lời làm nghề nghiệp của mình.
Hành vi dân sự mang tính ổn định hơn hành vi thương mại. Bởi lẽ, các
quan hệ dân sự ít chịu tác động hơn của các biến động kinh tế - chính trị - xã
hội so với các quan hệ thương mại. Bằng chứng là nhiều chế định, nguyên
tắc về sở hữu, thừa kế, hôn nhân, hợp đồng… xuất hiện từ khởi thủy của luật


9

dân sự đến nay đã trở thành những giá trị phổ biến được nhiều quốc gia kế
thừa và phát triển. Trong khi đó, quan hệ thương mại lại chịu ảnh hưởng của
thực tế đời sống kinh tế - chính trị - xã hội nhiều hơn, do đó cách ứng xử của
các chủ thể trong hoạt động thương mại phải thay đổi thường xuyên cho phù
hợp với sự thay đổi của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Hay nói một
cách khác, hoạt động thương mại phải năng động mới có thể phù hợp với
thương trường và mới thành công trong sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Thứ hai, hành vi thương mại được thực hiện trên thị trường và nhằm
mục đích sinh lợi.
Theo PGS. TS Đỗ Đình Toàn thì “Thương mại phải gắn với thị
trường, thị trường và thương mại đi liền với nhau như hình với bóng” [9, tr
16]. Thương mại phải diễn ra trên thị trường vì mua bán được xem là khâu
quan trọng nhất của hoạt động thương mại. Tuy nhiên, thị trường nơi diễn ra
các hành vi thương mại phải được hiểu là thị trường hợp pháp, nơi nhà nước
bảo hộ cho các hành vi thương mại.
Hành vi thương mại diễn ra trên thị trường phải tuân theo các quy luật
của thị trường như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị…

và các quy luật riêng của hoạt động thương mại như: quy luật về ý chí tiến
thủ của doanh nghiệp, quy luật của người mua. Chẳng hạn, dưới sự tác động
của quy luật của người mua thì các chủ thể thương mại sẽ phải bán ra thị
trường cái mà người mua cần chứ không phải bán cái mình có, đặc biệt là
phải có chế độ hậu mãi sau khi bán hàng để đảm bảo chữ tín trong thương
mại và giúp cho sự nghiệp thương mại của thương nhân phát triển lâu dài.
Điều này ít thấy ở các giao dịch dân sự nơi thường diễn ra việc mua bán theo
hình thức “mua đứt, bán đoạn”.
Hành vi thương mại được thực hiện vì mục đích kiếm lời, đây là điểm
khác biệt mà dựa vào đó để phân biệt hành vi dân sự và hành vi thương mại.


10

Hành vi được thực hiện để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng - đó là hành vi dân
sự, hành vi nhằm mục đích sinh lời đó là hành vi thương mại. Điều đó có
nghĩa là ở hành vi dân sự chủ thể hướng tới giá trị sử dụng của hàng hóa còn
ở hành vi thương mại chủ thể thương mại hướng đến giá trị thặng dư của
hàng hóa.
Thứ ba, hành vi thương mại là hành vi mang tính chất nghề nghiệp,
được thương nhân thực hiện.
Hoạt động thương mại xuất hiện trong lịch sử xã hội loài người sau
khi có sự phân công lao động xã hội xuất hiện. Một nhóm người chuyên
đứng ra thực hiện việc mua đi bán lại hàng hóa nhằm mục đích sinh lời được
gọi là các thương nhân. Khoản 1 Điều 6 LTM 2005 quy định: “Thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Hành vi
của các chủ thể được thực hiện thường xuyên, liên tục thể hiện tình chuyên
nghiệp cao và mang lại thu nhập cho chính chủ thể tiến hành hành vi [10].
1.1.3. Phân loại hành vi thƣơng mại

Việc phân loại hành vi thương mại có thể thực hiện trên các tiêu chí
khác nhau. Dựa vào tính chất của hành vi và chủ thể thực hiện có thể phân
loại hành vi thương mại thành:
- Hành vi thương mại thuần túy: là hành vi có tính chất thương mại vì
bản chất của hành vi thuộc về công việc buôn bán hoặc hình thức của nó
được pháp luật coi là tiêu biểu cho hành vi thương mại. Chẳng hạn, hành vi
mua đi bán lại hàng hóa để kiếm lời là một hành vi thương mại thuần túy, vì
bản chất của nó là buôn bán vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
- Hành vi thương mại phụ thuộc: là hành vi có bản chất dân sự, được
thương nhân thực hiện theo nhu cầu của nghề nghiệp hay nhân lúc hành
nghề. Hành vi có bản chất dân sự được coi là hành vi thương mại phải thỏa


11

mãn hai yếu tố: do thương nhân thực hiện và hành vi đó được thương nhân
thực hiện khi hành nghề hoặc do nhu cầu nghề nghiệp. Chẳng hạn, trong quá
trình kinh doanh các thương nhân mua thiết bị, phương tiện phục vụ cho
công việc của mình.
- Hành vi thương mại hỗn hợp: là hành vi thương mại đối với một bên
thương nhân nhưng là hành vi dân sự đối với bên kia (cá nhân không có tư
cách thương nhân). Ví dụ, quan hệ mua bán hàng hóa giữa thương nhân A
với cá nhân B.
Ngoài ra, dựa vào lĩnh vực phát sinh hay đối tượng của hành vi
thương mại cũng có thể phân hành vi thương mại thành các nhóm: nhóm
hành vi thương mại hàng hóa, nhóm hành vi thương mại dịch vụ, nhóm hành
vi thương mại trong lĩnh vực đầu tư và nhóm hành vi thương mại trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ.
1.1.4. Thƣơng nhân – chủ thể của hoạt động thƣơng mại
LTM 2005 được coi là luật của các thương nhân, do đó khái niệm về

thương nhân luôn được xác định trong pháp luật thương mại của các nước
nói chung và Việt nam nói riêng.
Theo pháp luật của Cộng hòa Pháp khái niệm đầy đủ về thương nhân
được hiểu là: những người có năng lực hành vi thương mại, thực hiện hành
vi thương mại một cách độc lập, mang danh nghĩa chính mình, vì lợi ích của
mình và lấy đó làm nghề nghiệp thường xuyên.
Pháp luật Đức ghi nhận về thương gia (ở đây khái niệm thương gia
được hiểu đồng nghĩa với thương nhân) phức tạp hơn. Họ phân chia thương
gia thành: thương gia đương nhiên, thương gia do đăng ký, thương gia do
hình thức pháp lý, thương gia nhỏ và thương gia giả tạo.


12

Khoản 1 Điều 6 LTM 2005 của Việt Nam quy định: “Thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.
Theo quy định này, thương nhân phải có những dấu hiệu sau:
- Phải hoạt động thương mại: Thương nhân là chủ thể của hành vi
thương mại, đây là một đặc điểm không tách rời của thương nhân và là tiêu
chí để phân biệt thương nhân với các chủ thể khác không phải là thương
nhân.
- Phải thực hiện hành vi thương mại độc lập, mang danh nghĩa chính
mình và vì lợi ích của bản thân mình. Đây là dấu hiệu để xác định chủ thể
tham gia vào hoạt động thương mại có phải là thương nhân hay không. Điều
đó được hiểu là thương nhân thực hiện hành vi thương mại một cách tự thân,
nhân danh mình, vì lợi ích của bản thân mình và tự chịu trách nhiệm về việc
thực hiện hành vi thương mại đó. Việc nhân danh chính mình thực hiện hoạt
động thương mại của thương nhân xuất phát từ quyền độc lập kinh doanh
của họ.

- Hoạt động thương mại mang tính nghề nghiệp thường xuyên. Có
nghĩa là các chủ thể phải thực hiện hành vi thương mại một cách thưc tế, lặp
đi, lặp lại, liên tục và mang tính nghề nghiệp.
- Phải có đăng ký kinh doanh. Việc đăng ký kinh doanh vừa có thể
được xem là một đặc điểm của thương nhân và vừa là một yêu cầu bắt buộc
đối với cá nhân, tổ chức muốn trở thành thương nhân [10].
1.2.

Những vấn đề lý luận về hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại

1.2.1. Quan niệm chung về hợp đồng:
Với quan niệm tin nhau là chính, đôi khi doanh nhân Việt nam chưa
để tâm soạn thảo, giao kết và lưu giữ các hợp đồng một cách bài bản. Trong
thế giới buôn bán cởi mở và năng động ngày nay, “yêu nhau rào giậu cho


13

chặt”, bạn hàng cần thỏa thuận hợp đồng chặt chẽ, phân tích cụ thể quyền,
nghĩa vụ và cách ứng xử của các bên. Đó cũng là cách giữ gìn niềm tin lâu
dài trong quan hệ làm ăn. Quy mô hợp tác ngày càng lớn với sự tham gia của
ngày càng nhiều đối tác mới càng làm xuất hiện nhiều rủi ro; hợp đồng giúp
doanh nhân tiên liệu, kiểm soát và quản lý được rủi ro. Hợp đồng đôi khi chỉ
là một cuộc điện thoai diễn ra trong giây lát, một đơn đặt hàng vắn tắt, vài
trang giấy thỏa thuận sơ sài, song tùy theo từng thương vu, hợp đồng cũng
có thể là kết quả đàm phán phức tạp gồm hàng trăm trang văn bản được tư
vấn bởi luật sư, tư vấn thuế và những người khác.
Trong cuộc sống hàng ngày mỗi người phải tham gia nhiều mối quan
hệ xã hội khác nhau. Việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để qua
đó chuyển giao các lợi ích vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu

dùng và hoạt động nghề nghiệp đóng một vai trò quan trọng, là tất yếu của
đời sống xã hội. C.Mác viết: “Tự chúng, hàng hóa không thể đi tới thị
trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó quan hệ với nhau
như những hàng hóa thì người giữ hàng hóa đó phải đối xử với nhau như
những người mà ý chí nằm trong các vật đó… mối quan hệ ý chí đó, mà hình
thức của nó là bản giao kèo dù có được củng cố thêm bằng pháp luật hay
không cũng vậy – là một quan hệ ý chí phản ánh mối quan hệ kinh tế”.
Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp 1804 được coi là bộ luật kinh điển
nhất về pháp luật dân sự. Điều 1011 BLDS Pháp 1804 quy định “Hợp đồng
là sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay
không làm một công việc”. Theo quy định này, hợp đồng là hành vi pháp lý,
là sự thỏa thuận – thống nhất ý chí của các bên làm phát sinh quyền nghĩa vụ
của các bên đối với nhau.
Khái niệm về khế ước (hợp đồng) đã xuất hiện trong các Bộ Luật
Giản yếu Nam Kỳ 1883, Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931, Bộ Dân Luật Trung


14

Kỳ năm 1936. Nó đánh dấu sự hình thành chính thức những khái niệm đầu
tiên về hợp đồng trong lịch sử lập pháp của Việt Nam.
Trong bối cảnh Việt Nam xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, Nhà nước đã ban hành hai pháp lệnh: Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
1989 và Pháp lệnh Hợp đồng dân sự 1991. Tuy được ban hành sau thời kỳ
đổi mới theo Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nhưng thực ra
khái niệm về Hợp đồng dân sự và Hợp đồng kinh tế về cơ bản không có gì
mới hơn so với quan niệm phổ biến về hợp đồng trước đó, vẫn bị ảnh hưởng
nặng nề bởi tư tưởng kế hoạch hóa.
Khi BLDS 1995 có hiệu lực thi hành với phạm vi điều chỉnh bao trùm
các lĩnh vực của đời sống xã hội như dân sự, kinh doanh thương mại, lao

động… thì khái niệm về hợp đồng của Việt Nam đã tiến gần đến quan điểm
của các nước trong cách nhìn nhận về hợp đồng. Điều này tiếp tục được kế
thừa tại Điều 388 BLDS 2005: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Cách nhìn
nhận về hợp đồng của Việt Nam phù hợp với quy định của các nước về hợp
đồng tức là nhấn mạnh vào đặc điểm cơ bản của hợp đồng là sự thỏa thuận,
thống nhất ý chí giữa các bên và dẫn đến hệ quả pháp lý là có thể làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên đối với nhau. Quy
định về hợp đồng trong BLDS 2005 đồng thời là quy định các nguyên tắc
chung cho các loại hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự, kinh tế,
thương mại, lao động.
Với tư cách là sự kiện pháp lý, là giao dịch dân sự, hợp đồng bao hàm
hai yếu tố: sự thỏa thuận và mục đích tạo lập hiệu lực pháp lý.
Hợp đồng chỉ được thiết lập khi có sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều
bên tức là khi có sự đồng thuận của các ý định hay là sự gặp nhau về mặt ý
tưởng giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý. Nhưng hợp đồng chỉ


15

được hình thành khi sự thỏa thuận giữa các bên phải có mục đích tạo lập hệ
quả pháp lý – làm phát sinh quyền và nghĩa vụ. Điều này có nghĩa là không
phải mọi thỏa thuận đều là hợp đồng. Đây cũng là quan niệm chung của
nhiều nước trên thế giới về dấu hiệu bắt buộc của hợp đồng, đặc biệt là các
nước theo hệ thống pháp luật Châu âu lục địa (Civil law).
Khi xem xét hợp đồng dưới góc độ của sự kiện pháp lý – giao dịch
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ cần nhìn nhận rằng
đây là kết quả kết hợp giữa sự thỏa thuận các bên với những quy định của
pháp luật. Điều đó có nghĩa rằng những thỏa thuận của các bên phải phù hợp
với các quy định của pháp luật, không vi phạm điều cấm của pháp luật.

1.2.2. Quan niệm về hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại
Ở Việt Nam, khoa học pháp lý và pháp luật thực định đã sử dụng
nhiều khái niệm pháp lý để chỉ hợp đồng trong hoạt động kinh doanh như:
hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh doanh, hợp đồng thương mại… Pháp luật
hiện hành không đưa ra định nghĩa về hợp đồng trong hoạt động thương mại
mà chỉ quy định khái niệm chung về hợp đồng dân sự. Theo Điều 388 Bộ
luật dân sự năm 2005, hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Với phạm vi áp
dựng của Bộ luật dân sự năm 2005, các quy định về hợp đồng dân sự được
áp dụng cho hợp đồng nói chung (trong các lĩnh vực dân sự, lao động,
thương mại…). Quyền và nghĩa vụ dân sự theo hợp đồng dân sự được hiểu
bao gồm cả các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ kinh doanh,
thương mại. Khái niệm hợp đồng dân sự trong Bộ luật dân sự được xem là
khái niệm chung về hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng trong lĩnh vực thương
mại, đầu tư kinh doanh [17]. Không phải ngẫu nhiên mà trong quá trình xây
dựng Bộ luật dân sự 2005 các nhà tài trợ và chuyên gia quốc tế kiến nghị và
tranh luận quyết liệt với Bộ tư pháp Việt Nam là nên bỏ cụm từ “dân sự” sau


16

cụm từ “hợp đồng” (không quy định hợp đồng dân sự). Bởi vì, theo họ trong
quan hệ tư (tư pháp) hợp đồng là hợp đồng không nên có sự phân biệt các
hợp đồng khác nhau. Hơn nữa, theo quan điểm chỉ đạo xây dựng Bộ luật dân
sự 2005 thì phải xây dựng BLDS như là Bộ luật chung cho các hoạt động
dân sự, thương mại, kinh doanh… Trên cơ sở các quy định mang tính
nguyên tắc của BLDS, có thể xây dựng, ban hành các quy định riêng về hợp
đồng trong hoạt động kinh doanh, thương mại nhưng phải bảo đảm thống
nhất với các quy định của BLDS. Trường hợp không có quy định riêng thì
áp dụng các quy định của BLDS.

Tuy nhiên, Luật thương mại đã ra đời là sự kế thừa và phát triển của
luật kinh tế trước đây. Hiện nay, Luật thương mại được hiểu là tổng thể các
quy phạm do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động thương mại giữa
các thương nhân với nhau và với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sự ra
đời của Luật thương mại để điểu chỉnh các hành vi thương mại và xác định
quy chế của thương nhân xuất phát từ những lý do cơ bản sau: Thứ nhất, về
khách quan, trong xã hội ra đời một tầng lớp thương nhân chuyên thực hiện
các hành vi thương mại làm nghề nghiệp chính của mình (có tính chuyên
nghiệp) tự quy định các thông lệ cho riêng mình (các tập quán thương mại).
Sau đó, đã làm nảy sinh nhu cầu ban hành các quy định pháp luật xác định
quy chế thương nhân và điều chỉnh các hoạt động thương mại, bao gồm các
vấn đề như: đăng ký doanh nghiệp, nộp thuế, thực hiện các hoạt động
thương mại, ký kết hợp đồng… Thứ hai, về chủ quan, việc thực hiện các
hành vi thương mại trong hoạt động kinh doanh, thương nhân có những đòi
hỏi đặc thù, đó là tính nhanh chóng, linh hoạt, đơn giản, bảo đảm tối đa
quyền tự do kinh doanh của các chủ thể mà các quy định pháp luật dân sự
không đáp ứng được. Do đó, cần có những quy định đáp ứng những yêu cầu


17

đó. Ngoài ra, các hành vi thương mại là các hành vi có mục đích kinh doanh
kiếm lời, có chứa đựng yếu tố rủi ro, cho nên thường xuyên có xu hướng gây
ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội, quyền lợi của người thứ ba. Do vậy, pháp
luật thương mại cũng cần có những quy định để bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng và các đối tượng khách hàng khác, bảo đảm trật tự công cộng [10,
tr 5-11].
Từ sự phân tích khái niệm hoạt động thương mại và cách hiểu về hợp
đồng như đã phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng hợp đồng trong hoạt động

thương mại là sự thỏa thuận giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa
thương nhân với một bên không phải là thương nhân trong việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương
mại.
Qua nghiên cứu cho thấy, pháp luật điều chỉnh hợp đồng trong hoạt
động thương mại bị chi phối bởi hai nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, về nội dung đặc thù: Xuất phát từ các đặc trưng của hoạt
động thương mại như: chủ thể của hợp đồng là thương nhân (hoặc ít nhất
một bên là thương nhân); mục đích của hợp đồng của các thương nhân là tìm
kiếm lợi nhuận; hợp đồng trong hoạt động thương mại có tính lặp đi lặp lại
do được thực hiện bởi các thương nhân chuyên nghiệp thực hiện các hoạt
động thương mại như nghề nghiệp của mình; hợp đồng trong hoạt động
thương mại có khả năng gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước và tác động không nhỏ đến lợi ích của người thứ ba.
Các đặc điểm trên đòi hỏi pháp luật điều chỉnh hợp đồng thương mại
phải có những quy định đặc thù để đáp ứng các quy định liên quan đến các
vấn đề như: Hình thức hợp đồng trong hoạt động thương mại phải linh hoạt;
quy định về nội dung của hợp đồng trong hoạt động thương mại không được
cứng nhắc; do trong hoạt động thương mại, các thương nhân chủ yếu là bên


18

bán hàng hóa, dịch vụ có thế mạnh hơn trong quan hệ hợp đồng, nên pháp
luật hợp đồng cần quy định cho họ nhiều nghĩa vụ đối với hoạt động cung
cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ như: nghĩa vụ cung cấp thông tin về hàng
hóa, dịch vụ; giải thích cho khách hàng về đặc điểm, cách sử dụng hàng hóa,
dịch vụ; nghĩa vụ bảo hành, bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ…
Thứ hai, về phạm vi: so với hợp đồng dân sự được ký kết trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, hợp đồng trong hoạt động thương mại có

phạm vi hẹp hơn vì hoạt động thương mại của thương nhân được giới hạn rất
cụ thể trong Luật thương mại 2005. Theo pháp luật của hầu hết các nước,
cụm từ “dân sự” trong khái niệm “hợp đồng dân sự” bao gồm tất cả các lĩnh
vực thuộc về luật tư (dân sự, thương mại, lao động…). Như vậy, khái niệm
hợp đồng dân sự bao gồm cả hợp đồng trong hoạt động thương mại. Điều
này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật
điều chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung và hợp đồng trong hoạt động
thương mại nói riêng; đồng thời cũng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
áp dụng pháp luật về hợp đồng. Theo đó, pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp
đồng được coi là luật chung, còn pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng
trong hoạt động thương mại được coi là luật chuyên ngành. Đặt trong mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng (chuyên ngành) thì hợp đồng dân sự là
cái chung, còn hợp đồng trong hoạt động thương mại là cái riêng [21].
Hợp đồng trong hoạt động thương mại và hợp đồng dân sự trong pháp
luật Việt Nam có nguồn gốc ảnh hưởng của khoa học pháp lý Xô viết. Nhìn
chung, các nước có nền kinh tế thị trường phát triển không có sự phân biệt
rạch ròi giữa hợp đồng dân sự với hợp đồng kinh tế (hay hợp đồng kinh
doanh, hợp đồng trong hoạt động thương mại). Các nước theo truyền thống
thông luật (Common Law) như Anh, Mỹ, Ôxtraylia và nhiều nước châu âu
như Hà lan, Thụy Sỹ, Italia không phân biệt giao dịch thương mại và giao


19

dịch dân sự. Hợp đồng được ký kết giữa các công ty hay các cá nhân đều có
chung nguồn điều chỉnh là các văn bản pháp luật, án lệ, tập quán thương
mại. Các nước theo truyền thống luật dân sự có sự phân biệt giao dịch
thương mại và giao dịch dân sự nhưng chỉ coi hành vi thương mại là một
dạng đặc biệt của hành vi dân sự, song sự phân biệt này chỉ dẫn đến hệ quả
là giao dịch trong hoạt động thương mại sẽ ưu tiên áp dụng pháp luật thương

mại, trường hợp pháp luật thương mại không quy định sẽ áp dụng quy định
của pháp luật dân sự [24].
Việc nghiên cứu các đặc điểm của hợp đồng trong hoạt động thương
mại so với hợp đồng dân sự nói chung mang tính tương đối, nhưng lại mang
ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật về hợp đồng.
Khi nghiên cứu về vấn đề này, PGS.TS Dương Đăng Huệ đã nhận xét (trích
lại từ luận án): “Trên thế giới, ở những nước theo hệ thông luật châu Âu lục
địa, thông thường người ta cũng có sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và
hợp đồng thương mại, theo đó, hợp đồng dân sự là gốc, còn hợp đồng
thương mại là hợp đồng chuyên biệt. Trên quan điểm như vậy, trong mối
quan hệ với pháp luật về hợp đồng thương mại thì pháp luật về hợp đồng
dân sự là pháp luật có tính chất cơ bản, chung nhất, là nền tảng, còn pháp
luật về hợp đồng thương mại là bộ phận pháp luật có tính chất chuyên
ngành, là sự quy định cụ thể các nguyên tắc của việc ký kết và thực hiện hợp
đồng trong một lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các
thương nhân [21];
Mối quan hệ giữa quy định về hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự và các
quy định về hợp đồng trong hoạt động thương mại được xác định là mối
quan hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành. Nguyên tắc này dẫn đến một
hệ quả quan trọng trong việc áp dụng pháp luật là: pháp luật về hợp đồng
trong hoạt động thương mại, với tư cách luật chuyên ngành, sẽ được ưu tiên


20

áp dụng trước để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong hoạt động thương mại,
so với pháp luật hợp đồng dân sự với tư cách là luật chung. Trong trường
hợp pháp luật chuyên ngành không quy định thì sẽ áp dụng quy định của luật
chung.
Luật thương mại Việt nam 2005 đã sử dụng rất nhiều thuật ngữ “hợp

đồng” theo nghĩa là thỏa thuận giữa các thương nhân về việc thực hiện các
hành vi thương mại nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận, còn gọi là mục đích
thương mại. Có thể tìm thấy rất nhiều thuật ngữ này, đặc biệt dưới dạng các
hợp đồng cụ thể, như: hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng đại lý, hợp
đồng môi giới. Khái niệm hợp đồng trong luật thương mại được hiểu là hợp
đồng trong hoạt động thương mại. Do vậy, trong bản luận văn này, chúng tôi
sử dụng khái niệm “hợp đồng trong hoạt động thương mại” là khái niệm
chung để chỉ các loại hợp đồng do Luật thương mại 2005 là luật chuyên
ngành và BLDS 2005 điều chỉnh.
1.3. Pháp luật về hợp đồng trong hoạt động thƣơng mại
Một thực tế không thể phủ nhận đó là ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều
tồn tại những giao dịch tài sản giữa những chủ thể khác nhau trong xã hội,
nhằm thỏa mãn những nhu cầu rất đa dạng của các chủ thể đó. Nhưng việc
quan niệm về những giao dịch đó lại khác nhau ở mỗi quốc gia khác nhau,
do đó sự điều chỉnh khác nhau trong pháp luật các nước cũng là tất yếu. Có
những nước chia các giao dịch tài sản thành giao dịch dân sự và giao dịch
thương mại, nhưng cũng có những nước, sự phân biệt này rất mờ nhạt thậm
chí không đặt ra. Lại có những nước từ xa xưa đã khắc họa ranh giới rất rõ
nét giữa giao dịch dân sự và giao dịch kinh doanh dựa vào mục đích hay chủ
thể tham gia, nhưng ngày nay lại đang xóa dần những ranh giới đó và đi đến
sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi
sẽ xem xét các nhóm nước đại diện cho từng xu hướng đó.


21

(i)

Các nước theo hệ thống pháp luật thông lệ Common Law, như: Anh,


Mỹ, Hà lan… Những nước này có truyền thống là không phân biệt luật dân
sự và luật thương mại, bởi họ coi đó là nguồn gốc của những rắc rối không
cần thiết. Do đó, dễ nhận thấy trong pháp luật của những nước này không
tồn tại khái niệm thương nhân và hành vi thương mại. Về sau, do nhu cầu
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động thương mại, truyền thống
này bị phá vỡ dần, một số nước bắt đầu ban hành các luật lệ về thương mại
dưới hình thức đạo luật hay bộ luật. Những đạo luật này thường được xem
như luật bổ sung của Bộ luật dân sự, chúng chỉ đề cập đến những quy định
riêng về các chủ thể kinh doanh và một số loại giao dịch đặc thù trong
thương mại mà những quy định chung của Bộ luật dân sự không bao quát
hết. Chẳng hạn, Hoa kỳ có Bộ luật thương mại thống nhất năm 1958, bộ luật
này chỉ quy định một số vấn đề riêng liên quan đến thương nhân và các giao
dịch thương mại và nó chỉ là một trong số rất nhiều luật liên quan đến các
chủ thể kinh doanh; Anh có Luật bán hàng năm 1893 và được sửa đổi gần
như hoàn toàn vào năm 1980, luật này quy định về một số nghĩa vụ của
người bán hàng trong các giao dịch mua bán hàng hóa; Thụy sĩ có Luật
nghĩa vụ năm 1883 được sửa đổi căn bản vào năm 1911, Luật này được xem
như là quyển thứ V của Bộ Luật dân sự, trong đó có nhiều quy định về mua
bán thương mại; I-ta-li-a có Bộ Luật dân sự năm 1942 cũng có nhiều quy
định về các hợp đồng được giao kết phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
Về hợp đồng và luật về hợp đồng, ở những nước này cũng không có
sự phân biệt rõ rệt giữa hợp đồng trong hoạt động thương mại và hợp đồng
dân sự. Hợp đồng dù được giao kết giữa các công ty thương mại với nhau
nhằm mục đích kinh doanh hay giữa các công dân với nhau nhằm mục đích
thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng đều được xem như những giao dịch
tài sản, được xác lập trên cơ sở tự do ý chí, vì vậy phải tuân theo những


×