Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Luật trọng tài thương mại năm 2010 bước phát triển mới của pháp luật trọng tài thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.52 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI NĂM 2010 - BƢỚC
PHÁT TRIỂN MỚI CỦA PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến các Thầy giáo,
Cô giáo trong Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Sau đại học, Khoa pháp
luật Kinh tế, các phòng ban, thư viện trong và ngoài trường đã tạo điều
kiện cho em trong suốt quá trình làm luận văn.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo PGS. TS Nguyễn Viết Tý đã tận tình động viên, hướng dẫn và giúp đỡ em
hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Hạnh



MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1
CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

5
5

1.1.1. Khái niệm trọng tài thƣơng mại

5

1.1.2. Đặc điểm của Trọng tài thƣơng mại

6

1.1.3. Các hình thức trọng tài thƣơng mại

9

1.1.4. Ƣu điểm và nhƣợc điểm của tố tụng trọng tài thƣơng mại

11


1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG

17

1.2.1. Lƣợc sử hình thành và phát triển của trọng tài thƣơng mại và
pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam

17

1.2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng tới sự phát triển của Trọng tài và Pháp
luật Trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam

23

MẠI Ở VIỆT NAM

CHƢƠNG 2
BƢỚC PHÁT TRIỂN TRONG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TRỌNG
TÀI THƢƠNG MẠI NĂM 2010 VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
2.1. ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM
QUYỀN, HÌNH THỨC, NGUYÊN TẮC VÀ ĐIỀU KIỆN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

30

30

2.1.1. Thẩm quyền của Trọng tài Thƣơng mại


30

2.1.2. Hình thức tố tụng trọng tài

35

2.1.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại

37

2.1.4. Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thƣơng mại

38


2.2. ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH

44

2.2.1. Về khởi kiện, thụ lý, bản tự bảo vệ và quyền kiện lại của bị đơn

44

2.2.2. Thành lập Hội đồng Trọng tài

45

2.2.3. Chuẩn bị xét xử của Hội đồng trọng tài


48

2.2.4. Phiên họp giải quyết tranh chấp của HĐTT

54

2.2.5. Phán quyết trọng tài

56

2.2.6. Về thi hành và hủy Phán quyết của Trọng tài thƣơng mại

58

TỰ, THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI

CHƢƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI NĂM 2010
3.1. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC

63
63

3.1.1. Ban hành văn bản pháp luận hƣớng dẫn thi hành Luật Trọng
tài thƣơng mại

63


3.1.2. Tổ chức tuyên truyền sâu rộng đến xã hội, đặc biệt là các
doanh nghiệp về Luật TTTM và cơ chế giải quyết bằng trọng
tài

65

3.2. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC TRUNG TÂM TRỌNG TÀI

66

3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC THƢƠNG NHÂN

68

3.3.1. Nâng cao hiểu biết về Pháp luật, đặc biệt là Pháp luật về
Trọng tài Thƣơng mại

68

3.3.2. Cần nhìn nhận các lợi ích từ việc lựa chọn TTTM để giải
quyết tranh chấp thƣơng mại

69

KẾT LUẬN

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


72


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

HĐKT :

Hợp đồng kinh tế

HĐTT :

Hội đồng trọng tài

HTX :
TAND :

Hợp tác xã
Toà án nhân dân

TCTAND :

Tổ chức toà án nhân dân

TTKTNN :

Trọng tài kinh tế nhà nƣớc

TTQTVN :

Trọng tài Quốc tế Việt Nam


TTTM
TTV :
VIAC :

Trọng tài thƣơng mại
Trọng tài viên
Trung tâm Trọng tài Quốc Tế Việt Nam


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thực tiễn giải quyết tranh chấp trên thế giới hiện nay đã chứng tỏ, Trọng
tài thƣơng mại là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp phổ biến và có hiệu
quả cao trong việc giải quyết dứt điểm tranh chấp của các bên. Tuy nhiên, ở
Việt Nam, hoạt động của TTTM chƣa thực sự đạt đƣợc những hiệu quả nói
trên và có thể nói là còn bị các thƣơng nhân hạn chế sử dụng trong quá trình
giải quyết tranh chấp của họ. Điều này đƣợc lý giải do rất nhiều nguyên nhân
nhƣng góp phần không nhỏ cho thực trạng này lại xuất phát từ chính quy định
của pháp luật. Ở Việt Nam, TTTM xuất hiện từ năm 1994 với mô hình thử
nghiệm là trọng tài phi chính phủ và là một tổ chức “xã hội - nghề nghiệp”,
nhƣng mãi đến năm 2003, Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại mới đƣa ra đƣợc
một cơ chế giải quyết tranh chấp cho trọng tài phi chính phủ theo thông lệ quốc
tế. Tuy nhiên, qua 7 năm thực hiện, Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại cũng đã
bộc lộ không ít khiếm khuyết trong cả quy định pháp luật cũng nhƣ trong thực
tiễn thi hành. Các khiếm khuyết này thể hiện ở nhiều quy định nhƣ: phạm vi
thẩm quyền của Trọng tài, thỏa thuận Trọng tài, vấn đề thời hiệu khởi kiện,
trọng tài viên, yêu cầu toà án huỷ quyết định trọng tài...vv. khiến cho hoạt động

của TTTM ở nƣớc ta còn bị giới hạn rất nhiều. Đặc biệt là trong quá trình giải
quyết tranh chấp, Trọng tài vẫn chƣa có đủ thẩm quyền nhƣ một cơ quan giải
quyết tranh chấp vì thế các bên tranh chấp chƣa thể đặt trọn niềm tin vào khả
năng của tố tụng trọng tài. Ngoài ra, chính điều này cũng làm cho các quy định
của Pháp lệnh TTTM 2003 chƣa đạt đƣợc sự tƣơng thích với pháp luật Trọng
tài ở nhiều nƣớc trên thế giới và Luật mẫu về Trọng tài.
Nhận thức đƣợc điều này, Nhà nƣớc ta cùng với chủ trƣơng cải cách
tƣ pháp đã không ngừng hoàn thiện các quy định pháp luật về trọng tài để
phát huy hơn nữa năng lực làm việc của các trung tâm trọng tài thƣơng mại ở


2

Việt Nam cũng nhƣ đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh doanh muốn giải
quyết tranh chấp của mình một cách hiệu quả, nhanh chóng. Chính vì vậy,
sau nhiều năm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn áp dụng Pháp lệnh
Trọng tài thƣơng mại năm 2003 và tiếp thu tối đa kinh nghiệm quốc tế, Quốc
hội nƣớc CHXHCN Việt Nam ngày 17/6/2010 tại kỳ họp thứ 7 khoá XII đã
thông qua Luật TTTM năm 2010, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011 tạo ra
cơ sở pháp lý đầy đủ và thuận lợi cho tố tụng trọng tài.
Có thể nói, Luật Trọng tài thƣơng mại năm 2010 là văn bản đầu tiên có
hiệu lực cao nhất cho hoạt động trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam và đƣợc
đánh giá là bƣớc phát triển của pháp luật Việt Nam trong quá trình hoàn thiện
pháp luật và hội nhập quốc tế về pháp lý. Đồng thời, nó cũng đƣợc coi là một
điểm nhấn của hoạt động cải cách tƣ pháp của nƣớc ta về phƣơng diện mở
rộng các hình thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại để làm giảm gánh nặng
xét xử của Tòa án hiện nay. Vì vậy, để có những đánh giá quan trọng cho sự
phát triển của Luật TTTM năm 2010 và góp phần cổ vũ hơn nữa cho hoạt
động tố tụng trọng tài tại Việt Nam, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Luật
trọng tài thƣơng mại năm 2010 - Bƣớc phát triển mới của pháp luật trọng

tài thƣơng mại Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp Cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề trọng tài thƣơng mại cũng nhƣ phƣơng thức giải quyết tranh chấp
thƣơng mại bằng trọng tài đã đƣợc rất nhiều công trình nghiên cứu trong và
ngoài nƣớc đề cập, công bố. Trong đó bao gồm cả những khóa luận tốt nghiệp,
luận văn cao học, luận án tiến sĩ và các bài nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên,
những công trình này chủ yếu tập trung vào các nội dung cụ thể của trọng tài
thƣơng mại nhƣ: phƣơng thức giải quyết, thủ tục giải quyết tranh chấp, thẩm
quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài…vv. Có thể kể đến một vài công trình
nghiên cứu mới đây nhƣ: Dƣơng Anh Sơn (2009), “những luận cứ để mở rộng


3

thẩm quyền của Trọng tài”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật; Nguyễn Thị Thu
Hảo (2010), “một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thỏa thuận trọng tài đối với
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại tại Việt Nam”, khóa luận tốt
nghiệp đại học; Lê Thị Nhàn (2011), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại”, Luận văn thạc sỹ
luật học. Nhƣ vậy, việc nghiên cứu trọng tài thƣơng mại ở tầm vĩ mô và đặc
biệt là dành nhiều đánh giá cho những điểm mới của Luật TTTM năm 2010,
văn bản chỉ mới đi vào thực tế không đầy 6 tháng qua thì vẫn còn là một đề tài
mới mẻ và không có sự trùng lặp về tên đề tài cũng nhƣ nội dung nghiên cứu
với các công trình đã công bố.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ luật học, đề tài tập trung làm rõ
những quy định cơ bản nhất của Luật Trọng tài thƣơng mại năm 2010 có sự
kế thừa và phát triển so với Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại năm 2003. Đồng
thời, có sự đánh giá xu hƣớng phát triển cũng nhƣ mức độ tƣơng thích của
các quy định này so với pháp luật Trọng tài một số nƣớc trên thế giới và đề

cập một số biện pháp để bảo đảm phát huy hiệu quả của những chế định này
khi đi vào thực tiễn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Lựa chọn nghiên cứu đề tài trên, tác giả mong muốn:
- Làm sang tỏ một cách có hệ thống các các quy định mới của Luật
Trọng tài thƣơng mại năm 2010 đƣợc phát triển từ Pháp lệnh Trọng tài
thƣơng mại năm 2003;
- Làm rõ tầm ảnh hƣởng của các chế định này đối với thực tiễn thi
hành và đề xuất các biện pháp bảo đảm để nó phát huy hiệu quả khi đi vào
thực tiễn cuộc sống.


4

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của cơ chế giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thƣơng mại bằng trọng tài thƣơng mại;
- Làm rõ thực trạng quá trình phát triển của trọng tài thƣơng mại ở
Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt
động của trọng tài thƣơng mại từ Pháp lệnh Trong tài thƣơng mại năm 2003
đến Luật Trọng tài thƣơng mại năm 2010;
- Đề xuất nhƣng giải pháp bảo đảm để các chế định của Luật Trọng tài
thƣơng mại năm 2010 phát huy đƣợc hiệu quả khi đi vào thực tiễn cuộc sống.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc trình bầy dựa trên cơ sở vận dụng lý luận của Chủ
nghĩa Mac-Lênin về Nhà nƣớc và pháp luật. Đồng thời, xem xét những quan
điểm của Đảng và Nhà nƣớc về cải cách thủ tục tƣ pháp trong thời kỳ mới.
Hơn nữa, để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu đã đặt ra, tác giả còn sử dụng
nhiều phƣơng pháp nghiên cứu, trong đó có phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng
pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh và phƣơng pháp lịch sử để làm sáng tỏ

các nội dung của đề tài...
6. Kết cấu của Luận văn:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lí luận về trọng tài thƣơng mại và pháp luật
về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam;
Chƣơng 2: Bƣớc phát triển trong quy định của Luật trọng tài thƣơng mại
năm 2010 về phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại;
Chƣơng 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng Luật
trọng tài thƣơng mại năm 2010.


5

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

1.1.1. Khái niệm Trọng tài thƣơng mại
Trong khoa học pháp lý, khái niệm Trọng tài đƣợc tiếp cận theo nhiều
khía cạnh khác nhau. nhƣng chủ yếu là trên hai phƣơng diện: là cơ quan giải
quyết tranh chấp và là phƣơng thức giải quyết tranh chấp.
Với tƣ cách là cơ quan giải quyết tranh chấp, Trọng tài đƣợc hiểu
“Trọng tài bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ” hay “Trọng tài là cơ quan
trung gian được các bên đương sự giao tranh chấp cho để xét xử”. Nhƣ vậy,
Trọng tài không chỉ bao hàm một cá nhân đứng ra để phân xử, giải quyết các
tranh chấp mà còn là một cơ quan giải quyết tranh chấp gắn với tính quy mô
và tổ chức. Đồng thời, Trọng tài có thể đƣợc tổ chức thành các cơ quan
chuyên biệt, có trụ sở làm việc, danh sách nhân sự và điều lệ hoạt động riêng
của mình hoặc chỉ là cơ quan giải quyết tranh chấp đƣợc thành lập theo vụ

việc (thƣờng gọi là Trọng tài ad-hoc).
Với tƣ cách là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp, Trọng tài tồn tại
song song với các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác nhƣ thƣơng lƣợng,
hòa giải và tòa án. Với phƣơng diện này thì Trọng tài cũng có nhiều định
nghĩa khác nhau:
Theo cuốn Đại từ điển Kinh tế Thị trƣờng: “Trọng tài là một phương
thức giải quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự
tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ 3
có tư cách công bằng, chính trực xét xử, phán quyết do người này đưa ra có
hiệu lực ràng buộc với cả hai bên”.


6

Theo Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ: “Trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người xem
xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các
bên tranh chấp phải thi hành”.
Nhƣ vậy, với tƣ cách là một phƣơng thức giải quyết tranh chấp, Trọng
tài đƣợc nhìn nhận là một phƣơng thức trong đó, các bên tranh chấp tự
nguyện thỏa thuận với nhau để trao quyền giải quyết tranh chấp của mình cho
bên ngƣời thứ ba (một cá nhân, hoặc nhóm ngƣời ) độc lập và chấp nhận sự
ràng buộc của phán quyết do họ đƣa ra.
Ở Việt Nam, pháp luật cũng luôn giữ quan điểm tiếp cận Trọng tài là
một phƣơng thức giải quyết tranh chấp nhƣ hầu hết pháp luật các nƣớc nhƣng
sử dụng thuật ngữ là “Trọng tài thƣơng mại” để gọi tên cho phƣơng thức này.
Theo Pháp lệnh TTTM năm 2003: “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được các bên thỏa thuận và được
tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp luật này giải quyết”. Đến Luật
TTTM năm 2010: “TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên

thỏa thuận và được tiến hành theo các quy định của luật này”. Có thể nói, dù
cùng một cách tiếp cận với Pháp lệnh TTTM 2003 nhƣng khái niệm TTTM
do Luật TTTM năm 2010 đƣa ra theo hƣớng mở hơn về nội dung tranh chấp
và lĩnh vực tranh chấp, đồng thời vẫn thể hiện đƣợc bản chất của phƣơng thức
giải quyết tranh chấp này là tôn trọng đến cùng sự thỏa thuận của các bên
tranh chấp. Vì thế, khái niệm này mang những khía cạnh phù hợp hơn với
pháp luật Trọng tài của đa số các nƣớc trên thế giới hiện nay.
1.1.2. Đặc điểm của Trọng tài thƣơng mại
Nhƣ đã phân tích ở trên, khái niệm Trọng tài đƣợc tiếp cận dƣới hai
góc độ là cơ quan giải quyết tranh chấp và là phƣơng thức giải quyết tranh
chấp nên đặc điểm của Trọng tài thƣơng mại có sự phân biệt nhƣ sau:


7

● TTTM là một phương thức giải quyết tranh chấp:
Với tƣ cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động kinh doanh thƣơng mại, trọng tài có những đặc trƣng cơ bản sau:
Một là: Trọng tài là phƣơng thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia
của bên thứ ba – các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất. Trọng tài là
bên trung gian do chính các bên đƣơng sự thỏa thuận lựa chọn trƣớc hoặc sau
khi xảy ra tranh chấp. Trọng tài hoàn toàn độc lập với các bên, đứng giữa để
giải quyết tranh chấp, đƣa ra phán quyết có tính chất bắt buộc để bảo vệ
quyền lợi của các bên.
Hai là: Trọng tài là phƣơng thức thức giải quyết tranh chấp có thủ tục
tố tụng chặt chẽ hơn một số phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác nhƣ:
thƣơng lƣợng, hòa giải. Giải quyết tranh chấp trọng tài, trọng tài viên và các
bên đƣơng sự phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, Điều
lệ và Quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định.
Ba là: Kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết

do trọng tài tuyên đối với các đƣơng sự của vụ tranh chấp. Phán quyết của
trọng tài vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận (các bên đƣơng sự có thể thỏa thuận
về nội dung tranh chấp, cách thức giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với
vụ tranh chấp…), vừa kết hợp yếu tố tài phán (có giá trị thi hành bắt buộc thi
hành với các bên).
Trọng tài là phƣơng thức giải quyết tranh chấp kết hợp đƣợc nhiều ƣu
điểm của các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác nhƣ: đảm bảo sự tự do
thỏa thuận ý chí, bí mật và uy tín cho các bên, giữ đƣợc quan hệ giữa các bên
sau khi giải quyết nhƣ phƣơng thức thƣơng lƣợng, hòa giải; đảm bảo sự chặt
chẽ về thủ tục tố tụng và tính tài phán nhƣ hình thức Tòa án. Lựa chọn trọng
tài, các bên tranh chấp có thể yên tâm vì tranh chấp sẽ đƣợc trọng tài giải


8

quyết nhanh chóng, dứt điểm. Do vậy trọng tài là hình thức giải quyết tranh
chấp phổ biến ở những nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển, đƣợc các
nhà kinh doanh sử dụng nhƣ một phƣơng thức tối ƣu để giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thƣơng mại.
● TTTM là cơ quan giải quyết các tranh chấp:
Trọng tài đƣợc hiểu là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thƣơng mại. Trọng tài đƣợc luật
pháp các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng thừa nhận là một cơ quan tài phán
độc lập, tồn tại song song với Tòa án. Pháp luật tôn trọng quyền tự lựa chọn
đó của đƣơng sự, khi có tranh chấp trong thƣơng mại phát sinh, các chủ thể có
thể lựa chọn Tòa án hoặc Trọng tài giải quyết cho mình. Nếu các bên đã có
thỏa thuận đƣa tranh chấp ra giải quyết tại Trọng tài và thỏa thuận có hiệu lực
mà sau đó các bên lại đƣa đơn yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án sẽ trả lại đơn
kiện cho nguyên đơn.
Tuy là hai cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp

phát sinh trong hoạt động kinh doanh thƣơng mại, nhƣng xuất phát từ bản
chất vốn có, Trọng tài có những đặc trƣng riêng, khác hẳn với Tòa án, cụ thể:
Thứ nhất: Trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên
tự thành lập nên để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh
doanh, thƣơng mại. Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nƣớc,
không do Nhà nƣớc thành lập nên và cũng không hoạt động bằng ngân sách
Nhà nƣớc. Các trọng tài viên không phải là các viên chức nhà nƣớc, không do
Nhà nƣớc bổ nhiệm và cũng không hƣởng lƣơng từ ngân sách. Khi giải quyết
tranh chấp, trọng tài không nhân danh Nhà nƣớc để ra các phán quyết.
Thứ hai: Quyền lực của trọng tài không tự nhiên mà có, mà xuất phát
từ sự thỏa thuận giữa các chủ thể tranh chấp đối với trọng tài. Trọng tài chỉ có


9

thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận về
việc lựa chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trƣớc hoặc sau
khi xảy ra tranh chấp. Nếu không có thỏa thuận trƣớc hoặc sau khi xảy ra
tranh chấp về việc lựa chọn trọng tài giải quyết cho mình, hoặc có nhƣng thỏa
thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Chính
các chủ thể tranh chấp, với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho
mình đã trao quyền lực xét xử cho trọng tài. Nói cách khác, giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các chủ thể tranh chấp mà
không nhân danh quyền lực Nhà nƣớc.
Thứ ba: Phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp giữa ý chí, sự thỏa
thuận của các bên, vừa mang tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét xử.
Tuy nhiên, do trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nƣớc nhƣ Tòa
án nên phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực Nhà nƣớc. Phán
quyết của trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Nếu
một hoặc các bên tranh chấp không tôn trọng phán quyết của trọng tài, không

tự nguyện thi hành phán quyết thì trọng tài cũng không có cơ quan cƣỡng chế
của riêng mình để cƣỡng chế thi hành. Phán quyết của trọng tài do các bên
đƣơng sự tự nguyện thi hành hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan nhà nƣớc để
cƣỡng chế thi hành.
Tóm lại: Với tƣ cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập,
song song với Tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thƣơng mại
giữa các bên khi các bên đƣơng sự lựa chọn.
1.1.3. Các hình thức trọng tài thƣơng mại
Trọng tài theo pháp luật ở hầu hết các nƣớc cũng nhƣ pháp luật Việt
Nam đều tồn tại dƣới hai hình thức cơ bản sau:
● Trọng tài vụ việc (Trọng tài ad-hoc): là hình thức trọng tài đƣợc
thành lập theo yêu cầu của các bên tranh chấp để giải quyết một tranh chấp cụ


10

thể. Hình thức này không có một tổ chức trọng tài viên cố định, sau khi giải
quyết xong vụ tranh chấp, nó sẽ tự giải thể.
Trọng tài vụ việc có một số đặc điểm nhƣ sau:
- Là hình thức Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để
giải quyết một tranh chấp cụ thể của các bên.
- HĐTT không có trụ sở, Trọng tài viên riêng và không có quy tắc tố
tụng riêng.
- Sau khi giải quyết xong tranh chấp thì HĐTT tự động giải tán.
● Trọng tài thƣờng trực (Trọng tài quy chế): là hình thức trọng tài
có bộ máy tổ chức ổn định, có trụ sở, có Điều lệ tổ chức và hoạt động, có
danh sách trọng tài viên xác định, tuân theo quy tắc tố tụng chặt chẽ và thống
nhất. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tƣ cách pháp nhân, có
con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự đảm bảo thu chi.
Ở các nƣớc trên thế giới, Trọng tài thƣờng trực đƣợc tổ chức dƣới

những hình thức đa dạng nhƣ: các Trung tâm Trọng tài, các Hiệp hội trọng tài
hay các Viện trọng tài. Tuy nhiên, Trọng tài thƣờng trực chủ yếu và phổ biến
đƣợc tổ chức dƣới dạng các Trung tâm trọng tài [21, tr 449]. Các Trung tâm
trọng tài có một số đặc trƣng sau:
- Các Trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính Phủ.
- Các Trung tâm trọng tài có tƣ cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.
- Tổ chức, quản lý ở các Trung tâm trọng tài khá đơn giản, gọn nhẹ.
- Mỗi Trung tâm trọng tài đều xây dựng một bản điều lệ và quy tắc tố
tụng riêng.
- Hoạt động tố tụng của Trung tâm trọng tài đƣợc tiến hành bởi các
Trọng tài viên của Trung tâm.


11

Nhƣ vậy, cùng là Trọng tài để giải quyết tranh chấp thƣơng mại của các
bên nhƣng mỗi một hình thức Trọng tài đều có những đặc điểm riêng, đặc
trƣng cho nó. Từ đó, càng cho thấy sự đa dạng, phong phú trong tố tụng trọng
tài và tất cả điều đó đều chứng tỏ sự thích nghi cao độ của tố tụng trọng tài đối
với các nhu cầu giải quyết tranh chấp khác nhau của các chủ thể tranh chấp.
1.1.4. Ƣu điểm và nhƣợc điểm của tố tụng trọng tài thƣơng mại
● Ưu điểm của tố tụng trọng tài
Xuất phát từ khái niệm, đặc điểm của Trọng tài thƣơng mại ở trên, có thể
thấy rằng Trọng tài thƣơng mại là phƣơng thức giải quyết tranh chấp có nhiều
ƣu điểm phù hợp với mong muốn của hầu hết các nhà kinh doanh.
Thứ nhất, TTTM giải quyết tranh chấp bảo đảm được bí mật kinh
doanh và uy tín nghề nghiệp của các bên tranh chấp
Trọng tài là phƣơng thức giải quyết tranh chấp dựa trên nguyên tắc
không công khai nên đảm bảo đƣợc bí mật kinh doanh cũng nhƣ uy tín nghề
nghiệp của các bên tranh chấp. Tính bí mật của việc giải quyết tranh chấp thể

hiện ở trong và sau khi giải quyết tranh chấp. Phiên họp của HĐTT chỉ có mặt
các bên; TTV tham gia giải quyết tranh chấp không đƣợc tiết nội dung vụ tranh
chấp; phán quyết của HĐTT không đƣợc công bố rộng rãi nếu không đƣợc sự
đồng ý của các bên. Nếu so sánh với giải quyết tranh chấp bằng tòa án thì
phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng TTTM có ƣu thế rất lớn, bởi việc giữ
bí mật kinh doanh và uy tín trong kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Trong kinh doanh, các
chủ thể thƣờng không muốn có tranh chấp, nếu có tranh chấp thì không muốn
tiết lộ nội dung vụ tranh chấp, cũng nhƣ không muốn ngƣời khác biết họ đang
theo đuổi tranh chấp với đối tác. Trọng tài đáp ứng đƣợc yêu cầu giữ bí mật,
nên đây là ƣu điểm góp phần tạo nên sức hấp dẫn của phƣơng thức này.


12

Thứ hai, TTTM giải quyết tranh chấp mang tính thân thiện, giúp các
bên tiếp tục duy trì mối quan hệ
Tính thân thiện của phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
thể hiện ở quá trình giải quyết tranh chấp cũng nhƣ kết quả giải quyết tranh
chấp mà trọng tài mang lại. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, TTV với tƣ
cách là ngƣời thứ ba, giúp các bên “tháo gỡ” mâu thuẫn sẽ gặp gỡ các bên để
thu thập tài liệu, chứng cứ, giải đáp thắc mắc về Pháp luật cũng nhƣ những
nội dung liên quan đến tranh chấp. Quá trình này TTV giải quyết một cách
khéo léo, thân thiện, giúp các bên xích lại gần nhau. Đây là điều mà phƣơng
thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án không có đƣợc. Pháp luật không cho
phép thẩm phán đƣợc tiếp xúc gần gũi, thân thiện với bất kỳ đƣơng sự nào
trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp.
Bên cạnh đó khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án, các bên chỉ quan tâm
đến vấn đề thắng- thua. Nên từ quan hệ “ bạn làm ăn” có thể chuyển thành
“địch thủ” trong vụ kiện. Còn giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, các bên

hƣớng tới việc giải quyết tranh chấp một cách công bằng, hợp lý chứ không
mang nặng tính thắng- thua. Do đó, sau khi giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài các bên vẫn có thể duy trì đƣợc mối quan hệ ở một mức độ nhất định, thậm
chí còn có thể tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác, làm ăn.
Thứ ba, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng TTTM đơn giản, nhanh
chóng
Trong kinh doanh không ai mong muốn xảy ra tranh chấp vì vậy nếu
tranh chấp xảy ra thì các bên đều mong muốn đƣợc giải quyết càng nhanh
càng tốt. Vì vậy, với phƣơng thức giải quyết đơn giản, nhanh chóng TTTM đã
đáp ứng đƣợc yêu cầu này. Tính đơn giản, nhanh chóng của thủ tục tố tụng
trọng tài thể hiện ở những điểm sau:


13

Thứ nhất, Đối với trọng tài vụ việc quy tắc tố tụng do các bên tự xây
dựng nên các bên có mong muốn đƣợc giải quyết đơn giản, nhanh chóng,
thuận tiện đến mức nào là do các bên quyết định. Đối với trọng tài quy chế,
thì quy tắc tố tụng đã lựa chọn từ khi xác lập thỏa thuận trọng tài.
Thứ hai,Trọng tài không có nguyên tắc xét xử trực tiếp. Các TTV có
thể tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp dựa vào các tài liệu, chứng cứ
các bên cung cấp mà không cần sự có mặt của các bên đƣơng sự.
Thứ ba, Phán quyết Trọng tài là chung thẩm, các bên không có quyền
kháng cáo, kháng nghị lên bất kỳ cơ quan, tổ chức nào ( trừ khi có sự vi phạm
về tố tụng thì các bên đƣợc quyền yêu cầu Tòa án xem xét hủy phán quyết
trọng tài).
Nhƣ vậy, nếu so sánh thủ tục giải quyết tranh chấp của phƣơng thức này
với Tòa án thì rõ ràng Trọng tài thể hiện tính đơn giản, nhanh chóng hơn hẳn.
Thứ tư, TTTM giải quyết tranh chấp linh hoạt, đảm bảo quyền tự
định đoạt của các bên Tranh chấp

Tòa án giải quyết tranh chấp nhân danh quyền lực nhà nƣớc và khi thực
thi quyền lực đó Thẩm phán phải triệt để tuân theo trình tự, quy tắc tố tụng
đƣợc quy định trong BLTTDS. Ngƣợc lại, giải quyết tranh chấp bằng Trọng
tài lại trên cở sở thỏa thuận, quyền lực của HĐTT là do các bên trao cho vì
vậy tính linh hoạt trong giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đƣợc đề cao,
điều này thể hiện ở các điểm sau:
- Các bên tranh chấp đƣợc tự quyết định có giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài hay không bằng việc ký thỏa thuận Trọng tài.
- Các bên có quyền quyết định hình thức trọng tài là trọng tài vụ việc
hay trọng tài quy chế, Trung tâm Trọng tài sẽ giải quyết tranh chấp.
- Có quyền lựa chọn TTV.


14

- Trình tự thủ tục Trọng tài do các bên xây dựng, hoặc lựa chọn quy tắc
tố tụng của một Trung tâm Trọng tài. Đồng thời các bên cũng có quyền thỏa
thuận về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp để tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho các bên.
- Đối với tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài, các bên có thể thỏa thuận
lựa chọn luật áp dụng, ngôn ngữ để giải quyết.
Đây chính là ƣu điểm nổi bật của TTTM so với Tòa án thƣờng mang
tính khuôn mẫu, quyền tự do định đoạt và thỏa thuận của các bên chỉ giới hạn
trong một phạm vi nhất định [25 tr 25]. Với đặc điểm này TTTM hoàn toàn
phù hợp với hoạt động kinh doanh vốn nhạy cảm, linh hoạt và cũng là hoạt
động phản ánh đầy đủ tính chất tự do, tự định đoạt của giao dịch dân sự.
Thứ năm, phán quyết của TTTM có tính chính xác cao, nhất là các
tranh chấp có nội dung từ những vấn đề kinh tế - kỹ thuật có tính chuyên sâu.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nội dung của các tranh chấp
thƣơng mại ngày càng đa dạng, trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nội dung của

tranh chấp thƣờng rất phức tạp, nhiều khi mang tính chất chuyên môn, chuyên
ngành mà không phải ai cũng có thể hiểu. Trong khi đó, để giải quyết đƣợc
tranh chấp một cách đúng đắn nhất thì hiểu biết của ngƣời tham gia giải quyết
tranh chấp về nội dung tranh chấp có ý nghĩa rất lớn. Khi giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài các bên có quyền lựa chọn TTV, nên có thể lựa chọn
đƣợc TTV có trình độ chuyên môn phù hợp với nội dung tranh chấp. Đây
đƣợc coi là một ƣu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Nếu
so sánh với Thẩm phán do Chánh án Tòa án chỉ định thì thẩm phán thƣờng có
kiến thức pháp luật mà không có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực tranh chấp
thì đây là một điểm góp phần làm nên hiệu quả của phƣơng thức giải quyết
tranh chấp này.


15

Thứ sáu, trọng tài không đại diện cho quyền lực nhà nước nên thích
hợp để giải quyết tranh chấp mà các bên có quốc tịch khác nhau
Trọng tài mang tính chất phi Chính phủ, quyền lực của Trọng tài là do
các bên tranh chấp trao cho mà không bị cho phối bởi bất cứ cơ quan, tổ chức
hay quốc gia nào. Nếu so sánh với Tòa án thì Tòa án là cơ quan tƣ pháp của
một quốc gia, mặc dù pháp luật quy định khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật, nhƣng do yếu tố tâm lý, tính dân tộc nên khi giải quyết
các tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài, đặc biệt là những tranh chấp giữa một
bên là cơ quan nhà nƣớc, một bên là nƣớc ngoài thì rất dễ dẫn đến tình trạng
thiên vị trong khi xét xử. “Và thực tế cũng cho thấy không bên nào muốn đƣa
vụ tranh chấp ra giải quyết tại Tòa án quốc gia phía bên kia. Lý do chính của
việc e ngại này xuất phát từ chính bản chất quyền lực Tòa án là quyền lực tƣ
pháp công” [25 tr 26].
Lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài các bên có quyền lựa
chọn luật áp dụng, đó có thể là luật của một trong các nƣớc mà các bên tranh

chấp có quốc tịch, cũng có thể là luật của quốc gia thứ ba nên tính công bằng,
khách quan đƣợc đảm bảo. Điều này đảm bảo cho các tranh chấp có yếu tố
nƣớc ngoài đƣợc giải quyết một cách khách quan đối với tất cả các bên.
Thứ bảy, phán quyết của TTTM được công nhận và thi hành ở nước
ngoài
Với xu hƣớng mở rộng hợp tác quốc tế thì các vụ tranh chấp có yếu
tố nƣớc ngoài ngày càng phổ biến. Để đảm bảo cho phán quyết của Trọng tài
đối với các vụ tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc thi hành thì phán quyết
đó cần đƣợc công nhận và cho thi hành ở nƣớc ngoài. Điều này cũng phù hợp
với Công ƣớc New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành quyết định
của Trọng tài nƣớc ngoài quy định tại Điều 3: “Mỗi quốc gia thành viên sẽ
công nhận các quyết định trọng tài có giá trị giàng buộc và thi hành chúng


16

theo quy tắc về thủ tục của lãnh thổ nơi quyết định sẽ được thi hành, theo các
điều kiện được nêu trong các điều khoản dưới đây không được đặt các điều
kiện về căn bản nặng hơn hoặc các phí hay chi phí cao hơn cho việc thi hành
và công nhận các quyết định Trọng tài mà Công ước này áp dụng tới so với
việc công nhận và cho thi hành các quyết định trọng tài trong nước”.
● Hạn chế của tố tụng Trọng tài
Cho đến nay, chƣa có phƣơng thức giải quyết tranh chấp nào là hoàn
hảo. Bên cạnh những ƣu điểm, phƣơng thức giải quyết tranh chấp nào cũng
sẽ tồn tại những hạn chế. Trọng tài thƣơng mại cũng vậy, bên cạnh những
ƣu điểm của mình thì TTTM vẫn có những hạn chế nhất định, biểu hiện:
Với nguyên tắc xét xử một lần, phán quyết của Trọng tài có giá trị
chung thẩm nên nếu phán quyết của trọng tài có sai sót về mặt nội dung,
không đảm bảo giải quyết quyền và nghĩa vụ của các bên thì cũng không có
cơ hội sửa chữa, thay đổi cũng nhƣ hủy bỏ. Các bên không có quyền yêu cầu

bất cứ cơ quan, tổ chức nào xem xét lại quyết định trọng tài. Phán quyết chỉ
mất giá trị khi bị Tòa án tuyên hủy quyết định trọng tài nếu có căn cứ theo
quy định của Pháp luật. Trong khi đó, đối với việc giải quyết tranh chấp tại
Tòa án lại đƣợc thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử hoặc có thể đƣợc
xem xét lại theo thủ tục Tái thẩm hoặc Giám đốc thẩm nên phán quyết của
Tòa án có nhiều cơ hội để xem xét sửa chữa hơn.
Với vai trò là một thiết chế giải quyết tranh chấp phi chính phủ Trọng
tài phần nào gây thiếu lòng tin vào hiệu quả cũng nhƣ giá trị pháp lý của phán
quyết trọng tài. Hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp bị chi phối bởi tính tự
nguyện, thái độ thiện chí và hợp tác của các bên tranh chấp. Nếu các bên
không có thiện chí việc giải quyết tranh chấp khó thành công.


17

Nhìn chung, TTTM là phƣơng thức giải quyết tranh chấp có nhiều ƣu
điểm so với các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác là thƣơng lƣợng, hòa
giải và Tòa án. Vì vậy, trong tƣơng lai gần TTTM sẽ là phƣơng thức giải
quyết tranh chấp cơ bản để giảm gánh nặng xét xử cho tòa án. Tuy nhiên,
không có một phƣơng thức giải quyết tranh chấp nào là hoàn hảo tuyệt đối và
tố tụng trọng tài cũng không thể nằm ngoài điều đó. Vì thế, chúng ta nhìn
nhận những mặt tích cực nhƣng cũng không bỏ qua những mặt hạn chế của
Trọng tài thƣơng mại để tìm cách khắc phục và hoàn thiện nó. Có thể nói, đối
với các hạn chế nhƣ đã phân tích ở trên thì sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà
nƣớc và đặc biệt là các cơ quan tƣ pháp: Tòa án, cơ quan thi hành án đối với
hoạt động của tố tụng Trọng tài là sự trợ giúp vô cùng cần thiết.
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM

1.2.1. Lƣợc sử hình thành và phát triển của trọng tài thƣơng mại

và pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam
● Giai đoạn từ 1960 đến 1994:
Trọng tài Kinh tế Nhà nước
Dƣới cơ chế kế hoạch hóa tập trung, không có sự bình đẳng về mặt
pháp lý giữa các thành phần kinh tế, chúng ta xây dựng một nền kinh tế thuần
nhất dựa trên 2 hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể. Các tranh chấp kinh tế
thời kỳ này rất nghèo nàn và đơn điệu, đó chỉ là những tranh chấp về HĐKT
giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau hoặc xí nghiệp quốc doanh với HTX.
Chính các yếu tố này đã chi phối đến mô hình giải quyết tranh chấp kinh
doanh ở nƣớc ta. Do đó, tổ chức Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp kinh tế lúc này là Trọng tài Kinh tế Nhà nƣớc – một cơ quan quản lý
Nhà nƣớc về chế độ HĐKT. Sự hình thành và phát triển của Trọng tài Kinh tế


18

Nhà nƣớc gắn liền với sự hình thành, phát triển của chế độ HĐKT và đƣợc
điều chỉnh bằng hệ thống các văn bản nhƣ sau:
Năm 1960: Ngay sau khi Nghị Định số 04/TTg ngày 04/01/1960 của
Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ HĐKT thì ngày
14/01/1960 Thủ tƣớng ban hành Nghị Định số 20/NĐ-TTg về việc tổ chức
ngành Trọng tài Kinh tế.
Năm 1975: Bản Điều lệ chính thức về HĐKT đƣợc ban hành kèm theo
Nghị định số 54/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 10/03/1975 thì ngày 14/04/1975
Chính Phủ ban hành NĐ 75/CP quy định về Điều lệ về tổ chức và hoạt động
của Hội đồng Trọng tài kinh tế.
Năm 1990: Pháp lệnh HĐKT đƣợc ban hành vào ngày 25/09/1989 thì
ngày 10/01/1990, Pháp lệnh Trọng tài Kinh tế đƣợc HĐNN ban hành.
Đồng thời, cơ cấu tổ chức của TTKTNN cũng đƣợc cải tổ rất nhiều lần,
ban đầu theo Nghị định số 20/TTg năm 1960 thì Trọng tài kinh tế đƣợc tổ

chức ở Trung ƣơng, Khu (Khu Việt Bắc, Khu tự trị Tây Bắc), Bộ, sau đó
đƣợc cải tổ theo cơ cấu: Trọng tài kinh tế Trung ƣơng, Bộ, Tỉnh, rồi lại cải tổ
theo địa giới hành chính là Trọng tài kinh tế Trung ƣơng, Tỉnh, Huyện (tƣơng
đƣơng với cơ cấu tổ chức của Tòa án). Chức năng của TTKTNN lúc bấy giờ
là quản lý chế độ HĐKT; thanh tra, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở thực hiện
HĐKT; xét xử các tổ chức kinh tế và theo Pháp lệnh TTKT thì thêm cả chức
năng xử lý, kết luận và tuyên HĐKT vô hiệu.
Nhƣ vậy, Trọng tài Kinh tế Nhà nƣớc là sản phẩm đặc thù của cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Do đó, nó đƣợc thiết kế với những chức năng,
quyền hạn và nguyên tắc hoạt động phù hợp với yêu cầu, đặc điểm của cơ chế
đó. Có thể nói, với những đặc điểm nhƣ trên TTKTNN mang bản chất lƣỡng


19

tính (lẫn lộn giữa Tòa án và Trọng tài) nên nó không phải là hình thức TTTM
theo đúng nghĩa (tổ chức phi chính phủ).
Trọng tài phi chính phủ
Dù đã có TTKTNN nhƣng thực tiễn hoạt động kinh tế của nƣớc ta từ
đầu những năm 1960 vẫn đòi hỏi phải thành lập các tổ chức Trọng tài phi
chính phủ để giải quyết các tranh chấp kinh tế phát sinh từ quan hệ kinh tế
Quốc tế. Xuất phát từ những yêu cầu này, HĐTT Ngoại thƣơng và HĐTT
Hàng hải đã đƣợc thành lập theo Nghị định số 59/CP ngày 30/04/1963 và
Nghị định 153/CP ngày 05/10/1964 của HĐCP. Các tổ chức Trọng tài này có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại
thƣơng, thanh toán Quốc tế, vận chuyển Quốc tế, hàng hải và bảo hiểm Quốc
tế… Sau 30 năm hoạt động, hai tổ chức Trọng tài này đƣợc sáp nhập thành:
Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam theo Quyết định số 204/TTg ngày
28/04/1993 của TTg. Và đây là cũng là tổ chức Trọng tài phi Chính phủ đầu
tiên ở Việt Nam tồn tại cho đến nay mặc dù tại thời điểm này nó chƣa hoàn

toàn đáp ứng đủ các điều kiện của TTTM nhƣ pháp luật Trọng tài nhiều nƣớc
trên thế giới.
● Giai đoạn từ năm 1994 đến 30/06/2003
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nƣớc ta sang nền kinh tế thị trƣờng,
với sự phát triển đa dạng của nhiều thành phần kinh tế thuộc các hình thức sở
hữu khác nhau; đồng thời, nguyên tắc tự do và bình đẳng trong kinh doanh
cũng đƣợc xác lập. Điều này đã dẫn tới sự thay đổi về phạm vi và tính chất
của các tranh chấp trong kinh doanh. Không chỉ có tranh chấp về HĐKT giữa
Xí nghiệp quốc doanh với nhau hoặc với HTX mà cả với các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh (doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, Công ty, doanh
nghiệp tƣ nhân) hoặc giữa các cá nhân kinh doanh với nhau. Bên cạnh đó, có
nhiều loại tranh chấp mới đã xuất hiện nhƣ: tranh chấp giữa các thành viên


20

Công ty với Công ty, giữa các thành viên công ty với nhau trong quá trình
thành lập, hoạt động, giải thể Công ty; tranh chấp trong việc mua bán cổ
phiếu, trái phiếu; tranh chấp trong lĩnh vực quảng cáo, bảo hiểm, giám định;
tranh chấp liên quan đến việc bảo hộ các bí mật thƣơng mại… Nhƣ vậy, đứng
trƣớc những thay đổi của các quan hệ kinh tế và yêu cầu mới đặt ra cho việc
giải quyết các tranh chấp làm cho TTKTNN không còn phù hợp nữa.
Do đó, ngày 28/12/1993 Luật sửa đổi, bổ sung một số Luật TCTAND
đƣợc ban hành, theo đó Tòa Kinh tế với tính chất một tòa chuyên trách trong
hệ thống TAND (đƣợc thành lập ở TAND Tối cao và TAND cấp tỉnh), có
chức năng xét xử các tranh chấp kinh tế và đi vào hoạt động từ ngày
01/07/1994. Đây cũng là thời điểm “rút phép không công” đối với TTKTNN.
Bên cạnh đó, để xã hội hóa các hình thức giải quyết tranh chấp, đáp ứng đƣợc
nhu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế thị trƣờng, đồng thời góp phần thúc đẩy quá
trình hoạt động kinh tế quốc tế, ngày 05/09/1994, Chính phủ đã ban hành nghị

định số 116/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của các Trọng tài (tồn tại dƣới
dạng các Trung tâm Trọng tài Kinh tế đƣợc thành lập ở cấp tỉnh). Từ đây,
Trọng tài- một tổ chức phi chính phủ - một tổ chức xã hội nghề nghiệp đã
đƣợc hình thành với đúng bản chất đích thực của nó. Trọng tài theo Nghị định
116/NĐ-CP có thẩm quyền giải quyết tƣợng tự nhƣ Tòa Kinh tế (Điều 1).
Nhƣ vậy, trong giai đoạn này, bên cạnh cơ quan tài phán Nhà nƣớc là
Tòa Kinh tế thì ở nƣớc ta tồn tại song song 2 loại tổ chức trọng tài có cùng
bản chất là Trung tâm Trọng tài Quốc tế VN và các Trung tâm Trọng tài Kinh
tế dựa trên 2 cơ sở pháp lý khác nhau là Quyết định số 204/TTg và Nghị định
số 116/NĐ-CP. Trên thực tế lúc này, cả nƣớc có 5 Trung tâm Trọng tài đƣợc
thành lập theo Nghị định số 116/NĐ-CP này (Hà Nội có 2, Thành phố HCM
có 1, Bắc Giang có 1, Cần Thơ có 1) và Trung tâm TTQTVN với tổng cộng là
94 thẻ trọng tài viên đƣợc cấp. Tuy nhiên, dù Trọng tài phi chính phủ đã xuất
hiện nhƣng hoạt động của các tổ chức Trọng tài này lại không thể mang lại


×