Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

LUẬN văn LUẬT HÀNH CHÍNH một số vấn đề về THẨM PHÁN và hội THẨM NHÂN dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.37 KB, 77 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

  

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 31 (2005 – 2009)
ĐỀ TÀI

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Đinh Thanh Phƣơng

Nguyễn Ngọc Đạt

Bộ môn: Luật hành chính

MSSV: 5054724
Lớp: Luật hành chính

Caàn Thô, 4/2009
GVHD: Đinh Thanh Phƣơng



1

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN

…………………………………………………………………………….…………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………........../.
Cần Thơ, ngày……tháng……năm 2009

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

2

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ
TÒA ÁN NHÂN DÂN ................................................................................................3
1.1. VỊ TRÍ PHÁP LÝ, VAI TRÕ, CHỨC NĂNG CỦA TÕA ÁN NHÂN DÂN.....3
1.1.1. Vị trí pháp lý và vai trò của Tòa án nhân dân ..............................................3
1.1.2. Chức năng của Tòa án nhân dân .................................................................4
1.2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN ...........................................................................................6
1.2.1. Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán ...............................................................6
1.2.2. Nguyên tắc khi xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm

nhân dân ngang quyền với Thẩm phán .................................................................7
1.2.3. Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân
theo pháp luật .......................................................................................................8
1.2.4. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số .........................9
1.2.5. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai ......................................................... 10
1.2.6. Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật .......................... 11
1.2.7. Nguyên tắc khi xét xử đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo ........... 12
1.2.8. Nguyên tắc bảo đảm cho công dân đƣợc sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân
tộc mình trƣớc Tòa án ........................................................................................ 12
1.2.9. Nguyên tắc Chánh án Tòa án nhân dân các cấp đặt dƣới sự giám sát của cơ
quan quyền lực nhà nƣớc cùng cấp .....................................................................13
1.3. CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN ........................................................................................... 14
1.3.1. Tòa án nhân dân tối cao ............................................................................ 14
1.3.2. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng (gọi tắt là Tòa án
nhân dân cấp tỉnh) .............................................................................................. 16
1.3.3. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là Tòa án
nhân dân cấp huyện)........................................................................................... 19
1.3.4. Các Tòa án quân sự .................................................................................. 21
CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN ........................................................... 23
2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THẨM PHÁN .............................. 23
2.1.1. Khái niệm Thẩm phán .............................................................................. 23
GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

3

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt



Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

2.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán ....................................................................23
2.1.3. Tuyển chọn Thẩm phán ............................................................................ 24
2.1.3.1. Tiêu chuẩn Thẩm phán ....................................................................... 24
2.1.3.2. Thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán ....30
2.1.4. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán ............................... 35
2.2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN ............ 38
2.2.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân ..................................................................38
2.2.2. Vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân ........................................................ 39
2.2.3. Tuyển chọn Hội thẩm nhân dân ................................................................ 40
2.2.3.1. Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân ........................................................... 40
2.2.3.2. Thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân .................... 43
2.2.4. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân ................... 46
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM
NHÂN DÂN ............................................................................................................. 49
3.1. THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÕA ÁN NHÂN DÂN .................. 49
3.2. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA THẨM PHÁN .......................................... 50
3.2.1. Tình trạng nhiều Thẩm phán vi phạm pháp luật ........................................ 50
3.2.2. Tình trạng thiếu Thẩm phán ...................................................................... 53
3.2.3. Vấn đề trình độ, năng lực chuyên môn và ý thức trách nhiệm đối với công
việc của Thẩm phán ........................................................................................... 55
3.2.4. Vấn đề đảm bảo tính độc lập trong hoạt động xét xử của Thẩm phán ........ 58
3.3. THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN ........................ 61
3.3.1. Vấn đề trình độ, năng lực của Hội thẩm nhân dân .....................................61

3.3.2. Vấn đề kiêm nhiệm và chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử của
Hội thẩm nhân dân ........................................................................................... 63
3.3.3. Vấn đề ý thức trách nhiệm trong việc tham gia xét xử của
Hội thẩm nhân dân ............................................................................................. 65
3.3.4. Vấn đề quy định về việc miễn nhiệm và bãi nhiệm đối với
Hội thẩm nhân dân ............................................................................................. 66
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 68

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

4

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy nhà nƣớc ta, Tòa án nhân dân có vị trí vô cùng quan trọng. Điều 127
Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: “Tòa án
nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa
án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”. Điều 72 Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định: “Không ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Đây là cơ sở pháp lý để xác định vị trí quan trọng của Tòa án nhân dân trong hệ
thống các cơ quan tƣ pháp. Tòa án nhân dân là một trong bốn hệ thống cơ quan thuộc
bộ máy nhà nƣớc, là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là

nơi biểu hiện tập trung quyền tƣ pháp. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình theo quy định của pháp luật, hệ thống ngành Tòa án đã góp phần rất to lớn bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân.
Có thể thấy, trong nhiều giai đoạn lịch sử của Nhà nƣớc ta, Tòa án nhân dân đã
trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ chức cũng nhƣ phƣơng thức hoạt động
để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề của nền tƣ pháp, nhất là trong giai đoạn xây
dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung, những thay đổi, cải cách
của hệ thống Tòa án đã mang lại những kết quả tích cực về tổ chức và hoạt động, đáp
ứng các yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ chính trị đặt ra trong từng giai đoạn bảo vệ
và xây dựng đất nƣớc. Tuy nhiên, trƣớc yêu cầu đặt ra từ thực tiễn xét xử cũng nhƣ
yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức và thực hiện
quyền tƣ pháp thì đòi hỏi ngành Tòa án phải đƣợc cải cách mạnh mẽ từ nhận thức,
pháp luật, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực phục vụ việc xét xử. Những năm qua, đội
ngũ Thẩm phán Tòa án các cấp luôn thiếu về số lƣợng, trình độ năng lực, kinh nghiệm
công tác và phẩm chất đạo đức vẫn còn hạn chế, bất cập trƣớc yêu cầu của công tác
xét xử. Bên cạnh đó, đội ngũ Hội thẩm nhân dân vẫn chƣa nhận thức hết vị trí, vai trò
của mình, xem việc tham gia xét xử ở Tòa án chỉ là nhiệm vụ, là hình thức. Điều đó đã
ảnh hƣởng không nhỏ đến chất lƣợng của hoạt động xét xử. Để tìm ra những nguyên
nhân và khắc phục những hạn chế trong quá trình hoạt động của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân, ngƣời viết đã chọn đề tài “Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân” làm luận văn tốt nghiệp.
GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

5

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt



Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Đề tài hƣớng tới mục đích làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến vị trí, vai trò, chức
năng, các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức và thẩm quyền
xét xử của Tòa án nhân dân. Sau đó ngƣời viết sẽ đi sâu vào phân tích vị trí, vai trò,
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức Thẩm phán cũng nhƣ thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm
nhân dân. Song song đó, ngƣời viết cũng đƣa ra những thực trạng và những nguyên
nhân ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, đồng
thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân trong công cuộc cải cách tƣ pháp hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong giới hạn của Luận văn này, ngƣời viết chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn
đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nhƣ: khái niệm, vị trí, vai trò, nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm, tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Thẩm phán cũng nhƣ thủ tục bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân.
Còn những nội dung khác do sự hiểu biết của ngƣời viết còn hạn hẹp và một số văn
bản của Bộ chính trị thuộc dạng tài liệu mật nên ngƣời viết không thể nghiên cứu
đƣợc trọn vẹn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở của Luận văn là những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về chế định
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, những quy định của pháp luật về Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân. Ngƣời viết sử dụng các phƣơng pháp so sánh, phân tích tổng hợp,
thống kê,…để thực hiện việc nghiên cứu.
5. Kết cấu luận văn
Kết cấu của luận văn tốt nghiệp “Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân

dân” ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính gồm ba
chƣơng sau đây:
Chƣơng 1: Một số vấn đề khái quát chung về Tòa án nhân dân
Chƣơng 2: Các quy định của pháp luật về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
Chƣơng 3: Thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp để nâng cao hiệu
quả hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
Do giới hạn về thời gian và nguồn tài liệu tham khảo cũng nhƣ vấn đề nhận thức
của cá nhân chƣa thật sâu sắc và đầy đủ nên chƣa thể hoàn toàn đáp ứng một cách
tuyệt đối, đầy đủ các yêu cầu đặt ra. Rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của quý
thầy cô và các bạn để cho đề tài này đƣợc hoàn thiện hơn.

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

6

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ
TÒA ÁN NHÂN DÂN

1.1. VỊ TRÍ PHÁP LÝ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1.1. Vị trí pháp lý và vai trò của Tòa án nhân dân
Tƣ pháp là một khái niệm có nội dung phong phú. Dƣới góc độ “thể chế nhà

nước” thì tƣ pháp là một phần hoạt động của nhà nƣớc góp phần tạo nên chính thể nhà
nƣớc. Đối với các nhà nƣớc tƣ sản khái niệm “tư pháp” dùng để chỉ hoạt động xét xử
là chính, còn đối với nhà nƣớc ta “tư pháp” dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan tƣ
pháp gồm có Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, đoàn luật sƣ,
cơ quan thi hành án. Nhƣng trong đó chủ yếu chỉ hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân và hoạt động công tố, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân.
Trong hệ thống tƣ pháp, Tòa án nhân dân giữ một vị trí đặc biệt. Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến
năm 2020” đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư
pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm
việc; trong đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án nhân dân thể hiện vai trò quan trọng trong việc giữ
gìn, bảo đảm công lý, bảo vệ pháp luật và quyền lợi của công dân (1). Tòa án hoạt động
nhân danh quyền lực Nhà nƣớc để phán quyết. Do đó, các phán quyết của Tòa án
đƣợc đảm bảo thi hành bởi sự cƣỡng chế của Nhà nƣớc. Phán quyết của Tòa án có
hiệu lực bắt buộc, mọi chủ thể liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành phán quyết của
Tòa án(2). Không một cơ quan, một tổ chức hay một cá nhân nào đƣợc kết tội công dân
của Nhà nƣớc, ngoại trừ Tòa án. Chỉ có Tòa án mới có quyền nhân danh Nhà nƣớc
phán xét một ngƣời có tội hay không có tội(3).
Để thực hiện vai trò này, Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất đƣợc Hiến pháp
giao cho nhiệm vụ xét xử các vụ án, các vụ tranh chấp trong những hoạt động của xã
hội dựa trên cơ sở của pháp luật. Điều 127 Hiến pháp 1992 quy định: “Tòa án nhân
dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác
do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt”.
(1)

Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002
Điều 136 Hiến pháp 1992 và Điều 12 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002
(3)

Điều 72 Hiến pháp 1992 và Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự 2003
(2)

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

7

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Ngoài việc quy định một cách dứt khoát là hoạt động xét xử chỉ đƣợc giao cho
Tòa án, Hiến pháp còn quy định rõ các loại Tòa án đƣợc thành lập: Tòa án nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân địa phƣơng, Tòa án quân sự, các Tòa án khác theo quy định
của Quốc hội bằng một đạo luật. Quy định này chứng tỏ tầm quan trọng của hoạt động
xét xử, việc thành lập các Tòa án đều phải do cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất
quyết định.
Cụ thể hóa nguyên tắc hiến định nêu trên, điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
2002 quy định: “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”.
Ngoài nhiệm vụ xét xử, trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của
nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản , tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo
dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng
những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
các vi phạm pháp luật khác.

Bên cạnh thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, các vụ việc tranh chấp
về lao động, về kinh tế, Tòa án còn có thẩm quyền giải quyết những khiếu kiện về
quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định kỷ luật buộc thôi việc của cơ
quan hành chính nhà nƣớc hoặc của ngƣời có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nƣớc. Đây là loại tranh chấp mới theo tinh thần ngày càng mở rộng đối tƣợng,
phạm vi cần phải xét xử trong hệ thống Tòa án. Ngày 1/7/1996 hệ thống Tòa án nhân
dân có thêm Tòa hành chính, Tòa lao động đƣợc thành lập ở cấp tỉnh và Trung ƣơng,
ở cấp huyện thì phân công Thẩm phán phụ trách.
1.1.2. Chức năng của Tòa án nhân dân
Nói đến chức năng của Tòa án nhân dân cũng nhƣ các cơ quan nhà nƣớc khác
là xác định những phƣơng diện hoạt động chủ yếu của cơ quan nhà nƣớc đó. Đối với
Tòa án nhân dân có nhiều hoạt động khác nhau, nhƣng hoạt động chủ yếu vẫn là xét
xử. Cũng nhƣ bất kỳ một cơ quan nhà nƣớc nào khác, các Tòa án nhân dân đều phải
quản lý cán bộ, quản lý ngân sách, quản lý cơ sở vật chất và tang vật của Tòa án mình.
Tòa án nhân dân cũng phải phối hợp với các cơ quan nhà nƣớc khác, các tổ chức xã
hội trong việc tuyên truyền và bảo vệ pháp luật, góp phần giáo dục công dân trung
thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của
cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm, các vi phạm pháp
luật khác,...Tuy nhiên hoạt động chủ yếu của Tòa án nhân dân vẫn là hoạt động xét xử
các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh
GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

8

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân


thƣơng mại, và các vụ án khác. Vì vậy, ngay tại điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 1
Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Quốc hội đã xác định: “Tòa án nhân dân tối cao,
các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật
định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Do đó,
ở nƣớc ta chỉ có các Tòa án mới có quyền xét xử và xét xử là chức năng duy nhất của
các Tòa án. Hoạt động xét xử của các Tòa án có những đặc trƣng khác với việc giải
quyết những đơn từ khiếu nại, tố cáo hoặc những hành vi vi phạm pháp luật của các
cơ quan nhà nƣớc khác ở những điểm sau đây:
 Thứ nhất, chỉ có các Tòa án mới đƣợc quyền xét xử các vụ án hình sự (những
vụ án mà hành vi vi phạm pháp luật đƣợc coi là nguy hiểm cho xã hội, đƣợc quy định
trong Bộ luật hình sự phần riêng), các cơ quan nhà nƣớc khác không có quyền giải
quyết. Do đó, căn cứ vào những hành vi vi phạm pháp luật, chỉ có Tòa án mới có
quyền phán quyết một công dân có tội hay không có tội (Điều 72 Hiến pháp 1992); và
nếu có tội, chỉ có Tòa án mới có quyền áp dụng các chế tài hình sự.
 Thứ hai, hoạt động xét xử của Tòa án phải tuân theo một trình tự hết sức
nghiêm ngặt. Trình tự này đƣợc quy định một cách chi tiết trong những văn bản pháp
luật nhất định nhƣ trong Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự,…Nếu vi
phạm những quy định trong các văn bản trên thì bản án, quyết định của Tòa án có thể
bị kháng cáo, kháng nghị và ngƣời cố tình vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
 Thứ ba, trong nhiều trƣờng hợp, sau khi các cơ quan nhà nƣớc khác đã giải
quyết, nhƣng các đƣơng sự chƣa thỏa mãn và khiếu kiện đến Tòa án nhân dân thì Tòa
án nhân dân sẽ xét xử và quyết định của Tòa án nhân dân sẽ thay thế các quyết định
trƣớc(4). Ví dụ: Cán bộ, công chức nhà nƣớc nếu không đồng ý với quyết định buộc
thôi việc của Thủ trƣởng cơ quan mình, có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân.
Quyết định của Tòa án nhân dân là quyết định cuối cùng thay thế cho quyết định trƣớc
đó của Thủ trƣởng cơ quan có ngƣời khiếu nại.
Cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân ngày càng trở thành hoạt động chủ yếu và đi vào nề nếp. Để Tòa án

nhân dân tối cao tập trung vào việc hƣớng dẫn xét xử, giám đốc xét xử và trực tiếp xét
xử, từ năm 1980 đến nay Quốc hội đã giao việc đào tạo cán bộ Tòa án cho Bộ tƣ pháp.
Hiện nay, việc thi hành án dân sự đƣợc Quốc hội giao cho cơ quan thi hành án dân sự
(4)

Trƣớc khi khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan nhà
nƣớc, tổ chức phải khiếu nại với cơ quan nhà nƣớc, ngƣời đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành
chính mà họ cho là trái pháp luật; trong trƣờng hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, thì họ có
quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan Nhà nƣớc, ngƣời đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi
hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án có thẩm quyền.

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

9

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

cấp tỉnh và huyện. Nhƣ vậy từng bƣớc, Quốc hội đã chuyển giao một số nhiệm vụ,
quyền hạn của Tòa án cho các cơ quan khác để Tòa án tập trung vào hoạt động xét xử.
Mặt khác, các văn bản pháp luật về tố tụng cũng đƣợc ban hành, nhƣ Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 , pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính các năm 1996, 1998, 2006, đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt
động xét xử của Tòa án. Đồng thời, để hoạt động xét xử có hiệu quả, cán bộ của ngành
Tòa án cũng ngày càng đƣợc tiêu chuẩn hóa trên cơ sở của Pháp lệnh về Thẩm phán

và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002.
1.2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN
Tòa án là một bộ phận cấu thành bộ máy nhà nƣớc nên cũng đƣợc tổ chức và
hoạt động theo những nguyên tắc chung của việc tổ chức và hoạt động bộ máy nhà
nƣớc nhƣ: tập quyền xã hội chủ nghĩa, tập trung dân chủ, bình đẳng dân tộc, pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, Tòa án là cơ quan tài
phán, có vị trí đặc biệt trong hệ thống các cơ quan nhà nƣớc. Công tác của Tòa án
nhân dân có những nét đặc thù so với công tác của các cơ quan nhà nƣớc khác nên các
Tòa án nhân dân đƣợc tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc riêng dựa trên nền
tảng những nguyên tắc chung.
1.2.1. Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi
tính thống nhất của pháp luật. Hoạt động xét xử của các Tòa án là hoạt động áp dụng
pháp luật, cũng đòi hỏi tính thống nhất để đảm bảo cho mọi công dân đƣợc bình đẳng
trƣớc pháp luật khi tham gia vào quá trình tố tụng tại phiên tòa.
Nguyên tắc này đã đƣợc quy định ngay từ Hiến pháp 1946: “Các viên Thẩm
phán đều do Chính phủ bổ nhiệm”(5). Nhƣng từ năm 1960 đến trƣớc khi có Hiến pháp
1992, chế độ bầu cử Thẩm phán đã đƣợc thực hiện ở các cấp Tòa án nhân dân. Hiến
pháp 1959 quy định: “Các Thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương do Hội
đồng nhân dân cùng cấp bầu và bãi nhiệm”(6). Hiến pháp 1980 tiếp tục xác định: “Chế
độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện ở Tòa án nhân dân các cấp”(7). Với chế độ bầu
cử Thẩm phán có những ƣu điểm nhƣ: bảo đảm cho nhân dân đƣợc trực tiếp lựa chọn
những ngƣời có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp thay mặt mình xét
xử để bảo vệ lợi ích nhà nƣớc, lợi ích tập thể, lợi ích chính đáng của công dân. Nhƣng
cơ chế này cũng bộc lộ không ít những nhƣợc điểm nhƣ: do lệ thuộc về tổ chức nên
(5)

Điều 64 Hiến pháp 1946
Điều 98 Hiến pháp 1959

(7)
Điều 129 Hiến pháp 1980
(6)

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

10

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

hoạt động xét xử của các Tòa án cũng chịu sự áp đặt từ phía địa phƣơng (chủ yếu là từ
phía Ủy ban nhân dân) làm cho tính độc lập khi xét xử của Tòa án bị hạn chế; do
nhiệm kỳ công tác ngắn nên làm cho Thẩm phán chƣa yên tâm công tác; trình độ,
năng lực xét xử của đội ngũ Thẩm phán chƣa đƣợc quan tâm và đánh giá đúng
mức,…Vì thế đã ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động xét xử. Do vậy,
Hiến pháp 1992 đã thay nguyên tắc bầu Thẩm phán bằng nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm
phán(8).
Nguyên tắc bổ nhiệm Thẩm phán đảm bảo cho nhà nƣớc lựa chọn đƣợc những
ngƣời có đủ điều kiện nhƣ: bằng cấp ở trình độ Đại học Luật, kinh nghiệm trong công
tác xét xử. Chế độ bổ nhiệm còn tạo ra môi trƣờng pháp lý thuận lợi để Thẩm phán
đƣợc độc lập khi xét xử, yên tâm công tác, có điều kiện tích lũy kinh nghiệm, nâng
cao trình độ chuyên môn và có ý thức trách nhiệm cá nhân hơn trong việc bảo đảm
nguyên tắc: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật”.
Tuy nhiên, cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay chƣa tạo cơ hội cho ngƣời có phẩm
chất, năng lực trong hệ thống chính trị trở thành Thẩm phán (nguồn bổ nhiệm chủ yếu

vẫn từ khối thƣ ký Tòa án); chƣa phát huy đƣợc vai trò của Quốc hội, Ủy ban thƣờng
vụ Quốc hội với tƣ cách là cơ quan thể hiện chủ quyền nhân dân.
Theo quy định của luật tổ chức Tòa án nhân dân: chỉ có Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao là do Quốc hội bầu còn các Phó chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao, Chánh án, các Phó chánh án, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ƣơng do Chủ tịch
nƣớc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức(9). Cũng theo quy định của pháp luật hiện
hành: Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phƣơng, Tòa án quân sự quân khu và tƣơng
đƣơng, Tòa án quân sự khu vực; Chánh án, Phó chánh án các Tòa án nhân dân địa
phƣơng do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức(10).
Điều này đã thể hiện nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành Tòa án ngày càng
đƣợc chủ động và nâng cao hơn.
1.2.2. Nguyên tắc khi xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và Hội
thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán
Để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng của pháp luật, việc xét xử không chỉ có
những ngƣời có trình độ chuyên môn mà còn có đại diện từ phía nhân dân. Điều 129
Hiến pháp 1992 quy định: “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân,
của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật.
Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”.

(8)

Điều 128 Hiến pháp 1992
Khoản 2 Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002
(10)
Khoản 3 và 4 Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002
(9)

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

11


SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân là những ngƣời lao động hoặc đang
ở trong quân ngũ thay mặt cho nhân dân, cho quân nhân tham gia vào hoạt động xét
xử để cho các quyết định của Tòa án không những hợp lý mà còn hợp tình. Chính vì
họ là những ngƣời sống gần gũi với nhân dân, nắm bắt đƣợc tâm tƣ, nguyện vọng của
ngƣời dân. Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân tại các phiên tòa nhằm đảm bảo cho
Tòa án khi xét xử phải tính đến những phong tục, tập quán và nguyện vọng của nhân
dân, để các quyết định của Tòa án đƣợc “thấu tình, đạt lý”.
Trong xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngang quyền với nhau, cùng
nhau thảo luận, bàn bạc để đi đến một quyết định thống nhất. Tuy nhiên trên thực tế
do nhiều hạn chế khác nhau nhƣ: trình độ, năng lực xét xử của đội ngũ Hội thẩm nhân
dân thấp; đa số Hội thẩm nhân dân chƣa mạnh dạn tranh luận, đƣa ra quyết định tại
phiên tòa; Hội thẩm nhân dân kiêm chức có rất ít thời gian nghiên cứu hồ sơ, còn đối
với Hội thẩm nhân dân đã nghỉ hƣu thì phần lớn sức khỏe bị hạn chế dẫn đến chất
lƣợng khi tham gia xét xử chƣa cao. Chính vì vậy Hội thẩm nhân dân vẫn còn đóng
vai trò phụ trong xét xử.
1.2.3. Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ
tuân theo pháp luật
Nguyên tắc này đã đƣợc xác định từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
trong Thông tƣ số 1264 của Bộ trƣởng Bộ nội vụ ngày 25/4/1946: “Tòa án là những
cơ quan chuyên môn biệt lập, không phải đặt dưới quyền kiểm soát của các cơ quan
hành chính”. Đến Hiến pháp 1946 Quốc hội cũng quy định: “Trong khi xét xử, các
viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”.

Hiện nay, nguyên tắc này đã đƣợc quy định tại Điều 130 Hiến pháp 1992 cũng nhƣ tại
Điều 5 Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa, nhằm bảo đảm tính khách quan trong quá trình xét xử và tính
thống nhất của pháp luật.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ràng buộc bởi ý kiến
của bất kỳ cá nhân hoặc cơ quan nào. Họ độc lập đánh giá chứng cứ đã thu thập đƣợc
tại phiên tòa, độc lập xem xét các tình tiết có liên quan đến vụ án. Đồng thời trên cơ
sở đó áp dụng những quy định của pháp luật để ra quyết định chính xác. Các cơ quan
nhà nƣớc khác không đƣợc can thiệp vào việc xét xử của Tòa án. Tòa án cũng không
đƣợc lệ thuộc vào ý kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, mà phải có
kết luận riêng, căn cứ vào pháp luật mà xử lý chính xác. Trong trƣờng hợp phát hiện
các chứng cứ không đủ sức thuyết phục, Tòa án có quyền đình chỉ vụ án không tiến
hành xét xử hoặc tạm đình chỉ để tiếp tục điều tra.

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

12

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Đối với một bản án có thể phải xét xử nhiều lần. Do đó, giữa các Tòa án cũng
độc lập với nhau khi xét xử theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm. Đối với Tòa án xét xử sơ thẩm không phải “xin ý kiến chỉ đạo” của Tòa án
cấp trên trong từng vụ án cụ thể. Tòa án cấp trên không đƣợc phép dùng mệnh lệnh
hành chính buộc Tòa án cấp dƣới xét xử theo một hƣớng nào đó trong các vụ án.

Ngƣợc lại, Tòa án xét xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm và tái thẩm không lệ thuộc
vào những chứng cứ, kết luận và quyết định của Tòa án đã xét xử sơ thẩm mà phải tự
mình xác định lại chứng cứ, quy phạm thích hợp để áp dụng và có quyết định cụ thể.
Đảng lãnh đạo Tòa án thông qua đƣờng lối xét xử hay bằng cách xây dựng tổ chức
Đảng vững mạnh trong cơ quan Tòa án chứ không can thiệp vào nội dung giải quyết
một vụ án cụ thể.
Khi xét xử, các thành viên trong Hội đồng xét xử cũng phải độc lập với nhau
trong việc xác định chứng cứ phân tích và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để áp
dụng. Do đó, trƣớc khi xét xử đòi hỏi các thành viên trong Hội đồng xét xử phải
nghiên cứu kỹ hồ sơ của vụ án. Đồng thời phải có những dự kiến nhất định để chủ
động trong việc thẩm vấn, xác định chứng cứ, xác định vi phạm cần áp dụng và có
quyết định cụ thể. Ngay tại phòng nghị án, các thành viên trong Hội đồng xét xử cũng
độc lập về quan điểm để tranh luận đối với chứng cứ và quy phạm cần áp dụng trƣớc
khi biểu quyết.
1.2.4. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, một mặt do chƣa có kinh nghiệm trong tổ
chức nhà nƣớc, mặt khác do thiếu cán bộ nên nguyên tắc này chƣa đƣợc xác lập, khi
đó pháp luật quy định: “Tại phiên tòa, Thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký,
lập biên bản án từ”(11). Hiến pháp 1946 vẫn chƣa xác định nguyên tắc này. Chỉ từ sau
khi cải cách tƣ pháp, nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số mới
đƣợc quy định trong luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 tại Điều 12. Từ đó đến
nay, nguyên tắc này đều đƣợc xác định trong các Hiến pháp 1980 và 1992 cũng nhƣ
trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992 và 2002. Hiện nay, nguyên
tắc này đƣợc quy định tại Điều 131 Hiến pháp 1992 và nguyên tắc này bắt nguồn từ
nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc.
Xét xử là một hoạt động đặc thù của nhà nƣớc nhằm bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, có liên quan đến vận mệnh cá nhân, gia đình, quyền và lợi ích của nhà
nƣớc, các tổ chức xã hội. Do đó công tác xét xử luôn cần phải thận trọng, có quyết
định đúng đắn, đòi hỏi trí tuệ của cả tập thể, vì thế nhất thiết phải thành lập Hội đồng
xét xử.

(11)

Điều thứ 10 Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

13

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Hội đồng xét xử có thể gồm các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, cũng có thể
chỉ có các Thẩm phán, nhƣng phải ít nhất từ ba ngƣời trở lên. Theo quy định của pháp
luật tố tụng thì thành phần Hội đồng xét xử bao gồm:
 Đối với các vụ án hình sự thì thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: một
Thẩm phán và hai Hội thẩm; trong trƣờng hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức
tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm; đối với vụ án mà
bị cáo bị đƣa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội
đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Thành phần Hội đồng xét xử phúc
thẩm gồm: ba Thẩm phán và trong trƣờng hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm.
 Đối với các vụ án dân sự, hành chính thì thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
gồm: một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; trong trƣờng hợp đặc biệt thì Hội
đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Thành phần
Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán.
Hội đồng xét xử làm việc tập thể, cùng nghiên cứu hồ sơ vụ án, cùng thẩm vấn
để xác minh các chứng cứ và chịu trách nhiệm tập thể trƣớc Tòa án cấp mình và Tòa

án cấp trên về kết quả phiên tòa.
Trên thực tế, do sự chênh lệch về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm xét xử
giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nên nguyên tắc này có khi mang tính hình
thức. Đồng thời từ thực tiễn xét xử của các Tòa án, để xét xử nhanh gọn, đỡ tốn kém,
đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ đã rõ ràng, Tòa án có thể xét xử theo thủ tục
rút gọn (không phải thành lập Hội đồng xét xử).
1.2.5. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai
Nguyên tắc này đã đƣợc xác định từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 tại
Điều 67 Hiến pháp 1946. Hiện nay, nguyên tắc này vẫn đƣợc xác định tại Điều 131
Hiến pháp 1992. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai bắt nguồn từ nguyên tắc tập
quyền xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Nguyên tắc
này yêu cầu Thẩm phán và Hội thẩm phải luôn luôn nâng cao trình độ pháp luật, tri
thức xã hội, văn minh, văn hóa trong tố tụng phiên tòa, bảo đảm tính uy nghiêm và
sức mạnh của cơ quan quyền lực.
Mục đích nguyên tắc này nhằm thu hút đông đảo nhân dân tham gia phiên tòa
xét xử, đảm bảo sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án, cũng
nhƣ tác dụng giáo dục, phòng ngừa của hoạt động xét xử.
Tòa án có thể xét xử tại phòng xử án của Tòa án, cũng có thể xét xử lƣu động
tại nơi xảy ra vụ án. Trong mọi trƣờng hợp, địa điểm và thời gian phải đƣợc thông báo
rõ ràng cho bị cáo, ngƣời bị hại và các đƣơng sự cũng nhƣ những ngƣời có liên quan
cùng biết.
GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

14

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp


Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Công dân từ 16 tuổi trở lên đều có quyền tham dự phiên tòa, đƣợc lắng nghe
phát biểu của Tòa án cũng nhƣ những ngƣời có liên quan đến vụ án(12). Trong những
trƣờng hợp cần thiết, để tham khảo ý kiến của nhân dân, Tòa án có thể cho phép
những ngƣời tham dự phiên tòa đƣợc phép phát biểu ý kiến.
Tòa án cũng có thể xử kín một phần hay toàn bộ vụ án. Đối với những vụ án
đƣợc xét xử kín, nói chung mọi ngƣời không đƣợc phép tham dự. Đối với những vụ án
có liên quan đến bí mật quốc gia, bí mật quân sự hay những vụ án về tình dục,…mà
những tình tiết của vụ án không có lợi về mặt giáo dục cũng nhƣ không có lợi cho
ngƣời bị hại,…Tòa án có thể quyết định cho những ngƣời có liên quan đến vụ án tham
dự một phần hay toàn bộ vụ án. Dù xử công khai hay xử kín, quyết định của Tòa án
phải đƣợc đọc công khai khi tuyên án để mọi ngƣời đƣợc biết.
Ngoài ra, thực hiện nguyên tắc xét xử công khai cũng là tạo điều kiện để thực
hiện tốt nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân kiểm tra đối với công tác xét xử của Tòa án.
1.2.6. Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật
“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” là một trong những quyền cơ
bản của công dân Việt Nam, đã đƣợc xác định từ sau Cách mạng tháng Tám năm
1945. Hiện nay, quyền cơ bản này của công dân đƣợc Quốc hội xác định tại Điều 52
Hiến pháp 1992. Trên cơ sở của quy định này, Điều 8 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2002 quy định: “Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần
xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ
sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật”.
Nguyên tắc “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” là một nguyên tắc
cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong hoạt động xét xử, nguyên tắc này
đảm bảo cho vụ án đƣợc xét xử khách quan, toàn diện và đầy đủ. Nội dung nguyên tắc
này đƣợc thể hiện nhƣ sau:
 Mọi hành vi phạm tội, mọi tranh chấp pháp lý do bất kỳ ai thực hiện đều đƣợc
Tòa án xét xử nghiêm minh, công khai và bình đẳng.

 Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố tụng, cho
nên bất cứ ai tham gia tố tụng cũng đƣợc hƣởng những quyền và phải thực hiện những
nghĩa vụ đó. Mọi ngƣời đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, không phân biệt nam nữ,
dân tộc, tín ngƣỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội.
Nguyên tắc này đƣợc cụ thể hóa trong các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự, dân sự, hành chính. Tuy mỗi luật tố tụng có những quy định đặc thù riêng về
quyền, nghĩa vụ của những cơ quan và ngƣời tham gia tố tụng. Song, họ luôn bình
(12)

Khoản 4 Điều 197 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và khoản 1 Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự 2004

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

15

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

đẳng trƣớc pháp luật nhƣ: trong dân sự, thƣơng mại không có sự phân biệt đối với các
chủ thể là cá nhân, pháp nhân hay hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức…Trong tố tụng
hình sự, Kiểm sát viên, bị cáo, ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại, ngƣời có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những ngƣời đại diện hợp pháp của họ đều có quyền
bình đẳng xuất trình chứng cứ, đƣa ra yêu cầu và tranh luận trƣớc Tòa án.
1.2.7. Nguyên tắc khi xét xử đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo
Nguyên tắc này đã đƣợc xác định từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
trong Hiến pháp 1946 tại Điều 67. Hiện nay, tại Điều 132 Hiến pháp 1992, Quốc hội

quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa cho mình”.
Quyền bào chữa là quyền cơ bản của công dân đƣợc pháp luật quán triệt trong
các giai đoạn tố tụng. Khi tự bào chữa cho mình, bị can, bị cáo có thể vận dụng tất cả
các quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh mình không có tội hoặc làm giảm
nhẹ tội. Nếu bị can, bị cáo không tự bào chữa thì có quyền nhờ luật sƣ, bào chữa viên
nhân dân hoặc ngƣời đại diện cho mình bào chữa. Việc bảo đảm quyền bào chữa cho
bị can, bị cáo góp phần làm cho việc xét xử đƣợc khách quan, toàn diện và chính xác.
Trong những trƣờng hợp luật định, Tòa án phải có trách nhiệm chỉ định ngƣời
bào chữa cho bị cáo. Đó là những trƣờng hợp mà:
 Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình đƣợc quy
định tại Bộ luật hình sự;
 Bị can, bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về tâm thần
hoặc thể chất(13).
Trong các trƣờng hợp quy định trên, bị can, bị cáo và ngƣời đại diện hợp pháp
của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối ngƣời bào chữa.
Để tạo điều kiện cho các bị cáo thực hiện quyền bào chữa, Nhà nƣớc còn quy
định cho các Tòa án phải giao quyết định đƣa vụ án ra xét xử cho bị cáo và ngƣời đại
diện hợp pháp của họ hoặc ngƣời bào chữa chập nhất là 10 ngày trƣớc khi xét xử (14).
Tại phiên tòa, bị cáo đƣợc đề xuất chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đƣa ra yêu cầu và tranh
luận dân chủ trƣớc Tòa án(15), …
1.2.8. Nguyên tắc bảo đảm cho công dân đƣợc sử dụng tiếng nói, chữ viết của
dân tộc mình trƣớc Tòa án
Sống trên lãnh thổ Việt Nam có nhiều dân tộc anh em (54 dân tộc), mỗi dân tộc
đều có tiếng nói và chữ viết riêng của mình. Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định: “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước thống nhất của các dân tộc
(13)

Khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự 2003
Khoản 1 Điều 182 Bộ luật tố tụng hình sự 2003

(15)
Điều 19 và khoản 2 Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự 2003
(14)

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

16

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”. Chính vì vậy,
nguyên tắc bảo đảm cho công dân đƣợc sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình
trƣớc Tòa án thể hiện đúng nội dung nguyên tắc bình đẳng dân tộc trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nƣớc ta.
Nguyên tắc này cũng đã đƣợc xác định từ Hiến pháp 1946 tại Điều 66 và hiện
nay đƣợc quy định tại Điều 133 Hiến pháp 1992. Việc xét xử ở các Tòa án là một quá
trình, trong đó giai đoạn thẩm vấn của Tòa án tại phiên tòa có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng để xác định chứng cứ làm cơ sở cho việc nghị án của Tòa án. Vì vậy giai đoạn
thẩm vấn tại phiên tòa hết sức thận trọng, chính xác nhằm đạt tới sự thật khách quan.
Để bị cáo, ngƣời bị hại cũng nhƣ các đƣơng sự và những ngƣời làm
chứng,…trình bày một cách rõ ràng và chính xác, sự cần thiết là họ phải đƣợc diễn đạt
bằng tiếng nói chữ viết của dân tộc mình, không nhất thiết phải nói bằng tiếng nói,

chữ viết phổ thông. Do đó, khi cần thiết, Tòa án phải chỉ định ngƣời phiên dịch.
1.2.9. Nguyên tắc Chánh án Tòa án nhân dân các cấp đặt dƣới sự giám sát
của cơ quan quyền lực nhà nƣớc cùng cấp
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Vì vậy, nhân dân trực tiếp giám sát đối với
hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nƣớc. Mặt khác, thông qua các cơ quan đại diện
của mình để nhân dân giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc khác (trong đó có
các Tòa án).
Nguyên tắc này đã đƣợc quy định từ Hiến pháp 1959 tại Điều 104 và Hiến
pháp 1980 tại Điều 136. Tuy nhiên, những quy định nói trên chỉ đề cập đến trách
nhiệm của tập thể Tòa án. Đến Hiến pháp 1992 tại Điều 135 nguyên tắc này tiếp tục
đƣợc quy định nhƣng chú trọng đến trách nhiệm cá nhân của Chánh án. Vì vậy, Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trƣớc Quốc hội;
trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trƣớc Ủy
ban thƣờng vụ Quốc hội và Chủ tịch nƣớc. Đồng thời Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao phải trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội.
Chánh án Tòa án nhân dân địa phƣơng phải chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt
động của Tòa án do mình phụ trách trƣớc cơ quan quyền lực nhà nƣớc cùng cấp. Còn
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của Tòa án
nhân dân tối cao và toàn ngành trƣớc Quốc hội. Chế độ trách nhiệm cá nhân của

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

17

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp


Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Chánh án nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của từng Tòa án nói riêng và toàn ngành
Tòa án nói chung.
1.3. CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
Là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nƣớc nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Tòa án nhân dân có một hệ thống, một cơ cấu tổ chức nhất định.
Theo quy định tại Điều 127 Hiến pháp 1992 và Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
2002, hệ thống các cơ quan xét xử của nhà nƣớc ta bao gồm:
 Tòa án nhân dân tối cao;
 Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng;
 Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
 Các Tòa án quân sự;
Mỗi Tòa án có một phạm vi thẩm quyền nhất định, một cơ cấu tổ chức nhất
định, nhƣng đều hợp thành một hệ thống thống nhất vì có cùng một chức năng (xét
xử) và cùng tổ chức, hoạt động theo những nguyên tắc nhất định. Do phạm vi thẩm
quyền của các Tòa án khác nhau nên tổ chức của các Tòa án cũng không hoàn toàn
giống nhau. Quốc hội không chỉ quy định phạm vi thẩm quyền cho các Tòa án mà còn
quy định tổ chức của các Tòa án trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của các Tòa án ở nƣớc ta hiện nay về cơ bản theo nguyên
tắc lãnh thổ kết hợp với thẩm quyền xét xử. Ở mỗi đơn vị huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh; ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng có một Tòa án; mỗi khu
vực, khu quân sự cũng có một Tòa án; ở Trung ƣơng có Tòa án nhân dân tối cao.
1.3.1. Tòa án nhân dân tối cao
Theo Điều 134 Hiến pháp 1992 và Khoản 1 Điều 18 Luật tổ chức Tòa án nhân
dân 2002 thì: “Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Tòa án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh
án, Thẩm phán và Thƣ ký Tòa án (khoản 3 Điều 18 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
2002). Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm
theo đề nghị của Chủ tịch nƣớc; Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo

nhiệm kỳ của Quốc hội (Khoản 1 Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002). Còn
nhiệm kỳ của Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là 5 năm (Khoản
5 Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002). Các Phó chánh án và Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao do Chủ tịch nƣớc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (Khoản 2 Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân
dân 2002).
Tòa án nhân dân tối cao có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây (Điều 19
Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002):
GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

18

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

 Hƣớng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét
xử của các Tòa án;
 Giám đốc việc xét xử của các Tòa án các cấp; giám đốc việc xét xử của Tòa án
đặc biệt và các Tòa án khác, trừ trƣờng hợp có quy định khác khi thành lập các Tòa án
đó;
 Trình Quốc hội dự án luật và trình Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội dự án pháp
lệnh theo quy định của pháp luật.
Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử (Điều 20 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân 2002):
 Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;

 Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cấp dƣới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp
luật tố tụng.
Sự hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu hƣớng dẫn chung bằng văn
bản. Đối với những vụ án cụ thể thì về nguyên tắc, các Tòa án địa phƣơng phải căn cứ
vào các quy định của pháp luật và các văn bản hƣớng dẫn chung của Tòa án nhân dân
tối cao và các thông tƣ liên ngành mà giải quyết. Nếu có vƣớng mắc, khó khăn thì Tòa
án nhân dân tối cao hƣớng dẫn về các phƣơng hƣớng và cách thức giải quyết các vấn
đề vƣớng mắc đó để Tòa án cấp dƣới tự giải quyết.
Ngoài nhiệm vụ hƣớng dẫn Tòa án cấp dƣới đƣờng lối xét xử và áp dụng thống
nhất pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao còn giám đốc việc xét xử của các Tòa án đó,
tổng kết kinh nghiệm xét xử và việc thi hành án trong toàn ngành Tòa án.
Để thực hiện quyền hạn một cách có hiệu quả, Tòa án nhân dân tối cao có cơ
cấu tổ chức nhƣ sau (Khoản 2 Điều 18 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002):
 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
 Tòa án quân sự trung ƣơng, các Tòa chuyên trách và các Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao; trong trƣờng hợp cần thiết, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết
định thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao;
 Bộ máy giúp việc.
 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và là cơ quan hƣớng dẫn các Tòa án áp dụng thống
nhất pháp luật. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gồm có: Chánh án, các
Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao, một số Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do
Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

19

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt



Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

tối cao. Tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không quá
17 ngƣời (Điều 21 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002).
 Các Tòa chuyên trách gồm có: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao
động, Tòa hành chính.
 Các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao: mỗi Tòa bao gồm Chánh Tòa,
các Phó Chánh Tòa, Thẩm phán, Thƣ ký Tòa án hoạt động theo quy định của pháp
luật. Hiện nay có 3 Tòa phúc thẩm đặt tại thủ đô Hà Nội, thành phố Đà Nẵng và thành
phố Hồ Chí Minh.
 Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao gồm có: Ban Thƣ ký; Ban
Thanh tra; Vụ Tổ chức - Cán bộ; Vụ Kế hoạch - Tài chính; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ
Thống kê - tổng hợp; Văn phòng; Viện Khoa học xét xử; Tạp chí Tòa án nhân dân;
Báo Công lý; Trƣờng Bồi dƣỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, Hội thẩm và cán bộ
ngành Tòa án (Điều 1 Quyết định số 16/2003/TCCB ngày 17/02/2003 của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao quy định về bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao).
1.3.2. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng (gọi tắt là Tòa
án nhân dân cấp tỉnh)
Theo Khoản 1 Điều 27 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 thì cơ cấu tổ chức
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có:
 Ủy ban Thẩm phán;
 Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính; trong
trƣờng hợp cần thiết Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên
trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
 Bộ máy giúp việc.
 Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh là tổ chức bảo đảm việc áp dụng

thống nhất pháp luật tại Tòa án cấp tỉnh và các Tòa án cấp dƣới, đồng thời có nhiệm
vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử và giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dƣới bị kháng nghị. Ủy ban Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có: Chánh án, các Phó chánh án, và một số Thẩm
phán do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân cấp tỉnh. Tổng số thành viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
tỉnh không quá 9 ngƣời (Khoản 1 Điều 29 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002).
 Các Tòa chuyên trách gồm có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao
động, Tòa hành chính.
 Bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm có: Văn phòng, phòng
Giám đốc kiểm tra, phòng Tổ chức - Cán bộ (Điều 1 Quyết định số 17/2003/TCCB

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

20

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

ngày 17/02/2003 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về bộ máy giúp việc
của Tòa án nhân dân địa phƣơng).
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Thƣ ký Tòa án. Chánh án, các Phó chánh án, Thẩm phán do Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với
Thƣờng trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (Khoản 4 Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân
dân 2002). Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp

tỉnh là 5 năm (Khoản 5 Điều 40 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002).
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử (Điều 28 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân 2002):
 Sơ thẩm những vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp
huyện.
 Sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp dƣới mà
mình lấy lên để xét xử khi thấy cần thiết. Tuy luật không quy định cụ thể nhƣng
những vụ án đó có thể là những vụ án phức tạp có nhiều tình tiết hoặc liên quan đến
nhiều cấp, nhiều ngành; Những vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Sĩ quan
công an, Cán bộ lãnh đạo chủ chốt của huyện, ngƣời có chức sắc trong tôn giáo, hoặc
có uy tín trong các dân tộc ít ngƣời. Trong trƣờng hợp bị cáo phạm tội ở nƣớc ngoài
nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cƣ trú cuối cùng của bị cáo
ở trong nƣớc xét xử; Nếu không xác định đƣợc nơi cƣ trú cuối cùng ở trong nƣớc của
bị cáo thì tùy trƣờng hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét
xử(16).
 Sơ thẩm tất cả các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thƣơng mại, lao động, trừ những tranh chấp, yêu cầu thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện; sơ thẩm những tranh chấp, yêu cầu về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động mà có đƣơng sự hoặc tài sản
ở nƣớc ngoài hoặc cần phải ủy thác tƣ pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở
nƣớc ngoài, cho Tòa án nƣớc ngoài(17).
 Tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng ký kinh
doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đó. Trong trƣờng hợp cần thiết Tòa án
nhân dân cấp tỉnh lấy lên để tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính

(16)
(17)


Khoản 2 Điều 171 Bộ luật tố tụng hình sự 2003
Khoản 3 Điều 33 và Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự 2004

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

21

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

của doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam có thẩm quyền tiến hành thủ
tục phá sản đối với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đó(18).
 Sơ thẩm những khiếu kiện hành chính sau(19):
 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nƣớc, Văn phòng Quốc hội, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi
hành chính của Thủ trƣởng các cơ quan đó mà ngƣời khởi kiện là cá nhân có nơi cƣ
trú, nơi làm việc hoặc ngƣời khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ
với Tòa án;
 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan chức
năng thuộc một trong các cơ quan nhà nƣớc quy định ở trên và quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cán bộ, công chức của các cơ quan chức năng đó mà ngƣời
khởi kiện là cá nhân có nơi cƣ trú, nơi làm việc hoặc ngƣời khởi kiện là cơ quan, tổ
chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Tòa án;
 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nƣớc
cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ với Tòa án và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nƣớc

đó;
 Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của ngƣời đứng đầu cơ quan, tổ
chức trên cùng lãnh thổ với Tòa án đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của
cơ quan, tổ chức đó, trừ những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân cấp huyện.
 Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ƣơng trên cùng lãnh thổ với Tòa án giải quyết khiếu nại đối với quyết định
của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thƣởng, kỷ luật của Đoàn luật sƣ;
 Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh mà ngƣời khởi kiện là cá nhân có nơi cƣ trú, nơi làm việc hoặc ngƣời khởi kiện
là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Tòa án;
 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án cấp huyện mà Tòa án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
 Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp
luật của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp
luật tố tụng.
 Giám đốc thẩm, tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
(18)
(19)

Khoản 2 và khoản 3 Điều 7 Luật phá sản 2004
Khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2006)

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

22

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt



Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

trong việc xử lý vụ án hoặc phát hiện những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản
nội dung vụ án.
 Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật nhƣ: quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết tranh chấp thƣơng mại tại
Trọng tài, ra quyết định thi hành án hình sự, hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù, ra quyết định miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên, ra
quyết định xoá án tích,...
1.3.3. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là
Tòa án nhân dân cấp huyện)
Tòa án nhân dân cấp huyện có Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, các
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thƣ ký Tòa án. Tòa án nhân dân cấp huyện có bộ
máy giúp việc (Khoản 1 Điều 32 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002). Bộ máy giúp
việc của Tòa án nhân dân cấp huyện là Văn phòng Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh và do Phó chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện phụ trách
(Điều 2 Quyết định số 17/2003/TCCB ngày 17/02/2003 của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao quy định về bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân địa phƣơng).
Tòa án nhân dân cấp huyện có cơ cấu đơn giản nhất trong hệ thống cơ quan
Tòa án, không có Hội đồng Thẩm phán hoặc Ủy ban Thẩm phán, không có các Tòa
chuyên trách. Tùy theo tình hình và tính chất của từng vụ án, Chánh án Tòa án nhân
dân cấp huyện sẽ phân công Phó chánh án, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân để
xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh thƣơng mại,
hành chính và giải quyết các yêu cầu về dân sự, hôn nhân gia đình theo một thủ tục
duy nhất là xét xử sơ thẩm.
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền (Khoản 2 Điều 32 Luật tổ chức Tòa
án nhân dân 2002):

 Xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội phạm này là đến 15 năm tù), ngoại trừ những tội phạm sau đây(20):
 Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
 Các tội phá hoại hoà bình, chống loài ngƣời và tội phạm chiến tranh;
 Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222,
223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.
 Xét xử sơ thẩm những vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
doanh thƣơng mại. Ngoại trừ các vụ tranh chấp sau đây(21):
(20)
(21)

Khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự 2003
Khoản 1 Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự 2004

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

23

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

 Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với ngƣời sử dụng lao
động;
 Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thƣơng mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:

Tranh chấp về việc vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đƣờng hàng không, đƣờng
biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tƣ, tài chính, ngân hàng;
bảo hiểm; thăm dò, khai thác;
 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
 Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
 Đồng thời Tòa án nhân dân cấp huyện còn có thẩm quyền giải quyết những
yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, tiến hành thủ tục phá sản đối với hợp tác xã
đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện đó (22). Ngoại trừ
những yêu cầu sau đây(23):
 Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân
sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án
nƣớc ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản
trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nƣớc ngoài mà không có yêu
cầu thi hành tại Việt Nam.
 Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về hôn
nhân và gia đình của Tòa án nƣớc ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về
hôn nhân và gia đình của Tòa án nƣớc ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt
Nam.
 Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện
hành chính sau đây(24):
 Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nƣớc
từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Tòa án và của cán bộ, công chức của cơ
quan nhà nƣớc đó;
 Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của ngƣời đứng đầu cơ quan, tổ
chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Tòa án đối với cán bộ, công chức
thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó;
(22)


Khoản 1 Điều 7 Luật phá sản 2004
Khoản 2 Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự 2004
(24)
Khoản 1 Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996 (đƣợc sửa đổi, bổ sung 2006)
(23)

GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

24

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

 Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng lãnh thổ
với Tòa án.
Mọi hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện do Chánh án Tòa án nhân dân
cấp huyện lãnh đạo chung và chịu trách nhiệm trƣớc Hội đồng nhân dân và Tòa án
nhân dân cấp trên.
1.3.4. Các Tòa án quân sự
Do đặc điểm đặc biệt của lĩnh vực quân sự, hoạt động xét xử trong quân đội
đƣợc thành lập thành một hệ thống gần nhƣ riêng biệt, bao gồm: Tòa án quân sự
Trung ƣơng, các Tòa án quân sự quân khu và tƣơng đƣơng, các Tòa án quân sự khu
vực (Khoản 2 Điều 34 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002).
Các Tòa án quân sự này có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng,
kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể;
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của quân nhân, công
chức, công nhân quốc phòng và của các công dân khác (Điều 1 Pháp lệnh tổ chức Tòa
án quân sự 2002).
 Tòa án quân sự Trung ương thuộc cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án quân sự Trung ƣơng có Chánh án, các Phó chánh án, Thẩm phán, Thƣ ký Tòa
án. Chánh án Tòa án quân sự trung ƣơng là Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Thẩm phán Tòa án quân sự trung ƣơng là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Cơ cấu
tổ chức của Tòa án quân sự Trung ƣơng gồm có: Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân sự
Trung ƣơng; các Tòa phúc thẩm Tòa án quân sự Trung ƣơng; bộ máy giúp việc (Điều
21 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002).
Tòa án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử (Điều 22 Pháp lệnh tổ chức
Tòa án quân sự 2002):
 Phúc thẩm những vụ án hình sự mà bản án, quyết định chƣa có hiệu lực pháp
luật của các Tòa án quân sự cấp dƣới trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định
của pháp luật tố tụng;
 Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án hình sự mà bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của các Tòa án quân sự cấp dƣới bị kháng nghị theo quy định của
pháp luật tố tụng.
 Tòa án quân sự quân khu và tương đương có Chánh án, các Phó chánh án,
Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân, Thƣ ký Tòa án. Cơ cấu tổ chức của Tòa án quân sự
quân khu và tƣơng đƣơng gồm có: Uỷ ban Thẩm phán; bộ máy giúp việc (Điều 25
Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002).
GVHD: Đinh Thanh Phƣơng

25

SVTH: Nguyễn Ngọc Đạt



×