Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Bản chất con người theo quan điểm triết học MácLênin và việc phát huy nhân tố con người trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Nghệ An hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.73 KB, 82 trang )

A.MỞ ĐẦU
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến
hiện đại. Từ khi Triết học Mác-Lênin ra đời đã giải quyết những nội dung liên
quan đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất quan trọng
đối với thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một lực lượng
chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã hội chỉ
có con người-yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là nhân
tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại.

Đảng ta đã khẳng định, tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng
với Chủ nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nan cho hành
động của Đảng. Vì vậy, thấm nhuồn tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin về con
người, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng ta đã khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát
triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền
làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia
đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong
việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm
chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn
hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”. Đặc biệt là, trong giai đoạn
hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại
hóa, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước
thực hiện cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngoài những
1


nhân tố quan trọng quyết định sự thành công, đó là vai trò lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý điều hành của nhà nước, sự tham gia ủng hộ tích cực của các đoàn thể
xã hội, chúng ta cần khẳng định rằng, yếu tố con người, nguồn nhân lực có vị trị
rất quan trọng như trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của


Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công
nghiệp hóa-hiện đại hóa”.

Nước ta hiện nay, được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang
trong thời kỳ “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động rất dồi
dào. Đây là nguồn lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội Đảng
XI thông qua ngày 16/2/2011. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của Việt
Nam vẫn còn thấp, nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm
đúng mức; chưa được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào
tạo đến nơi đến chốn. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng
mâu thuẫn giữa lượng và chất. Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực
từ nông dân, công nhân, trí thức chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng
phối hợp thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Và đây là
vấn đề cần phải được cải thiện càng sớm càng tốt.

Từ khi Triết học Mác - Lênin ra đời đã giải quyết những nội dung liên quan
đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với
thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một lực lượng chủ đạo trong
nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã hội chỉ có con người là yếu tố
quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là nhân tố chính, là nguồn
2


lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại. Đảng ta đã khẳng định, tư
tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với Chủ nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nan cho hành động của Đảng. Vì vậy, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã
khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ

thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp
và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao
động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong nền sản xuất xã hội”[8; tr.76]. Do
nhận thức được tâm quan trọng của vấn đề này, em chọn đề tài: "Bản chất con
người theo quan điểm triết học Mác-Lênin và việc phát huy nhân tố con
người trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Nghệ An hiện nay” làm tiểu
luận học phần những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (I)

3


B.NỘI DUNG
1. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-XÍT VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ
NHỮNG ĐIỀU KIỆN TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÂN TỐ CON NGƯỜI
1.1. Về khái niệm con người và nhân tố con người
1.1.1. Quan điểm của Mác-xít về con người và nhân tố con người
Vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết học
nhân loại. Đó là những vấn đề: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người?
Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng
mình, đạt tới tự do? … Đây cũng chính là nội dung cơ bản của nhân sinh quan một nội dung cấu thành thế giới quan triết học.
Tuỳ theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay
vấn đề kia. Đồng thời, tuỳ theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái
triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau
trong việc lý giải về con người. Mặt khác trong khi giải quyết những vấn đề trên,
mỗi nhà triết học, mỗi trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế
giới quan, phương pháp luận khác nhau: Duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc
siêu hình...
1.1.1.1 Quan điểm mác - xít về con người
* Con người và bản chất của con người

- Quan niệm về con người trong triết học phương Đông ?
4


+ Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần).
Cuộc sống vĩnh cửu là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được giải thoát để
trở thành bất diệt.
- Khổng Tử: Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức “nhân” là
giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là con người quân tử.
- Lão Tử: Con người được sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải sống “vô
vi” theo lẽ tự nhiên, không trái với tự nhiên.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương
Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú thiên về vấn đề con người trong mối
quan hệ chính trị đạo đức . Nhìn chung con người trong triết học phương Đông
biểu hiện yếu tố duy tâm có pha trộn tính chất duy vật trong mối quan hệ với tự
nhiên và xã hội.
Trong nền triết học Phương Đông nói chung và nền triết Trung Hoa nói riêng
thì xuyên suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính
con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư
tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính
trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và
bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ
Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ
khác và đi tới kết luận bản tính Tự Nhiêncủa con người. Sự khác nhau về giác độ
tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất
phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong
việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tư tưởng của các trường phái
triết học ấn độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác,
5



giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu
hình học) đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết lụân về bản tính Vô ngã, Vô
thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ
là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
- Quan niệm về con người trong triết học phương tây trước C.Mác
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ đại Hy Lạp trải qua giai
đoạn Trung cổ, Phục hưng và Cận đại đến nay, những vấn đề triết học về con
người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt.
Đối lập với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm trong lịch sử
triết học phương Tây lại chú trọng giác độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu
biểu cho giác độ tiếp cận này là quan điểm của:
- Ky tô giáo: Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn. Thể xác thì
mất đi nhưng linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc linh
hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh của.
- Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la.
- Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế. Cuộc sống
trần thế là tạm bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia.
- Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ.
- Triết học cổ điển Đức: G.V.Hegel cho rằng, là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”,
còn L.Feuerbach lại cho rằng, con người là kết quả của sự phát triển của tự
nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời.
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ đại Hy Lạp trải qua
giai đoạn Trung cổ, Phục hưng và Cận đại đến nay, những vấn đề triết học về con
người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt.
Đối lập với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm trong lịch sử
triết học phương Tây lại chú trọng giác độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu
biểu cho giác độ tiếp cận này là quan điểm của Platôn thời cổ đại Hy Lạp,
6



Đêcáctơ trong nền triết học pháp thời cận đại và Hêghen trong nền triết học ổ
điển Đức. Do không đứng trên lập trường duy vật, các nhà triết học này đã lý
giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platôn, đó là bản
chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối, với Đêcáctơ, đó là bản
tính phi kinh nghiệm (apriori) của lý tính, còn đối với Hêghen, thì đó chính là
bản chất lý tính tuyệt đối...
Trong nền triết học phương Tây hiện đại, nhiều trào lưu triết học vẫn coi
những vấn đề triết học về con người là vấn đề trung tâm của những suy tư triết
học mà tiêu biểu là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Phơrớt.
Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước C.Mác, dù là đứng
trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đều chưa
phản ánh đúng bản chất con người.
Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài mácxít còn có một
hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết
học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm
trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải
nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con
người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật
biện chứng của triết học Mác-Lênin về con người
* Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người
- Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất
biện chững giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của con người
7


Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của

con người là giới tự nhiên, do đó trước hết con người có bản tính tự nhiên.
Nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tựnhiên của
con người là cơ sở khoa học để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến
đến làm chủ bản thân trong mọi hành vi hoạt động sáng tạo ra lịch sử.
Bản tính tự nhiên của con người thể hiện trên hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên, cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của
Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự
nhiên cũng “là thân thể vô cơ của con người”. Do đó, những biến đổi của giới tự
nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên
quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi
vật chất giữa con người với giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động
của con người luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên và làm biến đổi môi
trường tự nhiên.
Tuy nhiên, con người cũng không đồng nhất với các tồn tại khác của giới
tự nhiên, nó có đặc tính xã hội. Bản tính xã hội của con người là bản tính đặc thù
của nó trong quan hệ với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Bản tính xã hội của
con người thể hiện ở các giác độ sau đây:
Một là, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, con người không phải chỉ là
nguồn gốc của sự tiến hóa,phát triển của sự vật chất tự nhiên mà còn có nguồn
gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ
8


lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát
triển thành người. Đó là một trong nhưỡng phát hiện của chủ nghĩa Mác – Lênin,
nhờ đó có thể hoàn chỉnh học thuyết về nguồn gốc của loài người mà tất cả các
học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.

Hai là, xét từ giác độ tồn tại và phát triển,thì sự tồn tại của con người luôn
bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi
con người cũng biến đổi và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại trở thành
tiền đề cho sự phát triển xã hội.Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ
tồn tại với tư cách là mọt thực thể sinh vật thuần túy, không thể là “con người”
với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống
nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó
tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử
của chính mình. Vì vậy, để lý giải bản tính sáng tạo của con người cần kết hợp
chặt chẽ cả hai phương diện tự nhiên và xã hội nhằm tránh rơi vào phiến diện,
không triệt để, dẫn đến những sai lầm trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Bản chất của con người
Theo C.Mác, “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố
hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội”[ 2; tr.11].
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm khác nhau và bản
chất, “bản tính người” của con người song về cơ bản những quan niệm đó đều
mang tính phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Trong tác phẩm Luận
cương về Phoiơbắc,C.Mác đẵ phê phán vắn tắt những quan niệm đó và xác lập
9


quan niệm mới của mình: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt.Trong tính hiện thực của nó,bản chất con người là
tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con
người, xem nhẹ việc lý giải con người từ phương diện lịch sử xã hội.
Quan điểm của C.Mác đã khắc phục được hạn chế của quan điểm duy vật
siêu hình về con người, trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn
lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện ra bản

tính xã hội của nó, hơn nữa chính bản tính xã hội của con người là phương diện
bản chất nhất của con người, là cách phân biệt con người với các tồn tại khác của
giới tự nhiên.
Năng lực sáng tạo lịch sử của con người và các điều kiện phát huy năng lực
sáng tạo của con người:
Con người làm ra lịch sử của chính mình. Theo quan điểm duy vật biện
chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành và phát triển của con
người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó là xuất phát từ sự hình thành
và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử., khi những quan hệ
này thay đổi thì cũng có sự thay đổi về bản chất của con người. Vì vậy, sự giải
phóng bản chất con người cần phải hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh
tế, chính trị, xã hội của nó, thông qua đó mà phát huy khả năng sáng tạo lịch sử
của con người.
Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với điều kiện hoàn cảnh
lịch sử nhất định. Con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử sáng tạo ra con
người trong chừng mực nào thì con người lại sáng tạo ra lịch sử trong chừng

10


mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người – chủ thể của lịch sử
với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó.
Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn tác động
vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu của mình thì đồng thời con
người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử
đó.
1.1.1.2. Quan niệm mác-xít về nhân tố con người
- Nhân tố con người :
Nhân tố con người là một khái niệm rộng, bao gồm những nhân tố, những
tiêu chí nói lên vai trò của con người với tư cách là chủ thể của các quan hệ xã

hội trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Các nội dung của nhân tố con người :
Đó là một chỉnh thể các giai cấp, tầng lớp xã hội liên kết nhau chặt chẽ. Sự
tác động qua lại giữa chúng và hoạt động của chúng bảo đảm cho sự phát triển
tiến bộ của xã hội. Nội dung này được phản ánh qua các tiêu chí về ý thức giai
cấp, ý thức trách nhiệm trước cộng đồng, ý thức về nghĩa vụ và quyền lợi công
dân,…
Nhân tố con người được hiểu là những chỉ tiêu về số lượng, chất lượng nói
lên khả năng của con người, của cộng đồng người như những khả năng tiềm tàng
cần khai thác, bồi dưỡng và phát huy. Đó là những tiêu chí về số lượng lao động,
tình hình sức khỏe, trình độ học vấn, tuổi thọ, mức sống…
Đó là những tiêu chí về nhân cách, về chức năng xã hội của con người.
Những tiêu chí này nói lên khả năng sáng tạo của cá nhân trong hệ thống các
quan hệ xã hội, bao gồm năng lực chuyên môn, kỹ thuật được đào tạo lẫn thái độ
lao động.
11


Các mặt nội dung này có mối quan hệ biện chứng. Cần tính đến đầy đủ
những nội dung đó khi hình thành chiến lược về con người trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và nhân tố con người
Mặc dù Hồ Chí Minh không đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về con người,
nhưng trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, Người đã
đưa ra một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về con người. Quan niệm về
con người của Hồ Chí Minh có thể khái quát lại như sau: Con người là một chỉnh
thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội; con người chủ thể của các mối
quan hệ xã hội - lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất và
tinh thần của xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là một thực thể mang tính xã hội.

Tính xã hội đó được hình thành trong tổng hoà các quan hệ xã hội với nhiều cấp
độ khác nhau. Người viết: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng,
bầu bạn, nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" [2, tr.664].
Con người trong quan niệm của Người vừa là mỗi thành viên cụ thể, vừa là
những cộng đồng người trong xã hội. Trong cộng đồng con người Việt Nam, rõ
ràng quan hệ gia đình, anh em, họ hàng là rất quan trọng. Hơn nữa, nét độc đáo
trong cộng đồng người Việt Nam là quan hệ "đồng bào"; cộng đồng đó có cùng
một nguồn gốc "con Rồng, cháu Tiên". Điều đó cắt nghĩa vì sao Hồ Chí Minh rất
coi trọng sức mạnh cộng đồng người Việt Nam, tìm mọi cách để bồi dưỡng và
phát huy sức mạnh đó trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đó là
một trong những cơ sở lý luận, thực tiễn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã dựa
vào đó để đề ra chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam và trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay.
12


Khi nghiên cứu nguồn gốc, bản chất con người, triết học Mác - Lênin đặt
con người trong lịch sử sản xuất vật chất để xem xét và từ quan điểm duy vật lịch
sử đã khẳng định, lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành và phát
triển của con người, làm biến đổi điều kiện tồn tại tự nhiên của con người, biến
đổi bản chất tự nhiên của con người, đồng thời hình thành nên và phát triển bản
chất xã hội của con người. Nhờ lao động mà con người khẳng định mình là chủ
thể sáng tạo mọi giá trị vật chất, tinh thần. Lao động sáng tạo là giá trị nhân văn,
giá trị cao nhất của con người. Tiếp thu quan điểm đó của chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, con người trước hết là người lao động, là nhân
dân lao động. Ơ Việt Nam, Hồ Chí Minh đề cập đến công nhân, nông dân, trí
thức, bộ đội,... và coi họ chính là chủ thể sáng tạo xã hội mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay, luôn chăm lo phát triển
nguồn nhân lực, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng ta xác định rất rõ
rằng: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Bởi vì, mục

tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước suy cho cùng là phải hướng
tới phục vụ con người, vì con người và giải phóng con người.
Chính vì lẽ đó, trước khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH thông qua tại Đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991) Đảng ta khẳng định:
“phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa
đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với
chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”[5; tr.55].

13


Vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng: “Nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”[6;tr.47].

Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đảng cũng đã ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực trong đó có
liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo
dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã
thể hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết nêu: “Lấy
việc phát huy nhân tố con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”.
Đại hội X cũng chỉ ra: “Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người
Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế”[6; tr.47].
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân

lực từ các đại hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “ Đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo.hướng hiện đại ”[6;
tr.50]. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến
lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao”[6 ; tr.50] được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây
được xem là khâu đột phá phù hợp với hoàn cảnh nguồn nhân lực nước ta
hiện nay khi hội nhập kinh tế quốc tế, với sự cạnh tranh diễn ra vô cùng
14


quyết liệt và cuộc cách mạng khoa học, công nghệ. Đó vừa là cơ hội cũng
vừa là thách thức đòi hỏi chúng ta buộc phải nâng cao chất lượng nhân tố
con người. Đại hội XI của Đảng đồng thời cũng xác định rõ phải “ gắn kết
chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ”[8 ;tr.75]. Và để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI cũng
nêu rõ những giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực,
đó là: “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam ”; “đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu
then chốt”; “Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức
khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”[8; tr.77].
Tầm quan trọng của nhân tố con người ngày càng được thể hiện rõ, đặc biệt
trong nền kinh tế tri thức như hiện nay. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, với quan điểm chỉ đạo rằng : “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội”[8; tr.79]
Một lần nữa, gần đây nhất Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội
nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt

Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước lại tiếp tục được Đảng quan
tâm nhấn mạnh với mục tiêu lớn lao “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần
dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng
15


tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự
phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[8; tr80].
Như vậy, với những chiến lược về phát huy nhân tố con người của Đảng ta
trong suốt chặng đường phát triển đất nước rõ ràng đã phát huy hiệu quả và đến
nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trình độ dân trí ngày càng cao, kinh tế
cũng ngày càng khởi sắc và trên đà phát triển ổn định, đời sống của người dân
được cải biến rõ nét, con người được tạo điều kiện phát triển toàn diện, nhân dân
ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều này một lần nữa khẳng định
đường lối đúng đắn của Đảng và chủ trương chính sách của Nhà nước hợp lý
1.2. Những điều kiện cơ bản tác động đến nhân tố con người trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người làm biến đổi đời sống xã hội, đồng thời cũng làm biến đổi chính bản
thân mình và trong tính hiện thực của nó như C.Mác nói bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội. Tất cả đó cho thấy sự tồn tại và phát triển của
con người nói chung, của nguồn lực con người nói riêng chịu sự tác động của
nhiều nhân tố khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan; cả môi trường tự nhiên lẫn
môi trường xã hội
1.2.1. Đặc điểm của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay.
Hội nhập quốc tế của nước ta trong giai đoạn mới diễn ra trong bối cảnh
tình hình quốc tế và nước ta hiện nay hoàn toàn khác trước, kể cả giai đoạn từ
khi nước ta gia nhập WTO năm 2007 đến nay.Cuộc khủng hoảng tài chính – kinh

tế toàn cầu 2008 – 2009 đã thúc đẩy nhanh những chuyển dịch trên phạm vi toàn
cầu cũng như ở từng nước, từng khu vực tạo nên tương quan sức mạnh kinh tế
16


giữa các trung tâm. Xu hướng đa trung tâm, đa tầng nấc đang ngày càng được
khẳng định. Nền tảng kinh tế thế giới có những chuyển dịch căn bản, toàn cầu
hóa và công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ.Xu hướng hội nhập, liên kết kinh
tế đa tầng nấc, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do (FTA), gia tăng mạnh.
Nổi bật là các hiệp định FTA thế hệ mới phát triển nhanh hơn, ngày càng sâu
rộng, gắn kết với phát triển bền vững và ứng phó với các thách thức toàn cầu.
Châu Á – Thái Bình Dương đóng vai trò đầu tàu trong tăng trưởng và liên kết
toàn cầu. Hàng loạt các đàm phán FTA thế hệ mới tạo ra những bước ngoặt trong
liên kết kinh tế ở hầu khắp các khu vực, tiêu biểu là Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP)kết thúc đàm phán 10/2015, Hiệp định đối tác thương
mại – đầu tư xuyên Đại Tây Dương Hoa Kỳ – EU (TTIP), Khuôn khổ đối tác
kinh tế khu vực toàn diện (RCEP) .
1.2.1.1. Đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng XHCN trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
Nói đến KTTT định hướng XHCN có nghĩa không phải là nền kinh tế dựa
trên kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp, không phải giống như nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa và cũng không phải là KTTT XHCN .Bởi lẽ chúng ta đang trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở đó có sự đan xen giữa cái mới và cái cũ , cái hiện đại
và cái lạc hậu.Như vậy,nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta vừa mang tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị
trường; vừa có đặc trưng riêng của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường được thừa nhận là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại, không
phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản và Kinh tế thị trường không đồng nhất với
chủ nghĩa tư bản. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã chỉ rõ: Sản xuất hàng hóa là
thành tựu của nền văn minh nhân loại, nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó

cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã
17


được xây dựng. Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cũng đã chỉ rõ: Nền Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại
được phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng bản thân Kinh tế
thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Lựa chọn Kinh tế thị trường
định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan
giữa Kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội, mà là nắm bắt và vận dụng sáng tạo
xu thế khách quan của Kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, là sự kết tinh
trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong quá trình xây dựng đất nước. Trên cơ sở
nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự đúc rút kinh nghiệm phát
triển kinh tế thị trường trên thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ
trương phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Chủ
trương xây dựng và phát triển Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa
thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng là nền kinh tế mở phù hợp với xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển trong thời đại ngày nay. Nền Kinh tế thị
trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế dựa
trên nguyên tắc và tuân thủ những quy luật của kinh tế thị trường, tức là thể hiện
đầy đủ các đặc trưng chung, cơ bản của nền Kinh tế thị trường như: Các chủ thể
Kinh tế thị trường tồn tại độc lập, tự do kinh doanh, tự chủ về kinh tế;
`- Các loại thị trường cơ bản và các yếu tố cơ bản của tưng loại thị trường
được hình thành đồng bộ;
- Cạnh tranh thực sự là môi trường, là động lực phát triển;
- Giá cả được hình thành trên cơ sở quan hệ cung – cầu;

18


- ( Sự can thiệp của Nhà nước vào nền Kinh tế thị trường nhất thiết phải
theo nguyên tắc thị trường, tôn trọng quy luật thị trường. Kinh tế thị trường ở
Việt Nam là Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, do đó quá trình
phát triển Kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình tăng cường các yếu tố
bảo đảm định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Các yếu tố định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa mang "tính nội sinh" trong quá trình phát triển Kinh tế thị trường ở Việt
Nam là những "dấu hiệu" hay là tiêu chí để nhận biết bản chất và phân biệt Kinh
tế thị trường nước ta với Kinh tế thị trường các nước khác. Tại Đại hội lần thứ
VII của Đảng, vấn đề định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa trong xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
đã được đề cập. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu ra 6 điểm về định hướng
Xã Hội Chủ Nghĩa. Đại hội lần thứ X của Đảng đã phát triển quan điểm của Đại
hội VIII và nêu ra 7 nội dung định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa trong nền Kinh tế
thị trường. Đó là:
-Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh;
-Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao
đời sống nhân dân;
-Đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo,đồng thời khuyến khích mọi người dân
làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát nghèo,từng
bước khá giả hơn;
-Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân;

19



-Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo
dục…giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người;
-Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn khác và thông qua phúc lợi
xã hội;
-Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân bảo đảm vai trò quản lý,điều
tiết nền kinh tế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một hình
thức đặc thù của kinh tế thị trường, thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Đặc
trưng cơ bản nhất của kinh tế thị trường là sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, đa dạng các loại hình doanh nghiệp trong điều kiện
phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. Những đặc trưng này tự nó
không mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Tính chất tư bản chủ nghĩa không phải là
thuộc tính vốn có của kinh tế thị trường. Tính chất của một nền kinh tế thị trường
phụ thuộc vào tính chất của những bộ phận cấu thành của nó, đặc biệt là tính chất
của Nhà nước và tính chất của thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường đó. Một nền kinh tế thị trường mang tính chất tư bản chủ nghĩa
là do trong nền kinh tế đó các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa (doanh nghiệp sử
dụng và bóc lột lao động làm thuê để chiếm đoạt giá trị thặng dư) tạo nên thành
phần kinh tế tư bản chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, chi phối nền kinh tế, điều tiết
nền kinh tế, mang tính chất tư bản chủ nghĩa, là người đại diện cho quyền và lợi
ích của tư bản.

1.2.1.2. Đặc điểm về chính trị - xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
20



Để tìm hiểu về đặc điểm chính trị - xã hội trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế thì đầu tiên chúng ta cần phải hiểu thế nào là hệ thống chính trị.
Có thể thấy Hệ thống chính trị Việt Nam lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng
trong Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (31989) thay cho khái niệm chuyên chính vô sản.
Hệ thống chính trị Việt Nam được ra đời ngày 2 tháng 9 năm 1945 (khi
Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân) thay thế cho hệ thống chính trị thực dân
nửa phong kiến do thực dân pháp áp đặt.
Hệ thống chính trị Việt nam là một chỉnh thể bao gồm: Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân (Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông
dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Cực chiến Binh Việt Nam). Mỗi tổ chức đều có vị trí, vai trò,
phương thức hoạt động khác nhau với những chức năng nhiệm vụ khác nhau
dưới sự lãnh đạo củamột Đảng duy nhất cầm quyền, sự quản lý của nhà nước
nhằm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.Qua đó chúng ta có thể thấy được các đặc
điểm của hệ thống chính trị nước ta như sau:
Thứ nhất nước ta có 1 chính đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền đó là
Đảng cộng sản Việt Nam,thứ hai là có tính thống nhất cao,thứ ba là mang bản
chất dân chủ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát
của nhân dân,thứ tư là có sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc và cuối
cùng là có tổ chức và hoạt động được đảm bảo bằng nguồn ngân sách Nhà nước.
Về mục tiêu của hội nhập quốc tế: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để
tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng
21


và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực kinh tế,
Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị nêu rõ mục tiêu: “mở rộng thị trường, tranh thủ
thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh. Qúa trình hội nhập quốc tế trước hết là đáp ứng
nhu cầu và lợi ích phát triển của đất nước; mặt khác thông qua đó phát huy vai
trò của nước ta trong quá trình hợp tác cùng phát triển khu vực và thế giới, đóng
góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Để hội nhập quốc tế một cách có hiệu quả, Đảng ta
xác định rõ nguyên tắc cơ bản và bao trùm là đảm bảo giữ vững độc lập, tự chủ
và định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ thể hiện trước hết trong quyết
sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đối phó với thắng lợi các thách
thức đặt ra của quá trình hội nhập; chủ động lựa chọn các tổ chức tham gia, các
đối tác và hình thức quan hệ, thời điểm chung; chủ động điều chỉnh chính sách
cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hội nhập. Đường lối và chính sách đối
ngoại rộng mở luôn dựa trên sự kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản,
bao trùm là vì hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Trong đóphát
triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên tắc cụ
thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ
lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà
bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Về tư tưởng chỉ đạo
hội nhập quốc tế: Xuất phát từ mục tiêu và lợi ích của hội nhập quốc tế, Đảng ta
đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại nói chung và hội nhập quốc tế nói riêng. Theo
đó, trong hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và
chủ nghĩa xã hội (Xã Hội Chủ Nghĩa), đồng thời phải rất sáng tạo, năng động,
22


linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng
như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà
Việt Nam có quan hệ. Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm

“dĩ bất biến ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm
dẻo, linh hoạt về sách lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc xử lý các
vấn đề quốc tế của nước trong quá trình hội nhập. Quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ
đạo nêu trên, Việt Nam chú trọng mở rộng quan hệ quốc tế cả song phương và đa
phương nhưng có nguyên tắc, mà nguyên tắc cao nhất, đồng thời cũng là lợi ích
dân tộc cao nhất, đó là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển theo
định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế là vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh, đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Trong hội nhập quốc tế về kinh
tế, Đảng ta xác định rõ 5 quan điểm chỉ đạobao gồm: Một là: Phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng
Xã Hội Chủ Nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc; an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của
toàn dân, trong quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
mọi thành phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh
và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo,
khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối
tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ,
thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Bốn là: Nhận thức đầy
đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù
hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng những quy định của các tổ
chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia. Năm là: Kết hợp chặt chẽ quá trình
23


hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng
cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những âm mưu thông qua hội
nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hoà bình đối với nước ta. Phương châm cơ bản

để tiến hành hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên tắc cùng có lợi trong quan hệ
song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này, một mặt không để thiệt hại
đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng, mặt khác phải chấp nhận một sự
chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức độ đóng góp của các bên tham
hợp tác. Trong hợp tác liên kết và hội nhập quốc tế cần giữ vững nguyên tắc vừa
hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới mục tiêu, bảo vệ
được lợi ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh giác, không mơ
hồ trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế để can thiệp, áp đặt
về chính trị.
1.2.1.3. Đặc điểm của văn hoá trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta đang trong quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với các nước khác;
chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị văn hóa tiến
bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham gia vào các tổ
chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo dục và xã hội khu vực và hợp tác chặt
chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng một cộng đồng văn hóa-xã hội
rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu (ví dụ, tham gia Cộng đồng văn
hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và thực hiện các hiệp định song
phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dục-xã hội với các nước.
Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh vai trò của văn hóa trong phát triển đất
nước. Đại hội đề ra các phương hướng, nhiệm vụ phát triển văn hóa, chủ động
hội nhập quốc tế về văn hóa. Để làm chủ quá trình hội nhập quốc tế cần hiểu
được các giá trị, chuẩn mực chung, hiểu được sự tác động qua lại giữa các yếu tố
của văn hóa chung, quốc gia dân tộc và hệ quả của sự tác động trong phát triển
24


đất nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh vai trò của
văn hóa trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, giai đoạn chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế như sau: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù
hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội

nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa. Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với
xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa” (1). Để thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội, làm chủ quá trình hội nhập quốc tế, cần hiểu được các
giá trị, các chuẩn mực chung, hiểu được sự tác động qua lại giữa những yếu tố
của văn hóa chung (hội nhập) và văn hóa quốc gia - dân tộc, hệ quả của sự tác
động đó trong phát triển đất nước.

2.PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NGHỆ AN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.

2.1. KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ YÊU CẦU VỀ VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI.
2.1.1Khái niệm nhân tố con người?
25


×