Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại tác động của thuế đối với giá cả hàng hóa trên thị trường việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 97 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
--------------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA 2009-2013

Tác động của Thuế đối với giá cả hàng
hóa trên thị trƣờng Việt Nam

GVGD
TS. LÊ THỊ NGUYỆT CHÂU

SVTH
PHẠM CHÍ TOÀN
MSSV: 5095385
LỚP LUẬT TM2 – KHÓA 35

Cần Thơ, năm 2012

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 1

SVTH: Phạm Chí Toàn


MỤC LỤC HÌNH
Hình 2.1: Tác động của thuế tiêu dùng đối với giá cả và sản lƣợng .......................... 32
Hình 2.2: Tác động của thuế trong thị trƣờng độc quyền .......................................... 34
Hình 2.3: Thuế tiêu dùng tác động vào giá cả hàng hóa nhập khẩu ......................... 35


Hình 2.4. Thuế tác động vào ngƣời lao động ............................................................... 36
Hình 2.5: Thuế tác động vào doanh nghiệp ................................................................. 37
Hình 2.6: Thuế tác động đến tiết kiệm ......................................................................... 39
Hình 2.7: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong giai đoạn 2001 – 2011 ............................ 42

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 2

SVTH: Phạm Chí Toàn


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ VÀ GIÁ CẢ HÀNG HÓA
TRÊN THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM

1.1. Khái quát về thuế ...................................................................................................... 9
1.1.1. Lƣợc sử phát triển của thuế ...................................................................................... 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thuế ................................................................................ 10
1.1.2.1. Khái niệm ...................................................................................................... 10
1.1.2.2. Đặc điểm ........................................................................................................ 12
1.1.3. Chức năng của thuế ................................................................................................ 13
1.1.3.1. Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho ngân sách nhà nƣớc .............. 13
1.1.3.2. Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế ........................................................... 13
1.1.4. Phân loại thuế ......................................................................................................... 15
1.1.4.1. Phân loại dựa trên mục đích điều tiết ............................................................ 15
1.1.4.2. Phân loại dựa trên đối tƣợng tính thuế .......................................................... 17
1.1.5. Các nguyên tắc xây dựng chính sách thuế ............................................................. 17

1.1.5.1. Nguyên tắc công bằng ................................................................................... 17
1.1.5.2. Nguyên tắc khả thi .......................................................................................... 18
1.1.5.3. Nguyên tắc minh bạch, thuận tiện ................................................................. 19
1.1.5.4. Nguyên tắc hiệu quả ...................................................................................... 20
1.1.5.5. Nguyên tắc ổn định......................................................................................... 20
1.1.5.6. Nguyên tắc linh hoạt ...................................................................................... 20
1.1.6. Cơ sở pháp lý về thuế ............................................................................................. 21
1.2. Vấn đề chung về giá cả hàng hóa trên thị trƣờng Việt Nam ............................... 22
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm ............................................................................................... 22
1.2.1.1. Thị trƣờng ....................................................................................................... 22
1.2.1.2. Hàng hóa ........................................................................................................ 22
1.2.1.3. Giá cả ............................................................................................................. 23
1.2.1.4. Mối quan hệ giữa thị trƣờng, hàng hóa với giá cả ........................................ 24
1.2.2. Chức năng của giá cả .............................................................................................. 24
1.2.3. Yếu tố ảnh hƣởng đến giá cả .................................................................................. 25
1.2.3.1. Giá trị của hàng hóa........................................................................................ 25
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 3

SVTH: Phạm Chí Toàn


1.2.3.2. Giá trị sử dụng của hàng hóa ......................................................................... 26
1.2.3.3. Chính sách tiền tệ .......................................................................................... 27
1.2.3.4. Quy luật cung – cầu ....................................................................................... 28
1.2.3.5. Cạnh tranh ..................................................................................................... 29
1.2.4. Sự cần thiết phải điều tiết giá cả ............................................................................ 30
1.2.4.1. Điều tiết giá là bộ phận không thể tách rời của quản lý kinh tế tầm vĩ mô.... 30
1.2.4.2. Điều tiết giá cả nhằm đảm bảo công bằng xã hội........................................... 31

1.2.4.3. Điều tiết giá nhằm đảm bảo đồng bộ mục tiêu kinh tế vĩ mô ........................ 31
1.2.4.4. Điều tiết giá góp phần thu hút đầu tƣ ............................................................. 32
1.2.4.5. Điều tiết giá cả góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế thế giới ........................ 32
1.3. Mục tiêu tác động của thuế .................................................................................... 32
1.3.1. Kiềm chế lạm phát ................................................................................................. 32
1.3.2. Thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng bộ................................................................. 33
1.3.3. Thực hiện công bằng xã hội .................................................................................... 33
1.4. Mối quan hệ giữa thuế và giá cả hàng hóa ........................................................... 34
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ ĐỐI VỚI GIÁ CẢ HÀNG HÓA TRÊN THỊ
TRƢỜNG VIỆT NAM

2.1. Phân tích lý thuyết về sự tác động của thuế lên giá cả hàng hóa .............................. 36
2.1.1. Tác động của thuế tiêu dùng lên giá cả hàng hóa .................................................. 36
2.1.1.1. Tác động của thuế trong điều kiện thị trƣờng cạnh tranh............................... 36
2.1.1.2. Tác động của thuế trong điều kiện thị trƣờng độc quyền .............................. 38
2.1.1.3. Tác động của thuế tiêu dùng đối với hàng hóa nhập khẩu ............................ 40
2.1.2. Tác động của thuế thu nhập đối với giá cả hàng hóa ............................................. 41
2.1.2.1. Tác động của thuế thu nhập đánh vào ngƣời lao động ................................... 41
2.1.2.2. Tác động của thuế thu nhập doanh nghiệp .................................................... 42
2.1.2.3. Tác động của thuế đối với thu nhập kỳ sau (tiết kiệm) ................................. 44
2.1.3. Tác động của thuế tài sản đối với giá cả hàng hóa ................................................. 45
2.2. Phân tích tác động của thuế lên giá cả hàng hóa ................................................. 46
2.2.1. Bối cảnh ................................................................................................................. 46
2.2.2. Tác động của hệ thống thuế hiện hành lên giá cả hàng hóa ................................... 48
2.3. Những nỗ lực triển khai các giải pháp thuế về chống biến động giá cả hàng
hóa ............................................................................................................................. 64
2.3.1. Tình hình thị trƣờng giá cả ..................................................................................... 64
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu


Trang 4

SVTH: Phạm Chí Toàn


2.3.2. Nỗ lực điều chỉnh thuế để chống biến động giá cả ................................................ 65
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC VÀ PHƢƠNG HƢỚNG CẢI CÁCH HỆ THỐNG THUẾ NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG CỤ THUẾ TRONG VIỆC TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁ CẢ
HÀNG HÓA TRÊN THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI

3.1. Một số nét chính về kết quả đạt đƣợc ................................................................... 71
3.1.1. Kết quả thực hiện Nghị quyết thắng lợi, tình hình lạm phát bị đẩy lùi, giá cả
hàng hóa đƣợc ổn định .............................................................................................. 71
3.1.3. Công cuộc thanh tra, kiểm tra thuế đƣợc triển khai trên diện rộng và có kết quả
đáng khích lệ .............................................................................................................. 74
3.2. Phƣơng hƣớng cải cách hệ thống thuế nhằm nâng cao hiệu quả của công cụ
thuế trong việc tác động đến giá cả hàng hóa trên thị trƣờng ............................ 82
3.2.1. Mục tiêu, yêu cầu đạt đƣợc .................................................................................... 82
3.2.2. Phƣơng hƣớng cải cách hệ thống chính sách thuế ................................................. 83
3.2.2.1. Hoàn thiện một số nội dung cơ bản của từng sắc thuế .................................. 84
3.2.2.2. Một số giải pháp nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của công cụ thuế trong
việc tác động đến giá cả hàng hóa trên thị trƣờng .................................................... 87
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 93
MỤC LỤC HÌNH ............................................................................................................ 93
MỤC LỤC ............................................................................................................................................. 94

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu


Trang 5

SVTH: Phạm Chí Toàn


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế và Nhà nƣớc là hai phạm trù không thể tách rời, song song cùng tồn tại. Từ
khi nƣớc ta quyết định chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng Xã hội Chủ nghĩa, thuế càng đóng vai trò ngày một quan trọng. Thuế
là một trong những chính sách quản lý của Nhà nƣớc trong các quan hệ tƣơng quan giữa
thu ngân sách và chi tiêu công, giữa phân chia thu nhập công và thu nhập tƣ. Qua đó thấy
đƣợc vai trò vô cùng to lớn của thuế trong việc tác động đến các hoạt động sản xuất –
kinh doanh, kinh tế – xã hội của đất nƣớc.
Đứng trƣớc tình hình hiện nay, khi nƣớc ta đang hòa vào dòng phát triển kinh tế
của toàn cầu, vì vậy phƣơng thức quản lý các chính sách thuế có thể bị lạc hậu. Do đó,
cần phải có sự tác động kịp thời của Nhà nƣớc để cả hệ thống chính sách thuế đƣợc đồng
bộ hóa với nền kinh tế hiện tại, phù hợp hóa trong thời kỳ hội nhập. Thuế không chỉ đòi
hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật định mà còn đòi hỏi tính khả thi,
tính hiệu quả trong quá trình áp dụng vào đời sống. Vì lý do đó, thuế đã và đang là mối
quan tâm của cả những ngƣời hoạch định chính sách thuế và những ngƣời có nghĩa vụ
nộp thuế.
Khi hội nhập, một quốc gia không bao giờ không chịu các tác động, bao gồm tác
động tích cực và tác động tiêu cực từ nền kinh tế thế giới. Thời gian vừa qua, nền kinh tế
nƣớc ta đã và đang rơi vào trạng thái bất ổn khi phải chịu ảnh hƣởng của cuộc suy thoái
kinh tế toàn cầu, lạm phát tăng cao, các hàng hóa trên thị trƣờng bất đầu sốt giá, đặc biệt
là nhóm các hàng hóa thiết yếu. Trong hoàn cảnh đó, Nhà nƣớc đã sử dụng tính linh hoạt
của thuế để điều tiết nền kinh tế vĩ mô nói chung và ổn định giá cả hàng hóa nói riêng
nhƣ thế nào? Các chính sách thuế có phát huy đƣợc mục tiêu và yêu cầu mà Nhà nƣớc
mong đợi? Vấn đề an sinh đƣợc giải quyết bằng công cụ thuế ra sao?... Đề tài “TÁC

ĐỘNG CỦA THUẾ ĐỐI VỚI GIÁ CẢ HÀNG HÓA TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM” sẽ
phần nào đó giúp đọc giả hiểu sâu hơn về các tác động của thuế đối với các yếu tố trên thị
trƣờng nhƣ: thu nhập, tiết kiệm, chi phí, cung – cầu hàng hóa, từ đó góp phần tác động
sâu sắc đến giá cả hàng hóa trên thị trƣờng. Qua cơ sở đó, Nhà nƣớc thực hiện công cụ
thuế nhƣ một công cụ quản lý chủ lực để đƣa nƣớc ta sớm thoát khỏi vòng suy thoái kinh
tế, tạo ra một bƣớc phát triển mới cho đất nƣớc trong thời hội nhập.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, ngƣời viết chủ yếu nghiên cứu các quy định
trong các văn bản Luật thuế hiện hành, bao gồm: Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi,
bổ sung năm 2001, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993, Luật thuế xuất khẩu,
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 6

SVTH: Phạm Chí Toàn


thuế nhập khẩu năm 2005, Luật quản lý thuế năm 2006, Luật thuế thu nhập cá nhân năm
2007, Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008,
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008, Luật thuế tài nguyên năm 2009, Luật thuế bảo vệ
môi trƣờng năm 2010, Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 và các Nghị
định, các Thông tƣ quy định về hƣớng dân chi tiết các văn bản trên. Bên cạnh đó, ngƣời
viết còn tập trung các chính sách thuế hiện hành đƣợc Nhà nƣớc sử dụng trong giai đoạn
khủng hoảng kinh tế hiện nay nhƣ: Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 9/1/2011 của Chính
phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội và dự toán ngân sách Nhà nƣớc năm 2011, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày
24/2/2011 của Chính phủ, đề ra 6 giải pháp quan trọng, trong đó trọng tâm là kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày
10/5/2012 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh,
hỗ trợ thị trƣờng, cùng các Quyết định, các Thông tƣ của Bộ Tài chính về hƣớng dẫn và

đề ra các kế hoạch cụ thể để thực hiện thắng lợi các Nghị quyết trên.
Trong phần nội dung phân tích, ngƣời viết đã lấy số liệu đến năm 2011 để đánh giá
các chính sách thuế khi tác động đến giá cả hàng hóa. Đồng thời, ngƣời viết đã căn cứ
thêm các số liệu đến năm 2012 để so sánh, đánh giá, và đƣa ra một số giải pháp hoàn
thiện. Bên cạnh đó, ngƣời viết chủ yếu tập trung phân tích, nghiên cứu một số tác động
chính yếu của thuế đối với giá cả hàng hóa hữu hình, đồng thời, không đi sâu vào phân
tích các tác động của thuế đối với giá tiền tệ, giá cả các hàng hóa vô hình (dịch vụ).
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Sau khi quyết định nghiên cứu sâu về đề tài, ngƣời viết đã định hƣớng đƣợc một
số mục tiêu cần đạt đƣợc. Thứ nhất, qua quá trình nghiên cứu đề tài, ngƣời viết đã tiếp
cận đƣợc với một số khía cạnh thực tế của đối tƣợng nghiên cứu, từ đó tích góp thêm
kiến thức và kỹ năng khảo sát, đánh giá, tạo điều kiện thuận lợi để ngƣời viết có thể vận
dụng các kiến thức lý thuyết để áp dụng vào thực tiễn sau này. Thứ hai, ngƣời viết xác
định đây là đề tài nghiên cứu mang tính thời sự, xã hội và pháp lý trong giai đoạn hiện
tại. Qua đó, đòi hỏi các nhà chuyên môn và ngƣời có quan tâm nhìn nhận thật kỹ và đánh
giá một cách nghiêm túc để có thể giải quyết đƣợc vấn đề đang nảy sinh. Trong khi
nghiên cứu, ngƣời viết đƣa ra một số thông tin, quan điểm của bản thân để nhìn nhận
thực tế về vấn đề đang nghiên cứu để các đọc giả có thể nhìn nhận vấn đề trên một cách
rõ ràng nhất, sâu sắc nhất, tạo điều kiện cho những ai quan tâm có thể đóng góp ý kiến
của mình trong công cuộc cải cách thuế nhƣ trong đề tài nghiên cứu mà ngƣời viết đề
cập.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, ngƣời viết chủ yếu sử dụng phƣơng pháp phân
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 7

SVTH: Phạm Chí Toàn



tích luật viết, nghiên cứu các lý luận trên tài liệu, qua đó đƣa ra nhận định và ý kiến của
bản thân. Bên cạnh đó, ngƣời viết còn cập nhật thƣờng xuyên và xử lý số liệu từ các cơ
quan chuyên môn nhƣ Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải quan thuộc Bộ Tài chính để bổ
sung một số thông tin quan trọng trong quá trình phân tích đề tài. Ngƣời viết còn thực
hiện phƣơng pháp khai thác các Dự thảo, các Báo cáo trong các buổi Hội thảo, Hội nghị,
Giao lƣu, các buổi trả lời phỏng vấn của các lãnh đạo ngành thuế thông qua kênh in-ternet để có kiến thức thêm về lĩnh vực nghiên cứu. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu
đề tài, ngƣời viết có kế thừa một cách có chọn lọc một số nghiên cứu khoa học của một
số học giả có liên quan đến đối tƣợng nghiên cứu của mình. Trên cơ sở đó, ngƣời viết tiến
hành phân tích, so sánh, thống kê và tổng hợp lại các nội dung phù hợp với đề tài và phù
hợp với thời điểm hiện tại.
5. Bố cục của luận văn
Đề tài nghiên cứu đƣợc chia thành ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận. Trong đó, phần nội dung đƣợc bố cục thành ba chƣơng, bao gồm:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về thuế và giá cả hàng hóa trên thị trƣờng Việt Nam.
Chƣơng 2: Thực trạng tác động của thuế đối với giá cả hàng hóa trên thị trƣờng Việt
Nam.
Chƣơng 3: Kết quả đạt đƣợc và phƣơng hƣớng cải cách hệ thống thuế nhằm nâng cao
hiệu quả của công cụ thuế trong việc tác động đến giá cả hàng hóa trên thị trƣờng Việt
Nam trong thời kỳ mới.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 8

SVTH: Phạm Chí Toàn


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ VÀ GIÁ CẢ HÀNG HÓA
TRÊN THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM

1.1. Khái quát về thuế
1.1.1. Lƣợc sử phát triển của thuế
Thuế là hình thức động viên thu nhập chủ yếu và quan trọng của tài chính Nhà
nƣớc. Thuế ra đời, tồn tại và phát triển cùng Nhà nƣớc – một sản phẩm tất yếu của sự
phân công lao động xã hội1.
Nhà nƣớc, hiểu theo nghĩa pháp luật, là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực
chính trị đƣợc giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình
và mang bản chất giai cấp. Nhà nƣớc xuất hiện kể từ khi xã hội loài ngƣời bị phân chia
thành những lực lƣợng giai cấp đối kháng. Để duy trì sự tồn tại của mình và thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng,... Nhà nƣớc
thƣờng sử dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng
quyền lực Nhà nƣớc bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó hình thức góp tiền và tài sản
của dân và hình thức vay của dân là hình thức không mang tính ổn định và lâu dài,
thƣờng đƣợc Nhà nƣớc sử dụng có giới hạn trong một số trƣờng hợp đặc biệt. Để đáp
ứng cho nhu cầu chi tiêu thƣờng xuyên, Nhà nƣớc dùng quyền lực chính trị để quy định
các khoảng đóng góp bắt buộc đối với các thể nhân và pháp nhân trong xã hội nhằm đảm
bảo điều kiện vật chất, duy trì sự tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nƣớc. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính cho Nhà
nƣớc – đó chính là thuế2.
Thuế là một thực thể pháp lý nhân định nhƣng sự ra đời và tồn tại của nó không
chỉ phụ thuộc vào ý chí của con ngƣời mà còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội3.
Các-Mác đã nói về quan hệ kinh tế giữa Nhà nƣớc và thuế nhƣ sau: “Thuế là cơ sở
kinh tế của bộ máy Nhà nƣớc, là thủ đoạn cơ bản để kho bạc thu đƣợc bằng tiền hay sản
vật mà ngƣời dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của Nhà nƣớc”4. ĂngGhen cũng đã chỉ ra: “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có sự đóng góp của
những ngƣời công dân của Nhà nƣớc đó là thuế má...”5.
Sơ khai, quan hệ hàng hóa – tiền tệ chƣa có hoặc có nhƣng chƣa phát triển, ngƣời
1 Quách Đức Pháp, Thuế – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Xây Dựng, Hà Nội, năm 1999, tr.5.
2 Nguyễn Thị Mỹ Linh, Khoa Tài chính – Ngân hàng, Thuế thực hành (lý thuyết, bài tập và bài giải), NXB Thống
Kê, Hà Nội, năm 2009, tr.22.
3 Trƣờng Đại học Luật Hà Nội , Giáo trình Luật tài chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2004,

tr.84.
4 Quách Đức Pháp, Thuế – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Xây Dựng, Hà Nội, năm 1999, tr.9.
5 Quách Đức Pháp, Thuế – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Xây Dựng, Hà Nội, năm 1999, tr.9.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 9

SVTH: Phạm Chí Toàn


dân nộp các khoản đóng góp cho Nhà nƣớc chủ yếu bằng hiện vật. Ở Việt Nam, thời Nhà
nƣớc Văn Lang, ngƣời dân thƣờng dâng lên cho Vua Hùng lƣơng thực, thú vật săn bắt,
sản phẩm thủ công,... đây chính là mầm móng đầu tiên của thuế. Khi quan hệ hàng hóa –
tiền tệ phát triển, ngƣời dân nộp các khoảng đóng góp cho Nhà nƣớc chủ yếu là tiền. Việc
thu thuế bằng tiền giúp cho Nhà nƣớc thuận tiện trong việc quản lý thu và nộp thuế, giảm
đi sự nghiệt ngã của hình thức cống nộp6, chi tiêu dễ dàng và thuận lợi hơn trong việc bảo
quản. Vì thế, thu thuế bằng tiền đƣợc hầu hết các Nhà nƣớc trên thế giới áp dụng một
cách phổ biến và ngày càng phát triển hình thức này hơn.
Thuế là một phần thu nhập do những ngƣời dân trực tiếp lao động sản xuất tạo ra
và đóng góp cho Nhà nƣớc7. Nhƣ vậy, thu nhập là gì? Và từ đâu ngƣời dân có thu nhập?
Theo C.Mác, quá trình tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng là hai thuộc tính cơ bản
quan trọng của hàng hóa sức lao động – nền tảng cho những lý luận về thuế. Thông qua
hoạt động lao động nó sẽ tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của nó, phần mới sáng tạo ra đó
đƣợc Mác gọi là thu nhập. Khi có thu nhập ngƣời dân sẽ đóng thuế và không có chuyện
ngƣời dân sẽ đóng thuế khi ngƣời dân hoàn toàn không có một nguồn thu nào từ xã hội.
Do đó, nguồn đóng góp của nhân dân, thuế, cần phải cần thỏa mãn điều kiện về thu nhập.
Nhƣ vậy, một sắc thuế không đơn thuần xuất hiện, mà thuế luôn gắn liền với thu
nhập của nhân dân trong xã hội. Đồng thời thuế còn ra đời, tồn tại khách quan cùng với
sự ra đời và tồn tại khách quan của Nhà nƣớc và đƣợc phát triển theo các hình thái kinh tế

– xã hội của Nhà nƣớc đó.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thuế
1.1.2.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trƣờng, thuế không chỉ đơn thuần là công cụ tạo nguồn thu
cho Nhà nƣớc mà còn tham gia vào quá trình điều tiết nền kinh tế. Nhƣ vậy, để hiểu rõ và
làm đúng, các nhà lý luận đã đƣa ra một số khái niệm về thuế. Song, tùy thuộc vào bản
chất của Nhà nƣớc và cách thức Nhà nƣớc sử dụng, các nhà nghiên cứu đứng dƣới góc độ
nghiên cứu và lý luận khác nhau, các khái niệm về thuế cũng một phần gì đó không đƣợc
thống nhất.
Adam Smith nói về thuế rằng: “Các công dân của mỗi nƣớc phải đóng góp cho
Chính phủ theo tỷ lệ khả năng của mỗi ngƣời, nghĩa là tỷ lệ với lợi tức mà họ đƣợc thụ
hƣởng do sự bảo vệ của Nhà nƣớc”8. Các-Mác thì cho rằng thuế là cơ sở kinh tế của bộ
máy Nhà nƣớc, đó là khoản đóng góp nghĩa vụ cần thiết để nuôi dƣỡng Nhà nƣớc pháp

6 Trƣờng Đại học Luật Hà Nội , Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Tƣ pháp, Hà Nội, năm 2007, tr.8,9.
7 Quách Đức Pháp, Thuế – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Xây dựng, Hà Nội, năm 1999, tr.10.
8 Nguyễn Thị Mỹ Linh, Khoa Tài chính – Ngân hàng, Thuế thực hành ( lý thuyết, bài tập và bài giải), NXB Thống
Kê, Hà Nội, năm 2009, tr.34, phần khái niệm của Adam Smith đƣợc tác giả Nguyễn Thị Mỹ Linh trích ra từ
Duduarop và FI.Poliauski, Lịch sử tư tưởng kinh tế, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1976.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 10

SVTH: Phạm Chí Toàn


quyền. Thuế là nguồn sống... đối với Nhà nƣớc hành pháp9.
V. Lênin lại cho rằng: “... Thuế là cái Nhà nƣớc thu đƣợc của dân mà không bù
10


lại” . Một khái niệm khác đƣợc cho là hoàn chỉnh về thuế trong cuốn kinh tế học của hai
nhà kinh tế Mỹ Makkollhell và Bruy nhƣ sau: “Thuế là một khoảng chuyển giao bắt buộc
bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hóa, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình
cho Chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không đƣợc nhận một cách trực tiếp hàng hóa
hoặc dịch vụ gì cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà Tòa án tuyên phạt do hành
vi vi phạm pháp luật”11.
Bên cạnh các khái niệm của các nhà kinh tế, chính trị nƣớc ngoài, một số học giả
và các nhà nghiên cứu về lĩnh vực thuế ở Việt Nam cũng đã ra một số quan điểm cá nhân
về khái niệm thuế. Theo Quách Đức Pháp: “Thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức,
cá nhân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nƣớc theo luật định để đáp ứng yêu cầu chi tiêu
theo chức năng của Nhà nƣớc; ngƣời đóng thuế đƣợc hƣởng hợp pháp phần thu nhập còn
lại”12. Có thể nhận thấy, xuất phát từ một góc độ kinh tế, Quách Đức Pháp không chỉ luôn
chú trọng đến Nhà nƣớc mà còn quan tâm đến lợi ích của ngƣời nộp thuế, một cách nhìn
bao quát cho các chủ thể tham gia trong mối quan hệ kinh tế. Đứng với góc độ khác, góc
độ quản lý, một số khái niệm đƣợc đƣa ra nhƣ: “thuế là một biện pháp tài chính bắt buộc
(phi hành sự) của Nhà nƣớc nhằm động viên một bộ phận thu nhập từ lao động, của cải,
vốn, từ việc chi tiêu hàng hóa, dịch vụ và từ việc lƣu giữ, chuyển dịch tài sản của các thể
nhân và pháp nhân nhằm trang trải các nhu cầu chi tiêu của Nhà nƣớc. Việc thu thuế bao
giờ cũng đƣợc thể chế bằng hệ thống luật”13 hoặc “thuế là một hình thức động viên bắt
buộc của Nhà nƣớc theo luật định, thuộc phạm trù phân phối, nhằm tập trung một bộ
phận thu nhập của các thể nhân và pháp nhân vào ngân sách Nhà nƣớc để đáp ứng các
nhu cầu chi tiêu của Nhà nƣớc và phục vụ lợi ích công cộng”14.
Từ những kết luận, những nhận định, những quan điểm trên, có thể nhận thấy
rằng, các khái niệm về thuế mà họ đã đƣa ra tuy khác nhau về ngoại diên, song nội hàm
của chúng luôn có sự thống nhất về mặt cơ bản và không mâu thuẫn lẫn nhau. Từ đó có
thể rút ra kết luận về thuế nhƣ sau: Thuế là khoản thu bắt buộc, không phải hoàn trả
ngang giá và trực tiếp mà Nhà nước thu của cá nhân, tổ chức có thu nhập theo điều kiện
9 Nguyễn Thị Mỹ Linh, Khoa Tài chính – Ngân hàng, Thuế thực hành ( lý thuyết, bài tập và bài giải), NXB Thống
Kê, Hà Nội, năm 2009, tr.35, phần khái niệm của Các Mác đƣợc tác giả Nguyễn Thị Mỹ Linh trích ra từ

Duduarop và FI.Poliauski, Lịch sử tư tưởng kinh tế, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1976.
10 Nguyễn Thị Mỹ Linh, Khoa Tài chính – Ngân hàng, Thuế thực hành ( lý thuyết, bài tập và bài giải), NXB Thống
Kê, Hà Nội, năm 2009, tr.35, phần khái niệm của V.Lênin đƣợc tác giả Nguyễn Thị Mỹ Linh trích ra từ “Lê Nin
toàn tập”, NXB Matscova, năm 1978, tập 33.
11 Học viện Tài chính, Giáo trình lý thuyết thuế, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2005, tr.23, phần khái niệm của
Makkollhell và Bruy đƣợc tác giả cuốn sách “Giáo trình lý thuyết thuế” của Học viện Tài chính trích ra từ
Makkollhell và Bruy, Economics, NXB Matscova, năm 1993, tr.14.
12 Quách Đức Pháp, Thuế – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Xây dựng, Hà Nội, năm 1999, tr.12.
13 Học viện Tài chính, Giáo trình Quản lý tài chính Nhà nước, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2004, tr.115.
14 Học viện Tài chính, Giáo trình Quản lý tài chính công, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2005, tr.106.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 11

SVTH: Phạm Chí Toàn


thông qua công cụ pháp luật, nhằm đảm bảo cho mục đích chi tiêu công.
1.1.2.2. Đặc điểm
Đặc điểm của thuế đƣợc thể hiện trong nội hàm của khái niệm. Nghiên cứu các
đặc điểm của thuế sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về bản chất của thuế và phân biệt với
các khoản thu khác của ngân sách Nhà nƣớc.
Thứ nhất, thuế là khoản thu mang tính bắt buộc. Nhà nƣớc luôn hƣớng đến một xã
hội ổn định, tiến bộ, phát triển. Do đó, Nhà nƣớc luôn là chủ thể cung cấp hầu hết các
hàng hóa công cộng cho xã hội nhƣ quốc phòng, môi trƣờng, pháp luật, y tế, giáo dục,
nghiên cứu khoa học…, nhằm đảm bảo độ thỏa dụng tối đa của xã hội. Phát sinh tài chính
nhƣng không ai chịu tự nguyện trả tiền cho việc thụ hƣởng các hàng hóa công cộng. Việc
đóng các khoản tài chính này không gắn với lợi ích cụ thể của riêng một cá nhân. Vì vậy,
để bảo đảm nhu cầu chi tiêu công, nhất thiết Nhà nƣớc phải sử dụng quyền lực của mình

để buộc các cá nhân, tổ chức phải nộp thuế cho Nhà nƣớc.
Hiến pháp nƣớc ta có ghi nhận: “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động
công ích theo quy định của pháp luật”15. Nội dung điều luật này quy định rất rõ ràng về
nghĩa cụ của công dân trong việc nộp thuế và đƣợc khái quát hơn tại quy định “các cơ sở
sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối
với Nhà nƣớc, đều bình đẳng trƣớc pháp luật...”16. Nhƣ vậy, Nhà nƣớc đã dùng chính
quyền lực của mình, ban hành các đạo luật nhằm đảm bảo mục đích thu thuế bắt buộc đối
với nhân dân nhƣng nhằm mục đích phục vụ lại cho nhân dân. Mặt khác, việc ban hành
các văn bản pháp luật còn có chức năng quản lý công tác thu và nộp thuế, tránh thất thu,
trốn thuế...
Thứ hai, thuế là khoản thu mang tính không hoàn trả trực tiếp và không đối giá.
Thuế không gắn trực tiếp với lợi ích cụ thể mà ngƣời nộp thuế đƣợc hƣởng từ dịch vụ
công của Nhà nƣớc cung cấp. Ngƣời nộp thuế không có quyền đòi hỏi Nhà nƣớc cung
cấp dịch vụ công trực tiếp cho mình thì mới nộp thuế cho Nhà nƣớc hoặc yêu cầu Nhà
nƣớc hoàn trả nếu không sử dụng (trừ những quy định khác của pháp luật về ƣu đãi thuế).
Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá. khoản thuế
mà cá nhân, tổ chức nộp cho Nhà nƣớc đƣợc xác định dựa trên tình hình kinh tế – xã hội
của đất nƣớc, nhu cầu tài chính của Chính phủ trong giai đoạn cụ thể. khoản thuế đã nộp
không nhất thiết tƣơng ứng với phần giá trị mà ngƣời nộp thuế đã thụ hƣởng từ các dịch
vụ công của Nhà nƣớc.
Đặc điểm này của thuế có những nét khác biệt giúp chúng ta có thể phân biệt với
các nguồn thu ngân sách Nhà nƣớc khác đó là phí và lệ phí. Phí và lệ phí cũng là khoản
15 Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 80.
16 Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 22, Đoạn 1.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 12

SVTH: Phạm Chí Toàn



thu mang tính bắt buộc, nhƣng tính bắt buộc của phí và lệ phí gắn trực tiếp với việc khai
thác và thụ hƣởng lợi ích từ những dịch vụ công cộng nhất định do Nhà nƣớc cung cấp
mà theo quy định của pháp luật là có thu phí và lệ phí. Ví dụ, trong điều kiện bình
thƣờng, học sinh, sinh viên khi vào học tại các điểm trƣờng thì phải đóng học phí. Nếu
không học thì không phải đóng học phí.
1.1.3. Chức năng của thuế
Thuế là một phạm trù tài chính17, biểu hiện những đặc trƣng vốn có của quan hệ
tài chính. Tuy nhiên, thuế cũng có những đặc trƣng, hình thức vận động và các chức năng
riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
1.1.3.1. Chức năng huy động nguồn lực tài chính cho ngân sách Nhà nước
Xuất phát từ nguồn gốc ra đời của thuế, Nhà nƣớc cung cấp các hàng hóa công
cộng và thu các khoản thuế từ phía ngƣời dân. Nhƣ vậy, để thu các khoản thuế, Nhà nƣớc
phải thực hiện chức năng huy động nguồn lực tài chính cho ngân sách Nhà nƣớc. Đây là
chức năng cơ bản và là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.
Từ việc huy động đƣợc tài chính, hay nói cách khác là thu thuế, Nhà nƣớc đã tập
trung đƣợc nguồn quỹ dự trữ quốc gia, từ đó sử dụng cho chi tiêu công và quản lý xã hội.
Chính chức năng này đã tạo tiền đề cho Nhà nƣớc tiến hành phân phối và phân phối lại
tổng sản phẩm xã hội và tổng thu nhập quốc dân.
Chức năng huy động tài chính cho ngân sách Nhà nƣớc luôn gắn liền với chế độ
phát triển kinh tế – xã hội và nhu cầu chi tiêu của Nhà nƣớc. Khi tiến hành hội nhập, phát
triển, Nhà nƣớc nhất thiết phải có một có một tiềm lực tài chính vững mạnh. Do đó, vai
trò của thuế càng trở nên quan trọng. Thực tại, thuế luôn là nguồn thu chiếm tỷ trọng rất
cao ở hầu hết tất cả các nƣớc trên thế giới, vì vậy chức năng huy động tài chính cho ngân
sách Nhà nƣớc tất yếu tồn tại và luôn luôn đƣợc đề cao.
1.1.3.2. Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Điều tiết vĩ mô nền kinh tế có nghĩa là Nhà nƣớc không can thiệp trực tiếp vào
hoạt động kinh tế − xã hội bằng các mệnh lệnh hành chính, mà Nhà nƣớc chỉ đƣa ra
những chuẩn mực mang tính định hƣớng lớn trên diện rộng và bằng các công cụ đòn bẩy

để hƣớng các hoạt động kinh tế – xã hội đi theo, nhằm đạt mục tiêu đề ra, tạo hành lang
pháp lý cho các hoạt động kinh tế – xã hội thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật18.
Thật vậy, Nhà nƣớc thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nƣớc giữa các ngành, các
cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lợi ích của Nhà nƣớc19. Qua đó, chức
năng điều tiết nền kinh tế của thuế đƣợc thực hiện thông qua việc Nhà nƣớc quy định các
17 Học viện tài chính, Giáo trình Lý thuyết thuế, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2005, tr.29.
18 Quách Đức Pháp, Thuế – Công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, NXB Xây dựng, Hà Nội, năm 1999, tr.40.
19 Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 26.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 13

SVTH: Phạm Chí Toàn


hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đối tƣợng chịu thuế, đối tƣợng nộp thuế, áp
dụng mức thuế suất hợp lý, đồng thời linh hoạt trong các ƣu đãi về thuế.
Thông qua việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nhà nƣớc có thể sử dụng công cụ thuế
để thực hiện các chức năng nhƣ: điều chỉnh chu kỳ kinh tế, cơ cấu ngành, khu vực và
từng vùng lãnh thổ, bảo hộ nền kinh tế, hợp tác quốc tế,...Tuy nhiên, trong quá trình điều
tiết vĩ mô nền kinh tế bằng thuế, Nhà nƣớc cần tôn trọng các quy luật của nền kinh tế nhƣ
quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị. Các chức năng điều tiết vĩ mô
nền kinh tế đƣợc thể hiện cụ thể nhƣ sau:
Chức năng điều chỉnh chu kỳ kinh tế. Hoạt động kinh tế luôn phát triển thành các
chu kỳ. Mỗi chu kỳ kinh tế đôi lúc xuất hiện các hiện tƣợng khủng hoảng, suy thoái kinh
tế hoặc nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát, buộc Nhà nƣớc sử dụng công cụ thuế để
điều tiết. Nhà nƣớc hoặc thêm hoặc bớt các thứ thuế, áp dụng các biện pháp ƣu đãi về
thuế, giảm, tăng thuế suất nhằm ổn định và tạo tiềm lực tăng trƣởng kinh tế một cách bền

vững.
Chức năng hình thành cơ cấu ngành, khu vực, vùng lãnh thổ kinh tế hợp lý. Xét về
mặt tổng thể, một nền kinh tế không thể tồn tại mà chỉ có duy nhất một ngành mà nhất
thiết phải có rất nhiều ngành song song cùng tồn tại. Mặc dù vậy, đa số các ngành, các
khu vực, vùng lãnh thổ này luôn có sự phát triển mất cân đối, không đồng đều. Tùy vào
điều kiện, nhu cầu, giai đoạn phát triển, Nhà nƣớc có thể điều chỉnh mức thuế suất trên
từng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể của các ngành, khu vực, vùng lãnh thổ nhằm mục đích
chính là giúp cho các ngành, khu vực, vùng lãnh thổ có điều kiện phát triển nhƣ nhau, rút
ngắn khoảng cách phát triển để hƣớng đến một quốc gia phát triển toàn diện. Bên cạnh
đó, Nhà nƣớc có thể sử dụng công cụ thuế với mục đích khác nhƣ giảm thuế, miễn thuế
nhằm thu hút đầu tƣ từ các nguồn lực trong nƣớc cũng nhƣ từ nƣớc ngoài để kích thích
phát triển cân đối.
Chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước và duy trì tăng cường khả năng cạnh
tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Khi hội nhập, vấn đề cạnh tranh xuất hiện là điều
tất yếu. Các doanh nghiệp nƣớc ngoài với trang thiết bị hiện đại, phát triển, vì thế họ luôn
tạo ra rất nhiều sản phẩm có chức năng thay thế với chất lƣợng hiệu quả và giá thành
thấp, đó là điều kiện hết sức tuyệt vời để có thể cạnh tranh với sản phẩm của bất kỳ quốc
gia nào trên thế giới. Nhà nƣớc dƣới góc độ quản lý nền kinh tế tầm vĩ mô, để tránh sự
xuất khẩu, nhập khẩu tùy tiện một sản phẩm, hoặc các hành vi bán phá giá, chuyển giá
giữa các doanh nghiệp mà Nhà nƣớc sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh cho hợp lý.
Thông qua mức thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì giá thành của các sản phẩm đƣợc xuất
khẩu hoặc nhập khẩu đó sẽ là tăng lên hoặc giảm xuống từ đó quyết định đến mức tiêu
thụ của hàng hóa đó trên thị trƣờng tiêu thụ dẫn đến điều hòa cạnh tranh. Nếu Nhà nƣớc
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 14

SVTH: Phạm Chí Toàn



sử dụng đúng, biết cân đối mức thuế suất, Nhà nƣớc còn có thể nâng cao đƣợc năng lực
cạnh tranh trong nƣớc, thu hút vốn đầu tƣ.
Chức năng là cầu nối, giúp mở rộng quan hệ ngoại giao, hợp tác quốc tế. Các
quốc gia, với mong muốn cùng đoàn kết, hợp tác phát triển, đã cùng nhau ký các Điều
ƣớc song phƣơng, đa phƣơng về giảm hoặc miễn thuế quan cho nhau để có thể giao
thƣơng hàng hóa quốc tế một cách thuận lợi và mang lại hiệu quả kinh tế cao, hạn chế
việc đánh thuế hai lần với cùng một hàng hóa.
Giữa chức năng huy động nguồn tài chính và chức năng điều tiết nền kinh tế có
mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn tài chính nảy sinh
đồng thời với sự ra đời của thuế và đƣợc coi là chức năng cơ sở, qua đó quy định sự tác
động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa các
chức năng của thuế20.
Nhƣ vậy, có thể thấy, thông qua công cụ thuế, Nhà nƣớc có thể thực hiện chức
năng quản lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế – xã hội một cách dễ dàng hơn.
Việc sử dụng thuế là công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế ở các quốc gia đã chứng minh
đƣợc tính hiệu quả và trở nên tất yếu, đặc biệt trong công cuộc hội nhập quốc tế.
1.1.4. Phân loại thuế
1.1.4.1. Phân loại dựa trên mục đích điều tiết
Việc phân loại dựa trên mục đích điều tiết giúp Nhà nƣớc có thể điều tiết đƣợc thu
nhập của tổ chức hoặc cá nhân và chỉ ra ai mới chính là ngƣời cuối cùng nộp thuế cho
Nhà nƣớc. Theo cách phân chia này, thuế đƣợc chia thành thuế trực thu và thuế gián thu..
Thuế trực thu
Thuế trực thu là loại thuế đƣợc đánh trên thu nhập và tài sản của ngƣời nộp thuế.
Bản chất của thuế trực thu là ngƣời chịu thuế cũng là ngƣời nộp thuế và khó có thể
chuyển dịch nghĩa vụ này cho ngƣời khác.
Ưu điểm: Thuế trực thu điều tiết thu nhập một cách trực tiếp thông qua việc đánh
thuế trực tiếp từ ngƣời chịu thuế, đồng thời đảm bảo tính công bằng xã hội. Thuế trực thu
mang tính chất lũy tiến vì Nhà nƣớc đã tính đến việc thu nhập của mỗi cá nhân, tổ chức là
không bằng nhau. Ngƣời nào có thu nhập nhiều thì nộp thuế nhiều, có thu nhập ít hơn thì
nộp thuế ít hơn, ngƣời không đủ điều kiện nộp thuế thì không phải nộp.

Nhược điểm: Thuế trực thu gây nên phản ứng của ngƣời nộp thuế vì đã thu thuế
trực tiếp qua thu nhập của họ, điều này làm họ cảm thấy có sự mất mát về khoản thu nhập
của mình. Bên cạnh đó, thuế trực thu là loại thuế thu trực tiếp của từng cá nhân, tổ chức,
vì thế cần có một lực lƣợng tại chỗ rất lớn để đáp ứng cho việc thu thuế, gây lãng phí.
Mặt khác, tùy thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của ngƣời thu thuế mà trong quá trình tính
20 Học viện tài chính, Giáo trình Lý thuyết thuế, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2005, tr.33.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 15

SVTH: Phạm Chí Toàn


toán thuế có thể dẫn đến sai xót, buộc phải tính lại, có thể trả lại thuế hoặc buộc phải
đóng thêm thuế gây phiền hà, tốn kém. Ngoài ra, nếu công tác quản lý không tốt sẽ dẫn
đến tình trạng khai gian thuế, trốn thuế.
Thuế gián thu
Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của ngƣời
nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông giá cả hàng hóa, dịch vụ. Bản chất của thuế
gián thu là ngƣời chịu thuế không nhất thiết phải là ngƣời nộp thuế mà ngƣời chịu thuế
chính là ngƣời tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Thuế gián thu luôn phụ thuộc vào sự tự
nguyện của ngƣời tiêu dùng. Khi ngƣời tiêu dùng mua một hàng hóa hay một dịch vụ thì
có thuế gián thu phát sinh, nếu họ không mua đồng nghĩa họ không phải nộp thuế. Hay
khi họ đã mua hàng hóa, dịch vụ thì còn phải căn cứ vào sản phẩm của họ mua có giá nhƣ
thế nào. Nếu hàng hóa, dịch vụ đó có giá cao thì họ sẽ nộp thuế nhiều, giá thấp thì họ sẽ
nộp thuế ít.
Ưu điểm: Đối tƣợng thu thuế rất rộng, bất kỳ ai, nếu mua hay sử dụng một loại
hàng hóa, dịch vụ thì đều phải nộp thuế. Thuế gián thu tránh đƣợc sự gặp mặt trực tiếp
giữa ngƣời thu thuế và ngƣời nộp thuế nên việc thu thuế đƣợc tiến hành đơn giản hơn, dễ

thu hơn. Thuế gián thu có thể điều chỉnh tăng một cách dễ dàng hơn mà ích khi bị phản
ứng từ ngƣời chịu thuế. Mặt khác công tác quản lý việc thu thuế gián thu đƣợc thực hiện
dễ dàng hơn, ích tốn kém, không gặp rắc rối trong việc khấu trừ thuế, trả lại hoặc thu bổ
sung thuế.
Nhược điểm: Thuế gián thu có thể dẫn đến tình trạng không công bằng giữa các
chủ thể nộp thuế. Thuế gián thu đƣợc tính trên giá cả hàng hoá, dịch vụ bất chấp ngƣời
tiêu dùng là ai, thu nhập, hoàn cảnh nhƣ thế nào, nếu họ cùng mua một lƣợng hàng hóa
nhƣ nhau với số tiền bằng nhau thì họ buộc phải nộp một mức thuế nhƣ nhau. Tính lũy
thoái của thuế gián thu thể hiện ở chỗ: nếu một ngƣời giàu và một ngƣời nghèo mua càng
nhiều hàng hóa thì số thuế phải nộp của ngƣời giàu đƣợc xem là ít hơn so với ngƣời
nghèo (xét mức thuế trên tổng thu nhập của cá nhân ngƣời mua hàng hóa đó). Ví dụ, A
(giàu) có thu nhập 20 triệu đồng một tháng và B (nghèo) có thu nhập 4 triệu đồng một
tháng. Giả sử A và B trong một tháng đã tiêu thụ đƣợc một lƣợng hàng hóa với số thuế đã
nộp nhƣ nhau là 400 nghìn đồng. Nhƣ vậy tỷ lệ nộp thuế của A là 0.02% và của B là
0.1% gấp 5 lần tỷ lệ nộp thuế của A. Ta nói rằng, B nộp thuế nhiều hơn A. Ngoài ra, một
trong các hạn chế lớn nhất của thuế gián thu là luôn phụ thuộc vào tình hình hoạt động và
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hay nói cách khác, thuế gián thu phụ thuộc
vào số lƣợng hàng hóa, dịch vụ đƣợc bán ra hoặc đƣợc cung ứng ra thị trƣờng.
Thuế trực thu và thuế gián thu đều có ƣu và nhƣợc điểm riêng. Tùy vào tình hình
phát triển kinh tế – xã hội, nhu cầu tài chính của quốc gia mà phát huy ƣu và nhƣợc điểm
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 16

SVTH: Phạm Chí Toàn


của từng loại thuế để điều tiết thu nhập ngƣời dân, đảm bảo nguồn thu nhanh chóng, kịp
thời, hiệu quả.
1.1.4.2. Phân loại dựa trên đối tượng tính thuế

Căn cứ vào đối tƣợng tính thuế, thuế đƣợc phân chia thành thuế đánh vào tiêu
dùng, thuế đánh vào thu nhập, và thuế đánh vào tài sản. Theo giáo trình của Trƣờng Đại
học Luật Hà Nội21, việc phân loại trên có cách hiểu nhƣ sau:
Thuế đánh vào tiêu dùng là các loại thuế có đối tƣợng chịu thuế là phần thu nhập
của ngƣời chịu thuế đƣợc mang đi tiêu dùng vào thời điểm chịu thuế. Loại thuế này phần
lớn là các loại thuế gián thu nhƣ thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế đánh vào thu nhập chỉ đƣợc thực hiện đối với những đối tƣợng có giá trị
thặng dƣ phát sinh từ tài sản, sức lao động. Các loại thuế thƣờng là thuế thu nhập cá
nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp,...
Thuế đánh vào tài sản là loại thuế đánh vào bản thân tài sản (bao gồm tài sản hữu
hình và tài sản vô hình) chứ không phải đánh vào phần thu nhập phát sinh từ tài sản đó.
Các loại thuế nhƣ thuế nhà đất, thuế vốn, thuế chuyển nhƣợng tài sản,..
1.1.5. Các nguyên tắc xây dựng chính sách thuế
Xuất phát từ yêu cầu thực tế, thuế không chỉ đƣợc sử dụng để tạo ra nguồn thu cho
ngân sách Nhà nƣớc mà thuế còn đƣợc sử dụng để thực hiện các mục tiêu quản lý nền
kinh tế vĩ mô. Bởi vậy, khi xây dựng chính sách thuế cần nhất thiết phải tuân thủ đúng
các nguyên tắc để tránh hiện tƣợng sai lệch về cách hiểu và cách làm nhằm thỏa mãn
đƣợc mục tiêu đề ra. Trong cuốn giáo trình tài chính 2 (thuế) của tác giả Lê Thị Nguyệt
đã ghi nhận rằng thuế tồn tại 5 nguyên tắc, đó là: Nguyên tắc công bằng, nguyên tắc khả
thi, nguyên tắc minh bạch thuận tiện, nguyên tắc hiệu quả và nguyên tắc ổn định22. Tuy
nhiên qua quá trình khảo sát, khi tiến hành xây dựng chính sách thuế cần có thêm nguyên
tắc linh hoạt. Nguyên tắc này đƣợc ghi nhận cụ thể trong quyển giáo trình Lý thuyết thuế
của Học Viện Tài chính23. Thật vậy, nguyên tắc linh hoạt chẳng những không đối lập mà
còn là nguyên tắc rất quan trọng trong việc phát huy vai trò của các chính sách thuế. Do
đó, khi tiến hành xây dựng chính sách thuế, cần phải đảm bảo 6 nguyên tắc để đạt đƣợc
hữu dụng tối đa trong việc thu ngân sách cho Nhà nƣớc, đồng thời phát huy vai trò quản
lý vĩ mô nền kinh tế.
1.1.5.1. Nguyên tắc công bằng
Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển của xã hội.
Đạo luật cao nhất của nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam – Hiến pháp có ghi

nhận: “Nhà nƣớc bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
21 Trƣờng Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB Tƣ pháp, Hà nội, năm 2007, tr.16.
22 Lê Thị Nguyệt Châu, Giáo trình Tài chính 2 (thuế), Tủ sách Đại học Cần thơ, Cần Thơ, năm 2010, tr.12.
23 Học viện Tài chính, Giáo trình Lý thuyết thuế, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2005, tr.52.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 17

SVTH: Phạm Chí Toàn


dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng
đất nƣớc giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi ngƣời có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”24. Nhƣ vậy, nhu cầu công bằng trong toàn
thể bộ phận xã hội luôn đƣợc Nhà nƣớc đặt lên hàng đầu trong đó có việc xây dựng chính
sách thuế. Từ đó, tính công bằng trong xây dựng thuế là một yêu cầu rất quan trọng.
Các nhà kinh tế cho rằng tính công bằng của thuế phải dựa trên nguyên tắc công
bằng theo chiều ngang và nguyên tắc công bằng theo chiều dọc. Nguyên tắc công bằng
theo chiều ngang đƣợc hiểu là mỗi các nhân, tổ chức có điều kiện nộp thuế ngang nhau
thì đƣợc đối xử nhƣ nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Nguyên tắc công bằng theo
chiều dọc đƣợc hiểu là mỗi các nhân, tổ chức có điều kiện nộp thuế khác nhau thì đƣợc
đối xử khác nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Ai có điều kiện nộp thuế cao hơn thì
nộp thuế nhiều hơn, ai có điều kiện nộp thuế thấp hơn thì nộp thuế ít hơn.
Nguyên tắc công bằng trong xây dựng thuế chỉ là nguyên tắc tƣơng đối. Trong
thực tế, Nhà nƣớc rất khó xác định đƣợc thu nhập chính thức của một cá nhân, tổ chức
một cách thật cụ thể, chính xác để tiến hành thu thuế. Mặt khác điều kiện nộp thuế nhƣ
thế nào thì đƣợc gọi là nhƣ nhau để có thể đối xử nhƣ nhau trong quá trình thu thuế? Có
phải là một cá nhân, tổ chức có thu nhập trong một khoảng thời gian cố định là hoàn toàn
bằng nhau? Trƣờng hợp này rất hiếm khi xảy ra. Bởi lẻ, thu nhập của một ngƣời thì cần

dựa vào điều kiện vật chất sẵn có và khả năng lao động để có thêm khoản thu nhập phát
sinh. Vì vậy, khi tiến hành thu thuế, Nhà nƣớc căn cứ vào mức chênh lệch tƣơng đối của
các khoản thu nhập mà thu các khoản thuế sao cho hợp lý. Tuy chƣa đảm bảo tính khả thi
cho nguyên tắc, song đây cũng là quan điểm tiến bộ, thể hiện rõ tinh thần dân chủ của
pháp luật Việt Nam.
Tóm lại, nguyên tắc công bằng trong xây dựng luật thuế là đòi hỏi khách quan.
Việc đánh giá một hệ thống thuế đƣợc cho là công bằng không phải là một công việc dễ
dàng. Công bằng trong thuế luôn tùy thuộc vào nhận thức và quan điểm chỉ đạo của chính
quyền Nhà nƣớc, sao cho công tác thực hiện gặp nhiều thuận lợi và đạt kết quả tối ƣu nhƣ
mong muốn.
1.1.5.2. Nguyên tắc khả thi
Nguyên tắc khả thi là nguyên tắc đầu tiên và là nguyên tắc quan trọng trƣớc khi
ban hành ra một sắc thuế. Khả thi ở đây đƣợc hiểu là khả năng thực hiện đƣợc một yêu
cầu ban đầu đã đề ra. Nhƣ vậy, nguyên tắc khả thi trong xây dựng luật thuế là phải làm
sao cho quy định của thuế có khả năng đi vào cuộc sống và đảm bảo đƣợc mục đích xây
dựng của luật thuế đó. Khả thi trong nguyên tắc của luật thuế cần đảm bảo hai khả năng:
khả năng nộp thuế và khả năng thu thuế.
24 Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 3.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 18

SVTH: Phạm Chí Toàn


Khả năng nộp thuế
Thuế đƣợc đánh trên một phần thu nhập của ngƣời dân. Do đó, khi xây dựng luật
thuế, cần chú ý đến đối tƣợng chịu thuế, mức thuế suất của thuế mà đánh thuế một cách
hợp lý để ngƣời dân có thể đóng góp một cách tự nguyện. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc luôn

tùy thuộc vào tình hình kinh tế, điều kiện sinh sống, lao động của từng cá nhân, tổ chức
mà có thể giảm thuế để họ đƣợc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Khả năng thu thuế
Khi xây dựng một luật thuế, cần xem xét đến khả năng thu thuế của các cơ quan
thuế. Trình độ, kinh nghiệm, khả năng phán đoán là một trong những phẩm chất không
thể thiếu của từng nhân viên, cán bộ thu thuế. Việc xác định đúng đối tƣợng nộp thuế, đối
tƣợng chịu thuế, số thế phải thu là điều rất quan trọng trong việc đáp ứng khả năng thu
thuế. Ngoài ra, trong quá trình thu thuế, các cơ quan thu thế cũng cần có khả năng phát
hiện và xử lý kịp thời các trƣờng hợp trốn thuế, không nộp thuế nhằm tránh thất thu thuế.
Nhƣ vậy, nguyên tắc khả thi trong xây dựng luật thuế là nguyên tắc tiền đề và rất
quan trọng. Việc thống nhất khả thi trong nộp thuế và khả thi trong thu thuế là điều kiện
cần và đủ để một luật thuế đƣợc đánh giá là có khả thi, từ đó đƣợc áp dụng rộng rãi trong
xã hội và đƣợc xã hội chấp nhận.
1.1.5.3. Nguyên tắc minh bạch, thuận tiện
Một luật thuế đƣợc xem là minh bạch, thuận tiện khi luật thuế đó đơn giản, dễ
hiểu, rõ ràng, dễ thực thi và dễ quản lý. Nhà nƣớc cần đảm bảo nguyên tắc minh bạch,
thuận tiện ngay trong nội dung của chính sách thuế, đồng thời còn phải thể hiện rõ
nguyên tắc trên trong cả việc thực hiện thu và nộp thuế.
Tính minh bạch, thuận tiện trong nội dung chính sách thuế phụ thuộc vào trình độ
và khả năng lập pháp của các nhà làm Luật. Nhà nƣớc ban hành chính sách thuế, song
ngƣời dân lại là ngƣời thực hiện chính sách đó. Vì vậy, khi ban hành văn bản pháp luật về
thuế thì cần đảm bảo sao cho rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo tính lô gíc, hệ thống chặt chẽ, để
ngƣời dân có thể dễ dàng nhận thức, hiểu đủ, hiểu đúng từng quy định trong văn bản. Bên
cạnh đó, việc quy định rõ ràng, dễ hiểu còn nhằm làm cho công tác kiểm tra, quản lý
đƣợc thực hiện tốt hơn.
Tính minh bạch, thuận tiện trong công tác thu và nộp thuế mang tính hành chính
thuế. Nguyên tắc này đƣợc thể hiện trong các quy định về thủ tục đăng ký, kê khai, nộp
thuế, khả năng quản lý của các cơ quan thuế. Khi tính minh bạch, thuận tiện đƣợc thể
hiện rõ thì ngƣời dân có thể tự giác kê khai nộp thuế, và cơ quan quản lý không gặp khó
khăn trong quá trình thu thuế.

Xuất phát từ nguyên tắc minh bạch, thuận tiện, hầu hết các sắc thuế thƣờng có
chứa đựng các quy định nhƣ: Phạm vi điều chỉnh, đối tƣợng chịu thuế, ngƣời nộp thuế, ai
GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 19

SVTH: Phạm Chí Toàn


đƣợc miễn thuế, xử lý vi phạm, một số văn bản còn có thêm quy định giải thích từ ngữ
nhằm làm rõ nghĩa của các từ chuyên ngành. Nhƣ vậy, nguyên tắc minh bạch, thuận tiện
trong xây dựng luật thuế là một đòi hỏi khách quan nhằm đảm bảo tính khả thi của chính
sách thuế, huy động nguồn tài chính cho ngân sách Nhà nƣớc ngày càng tăng.
1.1.5.4. Nguyên tắc hiệu quả
Tính hiệu quả trong xây dựng luật thuế đƣợc hiểu là khi áp dụng một luật thuế vào
đời sống xã hội thì luật thuế đó phải thể hiện mục tiêu của mình với chi phí thấp nhất
đồng thời mọi sắc thuế điều đảm bảo mục đích tăng trƣởng nguồn thu cho ngân sách Nhà
nƣớc và đƣợc sự nhất trí của nhân dân. Nguồn thu ngân sách Nhà nƣớc là thƣớc đo phát
triển của nền kinh tế. Các Mác nói: “Chính phủ mạnh và thuế cao là hai khái niệm đồng
nhất”25. Trong quá trình quản lý thu và nộp thuế, không tránh khỏi các chi phí phát sinh.
Mức độ phát sinh các chi phí phụ thuộc vào tính đơn giản hay phức tạp của một luật thuế.
Nhƣ vậy, chi phí quản lý trong quá trình thu và nộp thuế càng thấp và số thuế đƣợc huy
động vào ngân sách Nhà nƣớc càng nhiều thì tính hiệu quả của hệ thống thuế càng cao.
1.1.5.5. Nguyên tắc ổn định
Tính ổn định trong xây dựng luật thuế đƣợc hiểu là luật thuế phải đƣợc ban hành
và thực thi trong thực tiễn một khoảng thời gian thích hợp, hạn chế việc sửa đổi bổ sung
từng sắc thuế một cách thƣờng xuyên, việc ban hành sắc thuế mới phải thông báo trƣớc
một khoảng thời gian để các cá nhân, tổ chức có liên quan chuẩn bị nhằm thực thi có hiệu
quả.
Nguyên tắc ổn định trong xây dựng luật thuế là điều kiện để các quy định của luật

thuế đi vào đời sống ngƣời dân. Sự ổn định của hệ thống thuế là điều kiện quan trọng để
ổn định môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh, đảm bảo điều kiện để các thể nhân và pháp nhân
lựa chọn kinh doanh và quyết định đầu tƣ26.
Xuất phát từ chức năng của thuế là ổn định vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, nền kinh
tế quốc gia luôn biến động, đặc biệt là nền kinh tế thị trƣờng đang trên đà hội nhập quốc
tế. Do đó, khi xây dựng một luật thuế nhất thiết cần có một cách nhìn toàn diện, đoán
trƣớc đƣợc xu hƣớng vận động của nền kinh tế nhằm tránh sự lạc hậu của các văn bản
luật thuế.
1.1.5.6. Nguyên tắc linh hoạt
Tính linh hoạt của một luật thuế đƣợc thể hiện thông qua khả năng vận động, điều
tiết nền kinh tế khi nền kinh tế đó biến động theo thời gian mà vẫn không làm lệch pha
giữa chính sách thuế với các hoạt động kinh tế.
Hệ thống thuế phải đảm bảo có khả năng vận động với sự thay đổi của hoàn cảnh
25 Nguyễn Hồng Thắng, Thuế, NXB Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh, năm 1998, tr.10.
26 Học viện Tài chính, Giáo trình Quản lý tài chính công, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2005, tr.112.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 20

SVTH: Phạm Chí Toàn


kinh tế thì mới phát huy đƣợc vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế. Bởi vì, Nhà
nƣớc ban hành ra chính sách thuế, nhƣng ngƣời thực hiện chính sách thuế ấy là các tầng
lớp dân cƣ trong xã hội. Cho nên khi hoạch định chính sách thuế phải đảm bảo can thiệp
ở mức độ, thời điểm và đối tƣợng thích hợp mới có thể tạo đáp ứng mục tiêu tăng trƣởng
của nền kinh tế.
Khi xây dựng một luật thuế, các nhà làm luật điều căn cứ các nguyên tắc trên. Tuy
nhiên, trên thực tế, để đảm bảo sự thống nhất và hài hòa của những nguyên tắc trên là

điều khó khăn. Chẳng hạn, nếu nguyên tắc công bằng đƣợc đảm bảo thì nguyên tắc hiệu
quả khó mà đƣợc đáp ứng. Nguyên tắc công bằng là đối xử với tất cả mọi ngƣời là nhƣ
nhau, vì thế, cần xây dựng một luật thuế với nhiều mức thuế suất và nhiều quy định phù
hợp theo từng đối tƣợng chịu thuế. Do đó, tính hiệu quả của luật thuế đó sẽ không đƣợc
đảm bảo, dẫn đến vi phạm nguyên tắc hiệu quả. Mặt khác, nếu đảm bảo nguyên tắc linh
hoạt thì cũng có khả năng ảnh hƣởng đến nguyên tắc công bằng.
Nhà nƣớc dƣới góc độ quản lý tầm vĩ mô. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội,
nhu cầu chi tiêu của mình mà khi xây dựng một luật thuế cần kết hợp các nguyên tắc sao
cho đảm bảo sự hài hòa, có thể xem trọng nguyên tắc này hơn nguyên tắc kia nhằm đạt
mục đích tối ƣu nhất mà luật thuế đó mang lại.
1.1.6. Cơ sở pháp lý về thuế
Thuế là một trong những nghĩa vụ cơ bản của công dân đã đƣợc quy định rõ trong
Hiến pháp27 – Nguồn quan trọng nhất của luật thuế. Bên cạnh đó, Hiến pháp cũng quy
định chỉ có Quốc hội mới có quyền ban hành luật thuế28. Tuy nhiên, một số trƣờng hợp
Quốc hội có thể ủy quyền cho cơ quan thƣờng trực của mình là Ủy ban Thƣờng vụ Quốc
hội ban hành một số loại thuế dƣới hình thức Pháp lệnh, sau khi thi hành một thời gian thì
hoản chỉnh, trình Quốc hội ban hành luật.
Các luật thuế do Quốc hội ban hành, sửa đổi, bổ sung nhƣ Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ
đặc biệt, Luật thuế Tài nguyên, Luật thuế bảo vệ môi trƣờng, Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp,...
Bên cạnh đó, các biện pháp xử phạt vi phạm trong lĩnh vực về thuế đƣợc quy định trong
một số văn bản khác nhƣ Luật Hành chính, Bộ luật Hình sự,...
Nghị định của Chính phủ về hƣớng dẫn và quy định chi tiết các luật thuế, Nghị
quyết của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ trong việc ban hành các chính sách thuế tạm
thời nhằm đáp ứng tình hình phát triển chung của đất nƣớc.
27 Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 80 có quy định: “Công dân có nghĩa vụ đóng
thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật”.
28 Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 84, khoản 4 có quy định: “Quyết định chính
sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách Nhà nƣớc và phân bổ ngân sách Nhà nƣớc, phê

chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nƣớc; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế”.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 21

SVTH: Phạm Chí Toàn


Thông tƣ hƣớng dẫn các Nghị định của Chính phủ, Thông tƣ hƣớng dẫn chi tiết
một số Nghị quyết của Chính phủ, Thông tƣ liên tịch của các Bộ, Ngành để hoàn thiện
các chính sách thuế.
Để thực hiện một cách nhất quán và rõ ràng, Tổng cục thuế cũng có các Công văn
hƣớng dẫn cho các Cục thuế địa phƣơng áp dụng cụ thể một số quy định pháp luật thuế
mà các Cục thuế địa phƣơng gặp khó khăn trong quá tình thực hiện. Bên cạnh đó, nguồn
của thuế còn có các Điều ƣớc quốc tế, Hiệp định song phƣơng, đa phƣơng đã đƣợc ký kết
mà Cộng hòa Xã hội Chủ ngĩa Việt Nam là thành viên.
1.2. Vấn đề chung về giá cả hàng hóa trên thị trƣờng Việt Nam
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm
1.2.1.1. Thị trường
Sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ luôn gắn liền với thị trƣờng. V.I.Lênin cho
rằng: nơi nào có phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa, thì ở đó và khi ấy, có
thị trƣờng; Quy mô của thị trƣờng gắn chặt với trình độ chuyên môn hóa của lao động xã
hội29.
Theo nghĩa hẹp, thị trƣờng đƣợc hiểu là khoảng không gian nhất định diễn ra các
hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ: thị trƣờng Cần Thơ, thị trƣờng An Giang,
thị trƣờng đồng bằng Sông Cửu Long. Hoặc có khái niệm khác, thị trƣờng là nơi chỉ diễn
ra các hoạt động mua bán những loại hàng hóa, dịch vụ nhất định. Chẳng hạn ta có thị
trƣờng chứng khoán, thị trƣờng nƣớc giải khát có gaz.
Theo nghĩa rộng, thị trƣờng là nơi chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa (hàng hóa

hữu hình, hàng hóa vô hình và tiền tệ) nhằm thỏa mãn nhu cầu của ngƣời mua và ngƣời
bán.
Thị trƣờng là nơi trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ. Vì thế, thị trƣờng luôn có
đặc điểm là luôn gắn liền với không gian, địa điểm (nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao
đổi). Bên cạnh đó, thị trƣờng còn gắn liền với sự hình thành và sản xuất, lƣu thông hàng
hóa, lƣu thông tiền tệ. Nhƣ vậy, thị trƣờng là nơi gặp gỡ giữa sản xuất và tiêu dùng mà ở
đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh để xác định giá cả và sản lƣợng hàng hóa.
1.2.1.2. Hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động dùng để thỏa mãn nhu cầu của con ngƣời và đi
vào đời sống tiêu dùng thông qua trao đổi. Xuất phát từ sự thỏa mãn của con ngƣời và có
thể trao đổi, do đó, hàng hóa tồn tại hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Ví dụ:
sách, vở, máy tính...

29 Vũ Đình Bách, Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (sách tham khảo),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004, tr.233.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 22

SVTH: Phạm Chí Toàn


1.2.1.3. Giá cả
Giá cả là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, là thƣớc đo kinh tế của mỗi quốc gia. Sự
hình thành và vận động của giá cả chịu sự tác động của các yếu tố nhƣ: kinh tế, chính trị,
xã hội.
Theo quan điểm của Các Mác: Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền giá trị xã hội (thời
gian lao động cần thiết) của một hàng hóa nhất định. Lênin có sự bổ sung cho định nghĩa
trên, ông khẳng định: Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền giá trị xã hội của một hàng hóa

nhất định, của một đơn vị giá trị sử dụng nhất định. Nhìn chung, các khái niệm trên chủ
yếu xoay quanh yếu tố giá trị và yếu tố giá trị sử dụng của các loại hàng hóa. Để khái
niệm về giá cả phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng, các nhà kinh tế hiện đại cho rằng: giá
cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa, đồng thời cũng
biểu hiện một cách tổng hợp các mối quan hệ trong nền kinh tế quốc dân30. Từ các khái
niệm, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của giá cả nhƣ sau:
Giá cả gắn liền với tiền tệ. Sự so sánh hoặc trao đổi giữa hàng hóa này với hàng
hóa khác đƣợc thông qua một vật trung gian đƣợc biểu hiện ra ngoài là giá cả. Trong quá
trình sản xuất hàng hóa, hàng hóa đƣợc phát triển cùng với sự mở rộng của thị trƣờng, thì
các hàng hóa luôn đƣợc trao đổi qua lại. Ban đầu, hàng hóa sản xuất ra ít, con ngƣời trao
đổi với nhau thông qua giá trị của hàng hóa. Khi hàng hóa đƣợc sản xuất nhiều hơn thì
hàng hóa đƣợc trao đổi với nhau thông qua một vật ngang giá chung, vật ngang giá này
cũng là một vật có giá trị trung bình đƣợc chủ thể trao đổi chấp nhận. Song, nền kinh tế
hàng hóa ngày càng phát triển, hàng hóa trở nên đa dạng và phong phú hơn thì vật ngang
giá chung này tỏ ra không phù hợp nữa. Vì nếu thỏa mãn bên này thì sẽ đƣợc coi là bị
thiệt cho bên kia. Điều đó đòi hỏi cần một vật ngang giá chung thống nhất, để ngƣời mua
và ngƣời bán đều có thể đƣợc thỏa mãn. Từ đó, hình thái tiền tệ ra đời và lấy vàng làm
vật ngang giá chung cố định. Tóm lại, giá cả gắn liền với tiền tệ và đƣợc thể hiện thông
qua quá trình trao đổi hàng hóa.
Giá cả gắn liền với giá trị. Nói cách khác, giá cả gắn liền với chất lƣợng, chi phí,
thời gian lao động xã hội cần thiết để cho ra một đơn vị hàng hóa. Nếu hai doanh nghiệp
cùng sản xuất một hàng hóa cùng loại. Doanh nghiệp nào sản xuất hàng hóa với chất
lƣợng cao hơn thì có thể bán hàng hóa đó với giá thành cao hơn doanh nghiệp còn lại.
Hoặc, nếu doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa với chi phí cao thì giá thành hàng hóa đó
đƣơng nhiên phải cao hơn giá thành của doanh nghiệp bỏ ra chi phí thấp.
Ví dụ: hai doanh nghiệp A và doanh nghiệp B cùng sản xuất bánh ngọt. Doanh
nghiệp A sản xuất ra chiếc bánh ngọt ngon hơn chiếc bánh ngọt của doanh nghiệp B thì
doanh nghiệp A có quyền bán chiếc bánh của mình với giá cao hơn.
30 Học viện Tài chính, giáo trình cơ sở hình thành giá cả, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2007, tr. 26, 27.


GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 23

SVTH: Phạm Chí Toàn


Giá cả gắn liền với giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có
thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con ngƣời. Nhƣ vậy, tùy thuộc vào công dụng của sản
phẩm mà ngƣời sản xuất hoặc ngƣời tiêu dùng có thể lựa chọn để mua. Nếu thấy công
dụng của sản phẩm đó thật sự cần thiết cho nhu cầu của họ thì họ sẵn sàng mua chúng với
giá cao và ngƣợc lại.
Ví dụ: Thay vì mua một chiếc máy nghe nhạc MP3, thì một ngƣời có thể mua một
chiếc điện thoại có thêm chức năng nghe nhạc. Nhƣ vậy, với chất lƣợng xử lý nhạc nhƣ
nhau, chiếc điện thoại đƣơng nhiên có giá thành cao hơn chiếc máy nghe nhạc, vì điện
thoại có các chức năng khác mà máy nghe nhạc không có.
Giá cả là một phạm trù kinh tế, do đó, giá cả có mối quan hệ chặt chẽ với các
phạm trù kinh tế khác nhƣ: hàng hóa, tiền tệ, chi phí, lợi nhuận, thu nhập...
1.2.1.4. Mối quan hệ giữa thị trường, hàng hóa với giá cả
Hàng hóa đƣợc sản xuất ra nhằm đáp ứng các nhu cầu của con ngƣời. Khi hàng
hóa trở nên dƣ thừa, đa dạng thì ngƣời sản xuất tiến hành trao đổi với các chủ thể khác
nhằm đáp ứng nhiều hơn cho nhu cầu lợi ích của cá nhân. Thông qua trao đổi, thị trƣờng
và giá cả đƣợc hình thành và phát triển. Hàng hóa, thị trƣờng và giá cả là ba phạm trù
thống nhất, không tồn tại riêng lẻ. Giá cả hàng hóa ra đời trong quan hệ trao đổi khi quan
hệ tiền tệ đã phát sinh (sau tiền). Sự xuất hiện và phát triển của phạm trù giá cả gắn liền
với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và sự hoàn thiện của nhà nƣớc31. Thật vậy, nếu
không có hàng hóa, phạm trù thị trƣờng và giá cả tất yếu không tồn tại, ngƣợc lại, không
có thị trƣờng hoặc giá cả thì kinh tế hàng hóa cũng không thể phát tiển. Do đó, để một
nền kinh tế hàng hóa tồn tại, tất yếu phải phối hợp chặt chẽ ba yếu tố trên.
Vì sự thống nhất của các phạm trù, nên ta có các khái niệm nhƣ: giá cả hàng hóa,

giá cả thị trƣờng, thị trƣờng hàng hóa,...
1.2.2. Chức năng của giá cả
Chức năng của giá cả là những tác động một cách tổng thể lên nền kinh tế. Đồng
thời, chức năng của giá cả còn tác động thông qua các chủ thể tham gia vào thị trƣờng.
Xuất phát từ các đặc điểm, chức năng của giá cả đƣợc thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất, Giá cả phản ánh bản chất nền kinh tế quốc dân. Thông tin giá cả phản
ánh đúng thực trạng nhu cầu mua bán của xã hội. Qua kênh giá cả, ngƣời tiêu dùng có thể
lựa chọn những mặt hàng nào để mua cho phù hợp với nhu cầu của bản thân. Đồng thời
ngƣời bán sẽ biết rõ những mặt hàng nào nên hay không nên sản xuất tại thời điểm hiện
tại. Nói chung, giá cả phản ánh quy luật cung – cầu, tình hình sản xuất của các doanh
nghiệp của một quốc gia. Từ đó, các nhà sản xuất điều chỉnh số lƣợng và quy mô sản
xuất để có thể hòa nhập với thị trƣờng. Bên cạnh đó, Nhà nƣớc dựa vào thông tin giá cả
31 Học viện Tài chính, Giáo trình cơ sở hình thành giá cả, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2007, tr. 11.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu

Trang 24

SVTH: Phạm Chí Toàn


mà thực hiện việc quản lý vĩ mô, điều tiết kinh tế cho phù hợp với tình hình phát triển của
đất nƣớc. Đối với quá trình hội nhập, thông tin giá cả phản ánh trình độ phát triển của
một quốc gia trên trƣờng quốc tế.
Thứ hai, giá cả là phƣơng tiện tính toán chi phí. Giá cả là phƣơng tiện tính toán chi
phí, tính toán lợi nhuận của nhà cung ứng hàng hóa trên thị trƣờng. Giá cả của hàng hóa
là tổng của chi phí sản xuất và lợi nhuận. Do đó, để biết đƣợc chi phí sản xuất và/hoặc lợi
nhuận của một hàng hóa trong một thời gian nhất định, chúng ta cần phải biết đƣợc giá cả
của hàng hóa đó.
Thứ ba, giá cả có chức năng điều tiết sản xuất, tiêu dùng. Trong nền kinh tế, ở điều

kiện bình thƣờng, giá cả có chức năng hết sức quan trọng trong việc kích thích sản xuất
và tiêu dùng thông qua nhu cầu lợi ích của ngƣời mua và ngƣời bán.
Khi giá cả hàng hóa cao hơn mức bình thƣờng, các nhà cung ứng hàng hóa có thể
đầu tƣ thêm vốn, trang bị thêm cơ sở vật chất để sản xuất với số lƣợng hàng hóa nhiều
hơn để họ có thể có thêm lợi nhuận. Nhƣng giá cả cao cũng là điều phải làm cho ngƣời
tiêu dùng đắn đo khi phải lựa chọn mua một loại hàng hóa nào đó, dẫn đến tiêu dùng
giảm. Khi giá cả giảm, các nhà cung ứng hàng hóa buộc phải hạn chế sản xuất, cắt giảm
sản lƣợng vì lợi nhuận giảm. Lúc này, ngƣời tiêu dùng tranh thủ cơ hội để mua thêm một
số hàng hóa phục vụ nhu cầu của mình kéo theo tiêu dùng hàng hóa tăng trở lại.
Thứ tư, giá cả có chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân. Thực tế, thu nhập
của mỗi cá nhân trong một quốc gia thì không giống nhau. Thông thƣờng, những ngƣời
có thu nhập cao thì nhu cầu hàng hóa của họ là nhiều hơn so với những ngƣời có thu
nhập thấp hơn, đặc biệt là hàng hóa xa xỉ, cao cấp. Với chức năng điều tiết thu nhập, giá
cả của các hàng hóa khi có thuế có thể ở mức cao nhằm thu lại một phần thu nhập của
ngƣời có thu nhập cao. Tuy nhiên, đối với các mặt hàng nhu yếu phẩm, thì giá của các
mặt hàng này thƣờng có giá thấp hơn nhằm ổn định đời sống sinh hoạt của từng công dân
kể cả ngƣời có thu nhập thấp. Giá cả thực hiện chức năng điều tiết thu nhập thông qua
trao đổi, mua bán. Điều tiết đƣợc thu nhập của cá nhân là cơ sở cho điều tiết thu nhập
quốc dân.
1.2.3. Yếu tố ảnh hƣởng đến giá cả
1.2.3.1. Giá trị của hàng hóa
Giá cả hàng hóa là hình thái chuyển hóa của giá trị hàng hóa. Giá cả hàng hóa
bằng chi phí sản xuất xã hội cộng với lợi nhuận bình quân32. Xét một hàng hóa nhất định,
mức giá cả của hàng hóa này luôn vận động xoay quanh giá trị của nó. Nhƣng trên thực
tế, giá cả một số hàng hóa riêng lẻ thƣờng không bằng với giá trị hàng hóa tƣơng ứng, mà
tổng giá cả hàng hóa mới bằng với tổng giá trị. Sự gặp gỡ của giá cả và giá trị trong cùng
32 Học viện Tài chính, Giáo trình cơ sở hình thành giá cả, NXB Tài chính, Hà Nội, năm 2007, tr. 88.

GVHD: TS. Lê Thị Nguyệt Châu


Trang 25

SVTH: Phạm Chí Toàn


×