Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

LUẬN văn LUẬT THƯƠNG mại VIỆC sử DỤNG INCOTERMS 2000 ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.04 KB, 54 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khóa 31 ( 2005 – 2009 )

Đề tài:

VIỆC SỬ DỤNG INCOTERMS 2000 Ở
VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN
Nguyễn Thu Nguyệt Ánh
Lớp Luật Thương mại 2 K31
MSSV: 5054684

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths. Diệp Ngọc Dũng

Năm 2009


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................


..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................


MỤC LỤC

Trang

LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ INCOTERMS..................................... 4
1.1 Khái niệm.......................................................................................................... 4
1.2 Tìm hiểu 7 ấn bản của Incoterms .................................................................... 6
1.3 Nội dung Incoterms 2000 ................................................................................. 9
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG INCOTERMS 2000 Ở VIỆT NAM ...18
2.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu tại Việt Nam ........................................18
2.1.1 Hoạt động xuất khẩu....................................................................................18
2.1.1.1 Kim ngạch và tốc độ gia tăng kim ngạch................................................18
2.1.1.2 Mặt hàng xuất khẩu................................................................................19
2.1.2 Hoạt động nhập khẩu ...................................................................................20
2.1.2.1 Kim ngạch và tốc độ gia tăng kim ngạch................................................20
2.1.2.2 Mặt hàng nhập khẩu...............................................................................21
2.2 Việt Nam sử dụng chủ yếu hai điều kiện FOB và CIF trong hoạt động xuất
nhập khẩu .............................................................................................................22
2.2.1 Điều kiện FOB.............................................................................................23
2.2.2 Điều kiện CIF ..............................................................................................28
2.3 Thuận lợi và khó khăn trong việc lựa chọn xuất FOB nhập CIF..................34
2.3.1 Thuận lợi .....................................................................................................34
2.3.2 Khó khăn .....................................................................................................35
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ..............................41
3.1 Thực trạng sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam...........................................41
3.2 Hướng hoàn thiện............................................................................................44
KẾT LUẬN............................................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam


LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Chưa bao giờ như hiện nay, Chính phủ cùng các doanh nghiệp Việt Nam đều
quan tâm đến hoạt động ngoại thương, hiệu quả và tính cạnh trạnh của các ngành
hàng xuất khẩu là những chỉ tiêu hàng đầu đánh giá khả năng hội nhập của một nền
kinh tế trong tiến trình mở cửa kinh tế với bên ngoài. Hoạt động ngoại thương của
Việt Nam trong những năm trở lại đây có nhiều bước chuyển biến vượt bậc: tốc độ
tăng trưởng xuất nhập khẩu nhanh, từ chỗ kim ngạch xuất khẩu rất nhỏ ở mỗi ngành
hàng thì nay nhiều ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam giữ vị trí thứ hạng cao có
khả năng tham gia chi phối thị trường thế giới và khu vực như gạo, cà phê, cao su,
tiêu; từ chỗ cơ cấu nhập khẩu hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng lớn, chuyển sang nâng
cao tỷ trọng nhập khẩu trang thiết bị, máy móc và nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho
sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên hiệu quả của hoạt động ngoại thương vẫn chưa
được nâng lên đáng kể: xuất khẩu dưới dạng thô, dưới dạng gia công còn chiếm tỷ
trọng cao, sản xuất hàng xuất khẩu còn bị lệ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu
ngoại nhập, nhiều doanh nghiệp còn làm ăn thô lỗ, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm Việt Nam trên thị trường nội địa và xuất khẩu còn hạn chế, nhập siêu còn duy
trì ở mức độ cao. Một trong những nhân tố tác động đến tính hiệu quả của hoạt động
ngoại thương là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam chưa sử dụng có
hiệu quả và vận dụng đúng các điều kiện thương mại quốc tế ( Incoterms ). Xuất
FOB – nhập CIF gần như là hiện tượng phổ biến, ít thay đổi cùng với tiến trình mở
rộng sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam, hậu quả: xuất khẩu theo giá thấp, nhập
khẩu với giá cao, việc xuất khẩu những sản phẩm vô hình của ngành dịch vụ vận tải,
bảo hiểm bị hạn chế. Việc vận dụng không đúng điều kiện Incoterms chưa tạo cơ sở
pháp lý chuẩn để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động
mua bán hàng hóa quốc tế. Để góp phần giải quyết vấn đề: nâng cao hiệu quả kinh
doanh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam, nghiên cứu thực trạng sử dụng
Incoterms, các nhân tố tác động đến việc sử dụng đúng, có hiệu quả Incoterms, qua
đó đề xuất các giải pháp phù hợp.

2. Đối tượng nghiên cứu.
Việc làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa quan trọng trong
việc nêu rõ những nội dung cơ bản của đề tài, đồng thời còn xác định được khuynh
hướng nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của nó. Theo nội dung của mình, đối
1
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

tượng nghiên cứu của đề tài là hai điều kiện FOB – CIF của Incoterms 2000 trong
hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam. Qua đó khắc phục những hạn chế để hoàn
thiện hơn.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Việc xác định rõ mục tiêu nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa quan trọng trong
việc đưa ra những định hướng vững chắc cho quá trình thực hiện đề tài, đồng thời
làm cho việc thực hiện đề tài không đi lệch khỏi những định hướng đã chọn.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là góp phần xây dựng cơ sở lý luận nhằm để
hoàn thiện việc sử dụng các điều kiện thương mại Incoterms trong hoạt động xuất
nhập khẩu giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam thu được nhiều lợi nhuận cao hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong đề tài, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật lịch sử để đánh giá vấn đề.
- Phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh.
- Phương pháp tiếp cận thông tin: dựa trên những quy định của pháp luật và sách
báo, tạp chí.
- Cùng một số phương pháp nghiên cứu khác mà người viết đã vận dụng để hoàn
thành bài luận văn này.

5. Bố cục của đề tài.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, nhằm tạo ra một bố cục chặt chẽ, logic...
Ngoài lời nói đầu, kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Khái quát chung về Incoterms.
Ở chương này người viết chủ yếu chỉ khái quát về Incoterms 2000, so sánh
Incoterms 2000 với Incoterms 1990, sơ lược về 7 ấn bản của Incoterms giúp người
đọc nắm bắt được những nét cơ bản về Incoterms.
- Chương 2: Thực trạng ứng dụng Incoterms ở Việt Nam.
Ở chương này, người viết lần lượt nêu ra tình hình xuất nhập khẩu tại Việt Nam và
phân tích hai điều kiện FOB – CIF.
- Chương 3: Giải pháp và hướng hoàn thiện.
Trên nền tảng chương 2, người viết tổng kết, đánh giá lại tình hình sử dụng
Incoterms ở Việt Nam, những hạn chế và nêu lên đề xuất của mình.

2
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

Luận văn nghiên cứu với sự cố gắng của bản thân và sự giúp đỡ tận tình
của giáo viên hướng dẫn nên ở một khía cạnh nhất định nào đó đã làm rõ những vấn
đề cơ bản mà đề tài đặt ra. Mặc dù vậy, do trình độ nghiên cứu còn hạn chế nên
không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Người viết rất mong được sự đóng
góp ý kiến từ phía các thầy cô, các bạn sinh viên và những người có quan tâm để
luận văn này được tốt hơn.
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


3
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ INCOTERMS
1.1 Khái niệm.
Hiện nay, sự giao lưu giữa các nước trên thế giới ngày càng mở rộng theo xu
hướng toàn cầu hóa, đặc biệt là sự hình thành, tồn tại và phát triển của các tổ chức
khu vực đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới.
Tình hình này khiến cho các nước không chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế của mình
trong phạm vi quốc gia mà phải tham gia vào các hoạt động thương mại toàn cầu. Sự
giao lưu kinh tế giữa các nước trên thế giới càng mở rộng và phức tạp thì càng cần
thiết phải có cách hiểu chung về cùng một vấn đề.
Trong quá trình phát triển, thương mại quốc tế đã dần dần hình thành những
tập quán thương mại. Nhưng ở mỗi khu vực, mỗi nước lại có những tập quán thương
mại khác nhau. Nhiều khi các bên ký kết hợp đồng ngoại thương không biết được tập
quán thương mại của nước khác. Chính điều đó dẫn đến hiểu lầm, những vụ tranh
chấp và kiện tụng làm lãng phí thời gian và của cải của xã hội.
Qua thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế cho thấy nhiều chủ thể thường
nhầm lẫn giữa Incoterms với hợp đồng mua bán và hợp đồng chuyên chở. Việc áp
dụng các điều kiện Incoterms trong hợp đồng mua bán hoàn toàn do sự thỏa thuận
giữa các bên trong quan hệ hợp đồng.
Vậy Incoterms là gì?
Thuật ngữ “Incoterms” được viết tắt từ ba chữ “International Commerce Terms”

( Các điều kiện thương mại quốc tế ) và mỗi điều kiện của Incoterms được chọn sẽ
trở thành một điều khoản của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chứ không phải là
của hợp đồng chuyên chở hàng hóa. Khi lựa chọn một điều kiện nào đó, thông
thường được viết tắt FOB hoặc CIF, các thương nhân quốc tế đã hiểu rõ nội dung
của nó là việc phân chia chi phí cũng như rủi ro về hàng hóa trong quá trình vận
chuyển. Vì vậy khi lựa chọn một điều kiện nào vào trong hợp đồng, các bên đã thỏa
thuận xác định rõ quyền – nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên những hiểu lầm liên quan
đến cách diễn đạt chính xác từ ngữ thường xuyên xảy ra. Nếu các bên không hiểu
thống nhất với nhau thì khó ký kết hợp đồng ngoại thương được. Để giải quyết vấn
đề này, Phòng Thương mại Quốc tế ( ICC – International Chamber of Commerce )
đã xuất bản lần đầu tiên vào năm 1936 một số quy tắc quốc tế giải thích các điều
kiện thương mại gọi tắt là Incoterms.

4
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

Vậy Incoterms là một văn bản tập hợp các quy tắc giải thích một cách thống
nhất các tập quán thương mại quốc tế, được công nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn
thế giới. Incoterms quy định những quy tắc có liên quan đến trách nhiệm của các bên
( bên bán và bên mua ) trong một hợp đồng thương mại quốc tế nhằm hạn chế thấp
nhất những tranh chấp có thể xảy ra.
Vào những năm 20, Phòng Thương mại Quốc tế đã tiến hành khảo sát về cách
hiểu và áp dụng các tập quán thương mại quốc tế của thương gia ở các nước khác
nhau. Kết quả của cuộc khảo sát cho thấy việc giải thích và áp dụng các tập quán
thương mại quốc tế ở các nước khác nhau thì khác nhau. Do đó, trong quá trình thực

hiện các hợp đồng có áp dụng tập quán thương mại quốc tế thường xảy ra tranh
chấp. Bởi vì trong quá trình ký kết hợp đồng, khi thỏa thuận áp dụng tập quán
thương mại quốc tế các bên đã có cách hiểu không thống nhất nên trong quá trình
thực hiện hợp đồng họ đã có hành động khác nhau. Như vậy có thể nói đây là một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp
trong thương mại quốc tế không những làm cho các bên hao phí tiền bạc, thời gian
mà còn làm giảm uy tín của họ đối với nhau và đối với các bạn hàng khác trên thị
trường quốc tế. Để khắc phục tình hình trên, với mục đích giúp các thương gia hiểu
và áp dụng thống nhất tập quán thương mại quốc tế, Incoterms lần đầu tiên được
phát hành vào năm 1936.1
Incoterms quy định các điều khoản về giao nhận hàng hóa, trách nhiệm của
các bên: ai sẽ trả tiền vận tải, ai sẽ đảm trách các chi phí về thủ tục hải quan, bảo
hiểm hàng hóa, ai chịu trách nhiệm về những tổn thất và rủi ro của hàng hóa trong
quá trình vận chuyển ... thời điểm chuyển giao trách nhiệm về hàng hóa.
Incoterms 2000 là phiên bản mới nhất của Incoterms, được Phòng Thương
mại Quốc tế ( ICC ) ở Paris chỉnh lý và có hiệu lực kể từ ngày 01.01.2000.
Incoterms chỉ có giá trị pháp lý bắt buộc các bên khi trong hợp đồng họ thỏa
thuận dẫn chiếu đến việc được điều chỉnh bởi Incoterms ( điểm 2, Incoterms 2000 ).
Dù quy định như vậy nhưng mức độ hiệu lực của Incoterms cũng có hạn chế như
trong trường hợp một số điều khoản của Incoterms có thể không phù hợp với một vài
thói quen giao dịch trong một số ngành nghề hoặc tập quán một khu vực nào đó mà
trong hợp đồng các bên lại thỏa thuận áp dụng theo thói quen trước đó hoặc các tập
quán địa phương... thì lúc này những thỏa thuận của các bên có thể có giá trị pháp lý
cao hơn sự giải thích từ Incoterms.2
1

ThS Diệp Ngọc Dũng, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Trường Đại học Cần Thơ – Khoa Luật năm 2002,
trang 1
2
/>

5
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

1.2 Tìm hiểu 7 ấn bản của Incoterms.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, kinh tế thế giới phục hồi, buôn bán quốc tế
phát triển và mở rộng. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại phát
triển giữa các quốc gia, khi các thương nhân quốc tế bất đồng về ngôn ngữ, chịu sự
điều tiết khác nhau về tập quán thương mại dễ dẫn tới hiểu lầm, tranh chấp kiện
tụng. Phòng Thương mại Quốc tế ( ICC – International Chamber of Commerce ) có
trụ sở tại Paris đã xây dựng điều kiện thương mại quốc tế ( viết tắt Incoterms –
International Commercial Terms ) lần đầu tiên vào năm 1936. Ngay sau đó,
Incoterms được nhiều nhà doanh nghiệp trên thế giới thừa nhận và áp dụng vì tính rõ
ràng, dễ hiểu, phản ánh được các tập quán thương mại phổ biến trong buôn bán quốc
tế. Ngoài ra, khi môi trường và điều kiện kinh doanh quốc tế thay đổi thì Incoterms
cũng được hoàn thiện và đổi mới cho phù hợp với thực tiễn và tính năng động.
Từ khi được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1936 cho đến nay, Incoterms đã
được sửa đổi, bổ sung 6 lần vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990 và năm
2000.
 Incoterms 1936 gồm 7 điều kiện: EXW, FCA, FOR/FOT, FAS, FOB, C&F,
CIF.
 Incoterms 1953 gồm 9 điều kiện bắt đầu từ nghĩa vụ tối thiểu của người bán,
khi người mua phải nhận hàng tại cơ sở của người bán ( Ex Works ) và kết
thúc bằng 2 điều kiện Ex Ship và Ex Quay. Dựa vào đó người bán giao hàng
đến nước người mua.
 Incoterms 1967 bổ sung thêm 2 điều kiện:DAF nghĩa là giao tại biên giới,

DDP nghĩa là giao hàng đã nộp thuế.
DAF là giao hàng tại biên giới của nước người mua, chủ yếu dùng khi hàng được
vận chuyển bằng đường sắt và đường bộ.
DDP dùng cho mọi phương thức vận tải và người bán có nghĩa vụ giao hàng đến cơ
sở người mua sau khi đã đóng thuế nhập khẩu.
 Incoterms 1976 ra đời khi vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không ngày
càng trở nên quan trọng nên Incoterms 1976 có thêm điều kiện FOB airport
được đưa ra trên cơ sở điều kiện FOB cùng với một số đặc điểm riêng để phù
hợp với quá trình vận tải hàng không.3
 Incoterms 1980 có 14 điều kiện:
- EXW ( Ex Works ) – Giao tại xưởng.
3

PGS – TS Đoàn Thị Hồng Vân, Giáo trình kỹ thuật ngoại thương, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội 2007,
trang 9.

6
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

- FCA ( Free Carrier ) – Giao cho người chuyên chở.
- FOR/FOT ( Free on rail/ free on truck ) – Giao tại toa hoặc ga đường sắt.
- FOB airport – Giao tại sân bay.
- FAS ( Free Alongside Ship ) – Giao dọc mạn tàu.
- FOB ( Free on Board ) – Giao lên tàu.
- C&R ( Cost and Freight ) – Tiền hàng và cước phí.

- CIF ( Cost, Insurance and Freight ) – Tiền hàng, phí bảo hiểm và cước
vận tải.
- Freight carriage paid to – Cước trả tới đích.
- Freight carriage and insurance paid to – Tiền cước và phí bảo hiểm đã trả
tới.
- Ex Ship – Giao tại tàu, cảng.
- Ex Quay – Giao trên cầu cảng, cảng.
- DAF ( Delivered At Frontier ) – Giao tại biên giới.
- DDP (Delivered Duty Paid ) – Giao hàng đã nộp thuế.
 Vào năm 1990, Phòng Thương mại Quốc tế đã ban hành cuốn Incoterms 1990
trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Incoterms 1980. Incoterms 1990 có hiệu lực từ
ngày 01.07.1990. Trong Incoterms 1990 có 13 điều kiện thương mại quốc tế
được chia thành 4 nhóm ( E, F, C, D )
Nhóm E gồm 1 điều kiện:
- EXW ( Ex Works ) – Giao tại xưởng.
Nhóm F gồm 3 điều kiện:
- FCA ( Free Carrier ) – Giao cho người chuyên chở.
- FAS ( Free Alongside Ship ) – Giao dọc mạn tàu.
- FOB ( Free on Board ) – Giao lên tàu.
Nhóm C gồm 4 điều kiện:
- CFR ( Cost and Freight ) – Tiền hàng và tiền cước.
- CIF ( Cost, Insurance and Freight ) – Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí.
- CPT ( Carriage Paid To ) – Cước phí trả tới.
- CIP ( Carriage and Insurance Paid To ) – Cước phí và bảo hiểm trả tới.
Nhóm D gồm 5 điều kiện:
- DAF ( Delivered At Frontier ) – Giao tại biên giới.
- DES ( Delivered Ex Ship ) – Giao tại tàu.
- DEQ ( Delivered Ex Quay ) – Giao tại cầu cảng.
- DDU ( Delivered Duty Unpaid ) – Giao hàng chưa nộp thuế.
- DDP ( Delivered Duty Paid ) – Giao hàng đã nộp thuế.

7
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

 Tháng 9.1990 ICC cho xuất bản cuốn Incoterms 2000 trên cơ sở sửa đổi, bổ
sung Incoterms 1990. Incoterms 2000 không thay đổi nhiều so với Incoterms
1990, vẫn giữ nguyên 13 điều kiện với tên gọi và ký hiệu như Incoterms
1990, vẫn chia làm 4 nhóm E, F, C, D và đặc điểm các nhóm như cũ. Ngoài
ra, Incoterms 2000 có một số khác biệt so với Incoterms trước đó. Các từ ngữ
trong Incoterms 2000 có thay đổi một vài chỗ cho chính xác, dễ hiểu hơn so
với các ấn bản Incoterms trước đây.
Kể từ khi Incoterms được Phòng Thương mại Quốc tế soạn thảo năm
1936, chuẩn mực về hợp đồng mang tính toàn cầu này thường xuyên được cập nhật
để bắt kịp với nhịp độ phát triển của thương mại quốc tế. Incoterms 2000 có cân
nhắc tới sự xuất hiện nhiều khu vực miễn thủ tục hải quan trong thời gian qua, việc
sử dụng thông tin liên lạc điện tử ngày càng thông dụng và những thay đổi về tập
quán vận tải, Incoterms 2000 đã sửa đổi, thể hiện nội dung 13 điều kiện thương mại
một cách đơn giản hơn và rõ ràng hơn.4
Ngoài ra, các phiên bản Incoterms ra đời sau không có nghĩa phủ nhận phiên
bản ra đời trước đó. Các phiên bản cũ vẫn hoàn toàn có giá trị về mặt pháp luật. Vì
vậy khi sử dụng điều khoản của Incoterms doanh nghiệp phải ghi rõ là Incoterms
năm nào.
Trong quá trình sửa đổi kéo dài khoảng 2 năm, Phòng Thương mại Quốc tế đã
cố gắng tối đa để lấy ý kiến đánh giá, nhận xét và góp ý về các bản thảo Incoterms
của các thương nhân trên thế giới thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau – Những lĩnh vực
mà Phòng Thương mại Quốc tế có hoạt động thông qua các Ủy ban quốc gia. Một

điều đáng hài lòng là quá trình sửa đổi lần này đã nhận được sự hưởng ứng to lớn
hơn nhiều so với các lần sửa đổi trước đây từ những người sử dụng Incoterms. Kết
quả của cuộc trao đổi đối thoại này là Incoterms 2000, một bản sửa đổi mà nếu so
với Incoterms 1990 sẽ thấy ít có sự thay đổi. Tuy nhiên một điều rõ ràng là
Incoterms ngày nay đã được toàn thế giới công nhận. Vì vậy, Phòng Thương mại
Quốc tế đã quyết định củng cố sự công nhận này và tránh những thay đổi chỉ để phục
vụ lợi ích của riêng mình. Mặt khác, Phòng Thương mại Quốc tế cũng thực sự cố
gắng để đảm bảo từ ngữ sử dụng trong Incoterms 2000 phản ánh rõ ràng và đầy đủ
tập quán thương mại. Cụ thể 2 lĩnh vực sau đây có sự thay đổi lớn:
 Các nghĩa vụ thông quan và nộp thuế thuộc điều kiện FAS và DEQ.
 Các nghĩa vụ bốc hàng và dỡ hàng thuộc điều kiện FCA.

4

đăng tháng 6.2008

8
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

Tất cả những thay đổi, dù là vấn đề nội dung hay hình thức đều được tiến
hành dựa trên cơ sở nghiên cứu và thăm dò kỹ lưỡng những người sử dụng
Incoterms và đặc biệt là căn cứ vào những câu hỏi và thắc mắc mà Ban Chuyên gia
Incoterms – Ban cung cấp dịch vụ cho người sử dụng Incoterms – đã nhận được kể
từ năm 1990.5
1.3 Nội dung Incoterms 2000.

Incoterms 2000 là một bộ các tập quán gồm 13 điều kiện giao nhận hàng hóa
quốc tế. Incoterms 2000 gồm 13 điều kiện, căn cứ vào mức độ trách nhiệm của
người bán và người mua mà 13 điều kiện này được chia thành 4 nhóm E, F, C, D xếp
theo mức độ tăng dần của người bán.
Nhóm E: chỉ có 1 điều kiện, người bán có nghĩa vụ ít nhất. Họ chỉ cần đặt hàng hóa
dưới quyền định đoạt của người mua tại địa điểm do các bên thỏa thuận.
EXW ( Ex Works ) – Giao tại xưởng.
Giao tại xưởng nghĩa là người bán giao hàng hóa khi đặt hàng dưới quyền
định đoạt của người mua tại cơ sở của người bán hoặc tại một địa điểm theo thỏa
thuận của hai bên. Nhưng hàng hóa chưa được làm thủ tục thông quan xuất khẩu và
chưa bốc lên phương tiện tiếp nhận.
Theo điều kiện này, nghĩa vụ của người bán là tối thiểu, người mua phải chịu
mọi phí tổn và rủi ro từ khi nhận hàng tại cơ sở của người bán.
Người bán không phải ký hợp đồng vận tải và bảo hiểm cho lô hàng xuất
khẩu. Ngoài ra người mua phải làm thủ tục xuất khẩu cho lô hàng.6
Nếu các bên muốn người bán chịu trách nhiệm bốc hàng lên phương tiện
chuyên chở tại địa điểm đi, chịu rủi ro và các phí tổn về việc bốc hàng đó cần quy
định rõ ràng bằng cách bổ sung thêm từ ngữ cụ thể trong hợp đồng mua bán.
Nếu người mua không thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm thủ tục xuất khẩu thì
không nên sử dụng điều kiện này mà dùng điều kiện FCA. Khi đó người bán sẽ đồng
ý bốc hàng và chịu chi phí cũng như rủi ro về việc bốc hàng này.
Nhóm F: gồm 3 điều kiện. Nhóm này đòi hỏi người bán phải giao hàng hóa cho
người chuyên chở do người mua chỉ định.

5
6

/> INCOTERMS đăng ngày 28.02.2007

9

SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

FCA ( Free Carrier ) – Giao cho người chuyên chở.
Giao cho người chuyên chở nghĩa là sau khi người bán làm xong các thủ tục
thông quan xuất khẩu, giao hàng cho người chuyên chở do người mua chỉ định, tại
địa điểm quy định. Chú ý: địa điểm giao hàng có ảnh hưởng tới nghĩa vụ bốc và dỡ
hàng tại địa điểm đó. Nếu giao hàng tại cơ sở người bán thì họ có nghĩa vụ bốc hàng.
Nếu giao hàng không tại cơ sở người bán thì họ không có nghĩa vụ dỡ hàng.
Điều kiện này áp dụng cho mọi phương thức vận tải kể cả vận tải đa phương
thức.
“Người chuyên chở” là bất kỳ người nào theo hợp đồng vận tải, cam kết tự
mình thực hiện hoặc đứng ra đảm nhận trách nhiệm chuyên chở bằng đường sắt,
đường bộ, đường hàng không, đường biển, đường thủy nội địa hoặc kết hợp các
phương thức vận tải lại với nhau. Nếu người mua chỉ định người khác, không là
người chuyên chở tiến hành nhận hàng thì người bán được xem như đã hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng khi hàng được giao cho người được chỉ định làm việc này.
FAS ( Free Alongside Ship ) – Giao dọc mạn tàu.
Giao dọc mạn tàu nghĩa là người bán giao hàng khi hàng được đặt dọc theo
mạn tàu tại cảng bốc hàng quy định. Điều này nghĩa là người mua phải chịu tất cả
mọi chi phí và rủi ro về mất mát hoặc hư hại đối với hàng kể từ thời điểm đó.
Điều kiện FAS yêu cầu người bán làm các thủ tục thông quan xuất khẩu cho
hàng hóa.
Đây là quy định ngược với các bản Incoterms trước. Dựa theo các ấn bản
Incoterms cũ, điều kiện này yêu cầu người mua phải làm các thủ tục thông quan xuất
khẩu cho hàng hóa.

Nếu các bên muốn người mua làm các thủ tục thông quan xuất khẩu phải quy
định rõ ràng bằng cách bổ sung thêm các từ ngữ chính xác thể hiện ý định đó trong
hợp đồng mua bán.
Điều kiện này áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa.
FOB ( Free on Board ) – Giao lên tàu.
Giao lên tàu nghĩa là người bán giao hàng khi hàng đã qua lan can tàu tại cảng
bốc hàng quy định. Điều này có nghĩa là người mua chịu tất cả chi phí và rủi ro về
mất mát hoặc hư hại đối với hàng hóa kể từ sau điểm ranh giới. Điều kiện này yêu
cầu người bán phải làm các thủ tục thông quan xuất khẩu cho hàng hóa.
Điều kiện này áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa. Nếu các
bên không có ý định giao hàng qua lan can tàu nên áp dụng điều kiện FCA.
10
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

Nhóm C: gồm 4 điều kiện. Nhóm này đòi hỏi người bán phải kí hợp đồng vận tải
theo những điều kiện thông thường và chịu chi phí cho việc chuyên chở đó. Tuy
nhiên, với 2 điều kiện CIP và CIF người bán phải mua bảo hiểm cho hàng hóa.
CFR ( Cost and Freight ) – Tiền hàng và tiền cước.
Tiền hàng và tiền cước nghĩa là người bán giao hàng khi hàng đã qua lan can
tàu tại cảng bốc hàng. Người bán phải trả các phí tổn và cước vận tải cần thiết để đưa
hàng tới cảng đến quy định nhưng rủi ro về mất mát và hư hại đối với hàng hóa cũng
như mọi chi phí phát sinh thêm sau thời gian giao hàng được chuyển từ người bán
sang người mua khi hàng qua lan can tàu tại cảng bốc hàng.
Điều kiện CFR yêu cầu người bán phải làm các thủ tục thông quan xuất khẩu
cho hàng hóa. Điều kiện này áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa.

Nếu các bên không có ý định giao hàng qua lan can tàu nên áp dụng điều kiện CPT.
CIF ( Cost, Insurance and Freight ) – Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí.
Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí nghĩa là người bán giao hàng khi hàng đã
qua lan can tàu tại cảng bốc hàng theo quy định.
Người bán phải trả các phí tổn và cước vận tải cần thiết để đưa hàng tới cảng
đến quy định nhưng rủi ro về mất mát và hư hại đối với hàng hóa cũng như mọi chi
phí phát sinh thêm sau thời gian giao hàng được chuyển từ người bán sang người
mua khi hàng qua lan can tàu tại cảng bốc hàng. Nhưng theo điều kiện CIF, người
bán còn phải mua bảo hiểm hàng hải để bảo vệ người mua trước rủi ro, mất mát hoặc
hư hại hàng trong quá trình chuyên chở. Việc mua bảo hiểm có 3 mức độ cao – trung
bình – thấp. Vì vậy, người bán phải kí hợp đồng bảo hiểm và trả phí bảo hiểm.
Người bán chỉ mua bảo hiểm ở mức tối thiểu còn người mua muốn được hưởng bảo
hiểm ở mức cao hơn nên người mua cần thỏa thuận rõ ràng với người bán.
Điều kiện CIF yêu cầu người bán thông quan xuất khẩu hàng hóa. Điều kiện
này áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa. Nếu các bên không có ý
định giao hàng qua lan can tàu nên áp dụng điều kiện CIP.
CPT ( Carriage Paid To ) – Cước phí trả tới.
Cước phí trả tới nghĩa là người bán giao hàng cho người chuyên chở do chính
người bán chỉ định. Ngoài ra, người bán phải trả chi phí vận tải cần thiết để đưa hàng
tới nơi quy định, người mua chịu mọi rủi ro và các phí tổn phát sinh thêm sau khi
hàng đã được giao như trên.
11
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

“Người chuyên chở” là bất kỳ người nào theo hợp đồng vận tải, cam kết tự

mình thực hiện hoặc đứng ra đảm nhận trách nhiệm chuyên chở bằng đường sắt,
đường bộ, đường hàng không, đường biển, đường thủy nội địa hoặc kết hợp các
phương thức vận tải lại với nhau.
Nếu có những người chuyên chở kế tiếp nhau được sử dụng để vận chuyển
hàng hóa tới nơi đến quy định thì rủi ro chuyển giao khi hàng được giao cho người
chuyên chở đầu tiên.
Điều kiện này yêu cầu người bán thông quan xuất khẩu hàng hóa. Điều kiện
này áp dụng cho mọi phương thức vận tải kể cả vận tải đa phương thức.
CIP ( Carriage and Insurance Paid To ) – Cước phí và bảo hiểm trả tới.
Cước phí và bảo hiểm trả tới nghĩa là người bán giao hàng cho người chuyên
chở do chính họ chỉ định.
Trong đó:
Người bán phải:
- Ký hợp đồng chuyên chở và trả cước đến địa điểm đích quy định.
- Lấy giấy phép xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu.
- Giao hàng cho người vận tải đầu tiên.
- Ký hợp đồng bảo hiểm cho hàng và trả phí bảo hiểm.
- Cung cấp cho người mua hóa đơn, chứnng từ vận tải thường lệ và đơn bảo hiểm
hoặc bằng chứng khác để thể hiện hàng đã được bảo hiểm.
Nguời mua phải:
- Nhận hàng khi hàng được giao cho người vận tải đầu tiên, khi hóa đơn, đơn bảo
hiểm và chứng từ vận tải được giao cho mình.
- Chịu rủi ro và tổn thất kể từ khi hàng được giao cho người vận tải đầu tiên.
Nhưng theo điều kiện CIP, người bán còn phải mua bảo hiểm hàng hải để bảo
vệ người mua trước rủi ro, mất mát hoặc hư hại hàng trong quá trình chuyên chở.
Việc mua bảo hiểm có 3 mức độ cao – trung bình – thấp. Vì vậy, người bán phải kí
hợp đồng bảo hiểm và trả phí bảo hiểm. Người bán chỉ mua bảo hiểm ở mức tối
thiểu còn người mua muốn nhận bảo hiểm ở mức cao hơn nên người mua cần thỏa
thuận với người bán một cách rõ ràng nhất.
“Người chuyên chở” là bất kỳ người nào theo hợp đồng vận tải, cam kết tự

mình thực hiện hoặc đứng ra đảm nhận trách nhiệm chuyên chở bằng đường sắt,
đường bộ, đường hàng không, đường biển, đường thủy nội địa hoặc kết hợp các
phương thức vận tải lại với nhau.
12
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

Nếu có những người chuyên chở kế tiếp nhau được sử dụng để vận chuyển
hàng hóa tới nơi đến quy định thì rủi ro chuyển giao khi hàng được giao cho người
chuyên chở đầu tiên.
Điều kiện này yêu cầu người bán thông quan xuất khẩu hàng hóa. Điều kiện
này áp dụng cho mọi phương thức vận tải kể cả vận tải đa phương thức.
Nhóm D: gồm 5 điều kiện.
Các điều kiện “D” khác về bản chất so với các điều kiện “C”, vì theo các điều
kiện “D” người bán có trách nhiệm đưa hàng tới địa điểm quy định hoặc một điểm
đến nằm tại biên giới hoặc trong lãnh thổ nước nhập khẩu. Người bán phải chịu mọi
rủi ro và chi phí về việc đưa hàng tới địa điểm quy định đó. Do vậy các điều kiện
“D” chỉ hợp đồng về nơi hàng đến, còn các điều kiện “C” chỉ các hợp đồng về nơi
gửi hàng đi.7
Theo nhóm này, người bán có trách nhiệm đưa hàng đến địa điểm quy định
hoặc một điểm đến nằm tại biên giới hoặc trong lãnh thổ của nước nhập khẩu. Người
bán phải chịu mọi rủi ro và chi phí về việc đưa hàng tới địa điểm đưa hàng. Các điều
kiện thuộc nhóm D dùng để chỉ hợp đồng nơi đến.
Theo nhóm D, người bán được xem là đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng tại nước
đến nhưng chưa làm thủ tục thông quan nhập khẩu trừ điều kiện DDP.
DAF ( Delivered At Frontier ) – Giao tại biên giới.

Giao tại biên giới có nghĩa là người bán giao hàng khi hàng được đặt dưới
quyền định đoạt của người mua trên phương tiện vận tải chở đến, chưa dỡ ra, đã
hoàn thành thủ tục thông quan xuất khẩu nhưng chưa làm thủ tục thông quan nhập
khẩu ở địa điểm và nơi quy định tại biên giới, nhưng chưa qua biên giới hải quan của
nước liền kề. Incoterms không định ra những biên giới nào, do đó các bên phải chỉ rõ
là biên giới nào. Biên giới theo điều kiện này có thể là bất cứ biên giới nào kể cả
nước người bán, người mua hay một nước thứ ba.8
Thuật ngữ “biên giới” được sử dụng cho bất kỳ đường biên giới nào kể cả
biên giới của nước xuất khẩu. Quan trọng là phải xác định đường biên giới một cách
chính xác bằng cách quy định địa điểm đến và nơi đến trong điều kiện này.
Nếu các bên muốn người bán chịu trách nhiệm về việc dỡ hàng từ phương
tiện vận tải chở đến và chịu mọi rủi ro, phí tổn để dỡ hàng cần quy định rõ ràng như
bổ sung từ ngữ cụ thể trong hợp đồng mua bán.
7
8

INCOTERMS 2000
INCOTERMS đăng ngày 28.02.2007

13
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

Điều kiện này áp dụng cho mọi phương thức vận tải khi hàng được giao tại
biên giới trên đất liền. Nếu giao hàng tại cảng đến, trên boong tàu hoặc trên cầu cảng
nên áp dụng các điều kiện DES hoặc DEQ.

DES ( Delivered Ex Ship ) – Giao tại tàu.
Giao tại tàu nghĩa là người bán giao hàng khi hàng chưa làm thủ tục thông
quan nhập khẩu, đặt dưới quyền định đoạt của người mua trên boong tàu, ở cảng đến
quy định. Người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro liên quan đến việc đưa hàng tới
cảng đến quy định trước khi dỡ hàng. Nếu các bên muốn người bán chịu phí tổn và
rủi ro về việc dỡ hàng thì sử dụng điều kiện DEQ.
Điều kiện này áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa.
DEQ ( Delivered Ex Quay ) – Giao tại cầu cảng.
Giao tại cầu cảng nghĩa là người bán giao hàng khi hàng chưa làm thủ tục
thông quan nhập khẩu, đặt dưới quyền định đoạt của người mua trên cầu cảng tại
cảng đến quy định. Người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro liên quan đến việc đưa
hàng tới cảng đến quy định và dỡ hàng lên cầu tàu.
Điều kiện DEQ yêu cầu người mua làm thủ tục thông quan nhập khẩu hàng
hóa và trả chi phí cho mọi thủ tục, thuế quan, các loại thuế và lệ phí khác liên quan
đến việc nhập khẩu.
Đây là một quy định ngược lại với các bản Incoterms trước đó. Các ấn bản
Incoterms trước, điều kiện này đòi hỏi người bán phải làm các thủ tục nhập khẩu.
Nếu các bên muốn người bán chịu toàn bộ hoặc một phần phí tổn phải trả khi
nhập khẩu hàng hóa cần quy định rõ ràng bằng cách bổ sung thêm từ ngữ cụ thể
trong hợp đồng mua bán.
Điều kiện này áp dụng khi hàng hóa được giao bằng đường biển, đường thủy
nội địa hoặc bằng vận tải đa phương thức khi dỡ hàng từ tàu lên cầu tàu tại cảng đến
quy định. Nếu các bên muốn người bán phải chịu phí tổn và rủi ro trong việc di
chuyển hàng hóa từ cầu cảng tới một nơi khác ( nhà kho, nhà ga, bến đỗ phương tiện
vận tải ... ) ở trong hoặc ngoài cảng nên dùng điều kiện DDU hoặc DDP.
DDU ( Delivered Duty Unpaid ) – Giao hàng chưa nộp thuế.
Giao hàng chưa nộp thuế nghĩa là người bán giao hàng cho người mua ở nơi
đến quy định, người bán chưa làm thủ tục thông quan nhập khẩu và chưa dỡ hàng ra
khỏi phương tiện vận tải chở đến. Người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro liên
quan đến việc đưa hàng tới nơi đến quy định trừ các nghĩa vụ liên quan đến việc

14
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

nhập khẩu tại nước hàng hóa đến. Người mua phải làm nghĩa vụ đó và chịu mọi phí
tổn, rủi ro phát sinh do họ không làm được thủ tục thông quan nhập khẩu hàng hóa.
Nếu các bên muốn người bán làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa, chịu mọi phí
tổn, rủi ro khi làm thủ tục này và các phí tổn khác phải quy định rõ ràng bằng cách
bổ sung thêm từ ngữ cụ thể trong hợp đồng mua bán.
Điều kiện này áp dụng cho mọi phương thức vận tải. Tuy nhiên, nếu giao
hàng tại cảng đến trên boong tàu hoặc trên cầu cảng nên áp dụng điều kiện DES hoặc
DEQ.
DDP (Delivered Duty Paid ) – Giao hàng đã nộp thuế.
Giao hàng đã nộp thuế nghĩa là người bán giao hàng cho người mua tại địa
điểm đến quy định, hàng đã làm xong thủ tục thông quan nhập khẩu và chưa dỡ ra
khỏi phương tiện vận tải chở đến. Người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro liên
quan đến việc đưa hàng tới nơi đến quy định và phải thực hiện thêm bất kỳ nghĩa vụ
nào khác liên quan đến việc nhập khẩu tại nước hàng hóa đến.
Nếu điều kiện EXW quy định nghĩa vụ tối thiểu của người bán thì đến điều
kiện DDP nghĩa vụ của người bán là tối đa. Không nên sử dụng điều kiện này nếu
người bán không thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm thủ tục nhập khẩu.
Nếu các bên muốn giảm bớt cho người bán nghĩa vụ thanh toán các chi phí
phải trả khi nhập khẩu hàng hóa ( như thuế giá trị gia tăng ) cần quy định rõ ràng
bằng cách bổ sung thêm từ ngữ cụ thể trong hợp đồng mua bán.
Nếu các bên muốn người mua chịu mọi phí tổn và rủi ro khi làm thủ tục nhập
khẩu hàng hóa nên dùng điều kiện DDU.

Điều kiện này áp dụng cho mọi phương thức vận tải. Tuy nhiên, nếu giao
hàng tại cảng đến trên boong tàu hoặc trên cầu cảng nên áp dụng điều kiện DES hoặc
DEQ.
Các điểm khác biệt cơ bản giữa Incoterms 1990 và Incoterms 2000.
Về kết cấu Incoterms 2000 hoàn toàn giống kết cấu Incoterms 1990.
Về nội dung cơ bản, quy định các điều kiện thương mại cũng giống nhau
nhưng ở Incoterms 2000 có 3 thay đổi nhỏ so với Incoterms 1990 như sau:
* Các nghĩa vụ khai hải quan và thanh toán tiền thuế quan trong FAS và DEQ.
a/ Điều kiện FAS ( Incoterms 2000 )
Điều kiện này yêu cầu người bán khai hải quan hàng xuất khẩu ( trong khi các
ấn bản Incoterms trước đây đều đòi hỏi người mua phải đảm nhận việc khai hải quan
xuất khẩu, trả mọi thuế quan, các loại thuế và các chi phí khác để thực hiện thủ tục
15
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

hải quan khi xuất hoặc nhập khẩu hàng ), trả mọi chi phí làm thủ tục hải quan, mọi
loại thuế quan ( thuế xuất khẩu ) và các thuế khác phải trả khi xuất khẩu do chính
quyền của từng nước quy định.
Các điểm trên là các quy định chung của Incoterms 2000 vì đa số các nước
đều buộc người bán phải khai hải quan xuất khẩu và chịu thuế quan, chi phí khác
liên quan đến thủ tục xuất khẩu nhưng hiện nay trong các khu mậu dịch tự do ở một
số nước không có thuế xuất nhập khẩu, lệ phí khai hải quan nên Incoterms 2000 đã
đưa vào cụm từ “tùy từng trường hợp” nhằm nói lên ý nghĩa như trên mà trong
Incoterms 1990 không đề cập đến.
b/ Điều kiện DEQ ( Incoterms 2000 )

Điều kiện này đòi hỏi người mua phải khai hải quan nhập khẩu hàng hóa và
trả chi phí thủ tục khai hải quan, thuế quan tùy theo từng trường hợp, tức là nước
nhập khẩu có quy định phải trả các loại thuế và chi phí khác. Điều này trái ngược với
ấn bản Incoterms trước. Incoterms 1990, đòi hỏi người bán phải đảm nhận việc khai
hải quan hàng nhập khẩu và trả chi phí về thủ tục khai hải quan, các loại thuế khi
nhập khẩu hàng trừ khi hai bên có thỏa thuận khác.
* Các nghĩa vụ xếp và dỡ hàng theo điều kiện FCA:
a/ Điều kiện FCA theo Incoterms 2000.
Người bán giao hàng xong cho người vận tải do người mua chỉ định tại địa
điểm quy định. Địa điểm giao hàng được chọn ảnh hưởng đến các nghĩa vụ chất
hàng lên và dỡ hàng xuống tại địa điểm đó.
- Nếu giao hàng tại cơ sở của ngươi bán thì người này phải chịu trách
-

nhiệm chất hàng lên.
Nếu giao hàng tại bất cứ địa điểm nào khác, người bán không chịu
trách nhiệm dỡ hàng xuống tức người mua phải đảm nhận và chịu chi
phí cho việc này.

b/ Điều kiện FCA theo Incoterms 1990
Incoterms 1990 không đề cập đến nghĩa vụ xếp và dỡ hàng của các bên như
Incoterms 2000.
* Điều kiện FOB về hợp đồng bảo hiểm “không có nghĩa vụ”.
Trong Incoterms 1990, về phần hợp đồng vận tải và hợp đồng bảo hiểm ở
điều kiện FOB, người bán “không có nghĩa vụ” ký hợp đồng vận tải và trả cước cũng
16
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng


Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

không ký hợp đồng bảo hiểm, không trả phí bảo hiểm. Người mua có nghĩa vụ ký
hợp đồng vận tải, chịu tiền cước chở hàng từ cảng gởi, còn hợp đồng bảo hiểm
không được nhắc tới.
Trong Incoterms 2000, người mua ký hợp đồng vận tải và hợp đồng bảo
hiểm. Người mua không có nghĩa vụ với người bán về việc mua bảo hiểm hàng từ
cảng đi đến cảng đến. Người mua vì lợi ích của mình cần mua bảo hiểm chứ không
vì nghĩa vụ đối với người bán. 9

9

Tác giả Dương Hữu Hạnh, Hướng dẫn sử dụng Incoterms 2000 – Nhà xuất bản Giáo dục 2000, trang 9-10

17
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

CHƯƠNG 2

TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG INCOTERMS 2000
Ở VIỆT NAM
2.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu tại Việt Nam.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu có
vai trò ngày càng quan trọng đối với các nước. Nhiều năm qua, đặc biệt từ năm 1986

đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam bắt đầu có những bước khởi sắc.
Chúng ta đã xuất khẩu nhiều mặt hàng lợi thế, xâm nhập và mở rộng nhiều thị
trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ ... Nhưng gần đây, do nhiều nguyên
nhân khác nhau nên kết quả xuất khẩu của Việt Nam chưa tương xứng với lợi thế,
tiềm năng của đất nước. Tuy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhưng chưa đạt được
mục tiêu đề ra, vẫn còn nhập siêu ( năm 2003 nhập siêu 5 tỷ USD ). Mặc dù sản
lượng xuất khẩu tăng nhưng tỷ trọng chế biến nhiều mặt hàng chưa cao, giá cả thấp,
nhiều mặt hàng chưa phát huy lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra, chúng ta còn bỏ trống
nhiều thị trường mới, chưa khôi phục thị trường truyền thống.10
2.1.1 Hoạt động xuất khẩu.
2.1.1.1 Kim ngạch và tốc độ gia tăng kim ngạch.
Cuối thập niên 80 và đầu những năm 90, Việt Nam bắt đầu mở cửa kinh tế,
dần dần thực hiện chính sách “đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế, đa dạng hóa
thị trường và bạn hàng” nên kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam từ năm
1990 đến nay luôn gia tăng mạnh. Nếu năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của cả nước
chỉ đạt được ở mức 2.404 triệu USD thì năm 2000 đạt 14.308 triệu USD, tăng gần 6
lần sau 10 năm, năm 2001 mặc dù hoạt động xuất khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó
khăn nhưng kim ngạch xuất khẩu vượt qua con số 15 tỷ. Tốc độ xuất khẩu tăng
nhanh do đất nước ta trải qua một thời kỳ dài đóng cửa nền kinh tế, hoạt động xuất
khẩu chưa được quan tâm, nhiều lợi thế xuất khẩu của Việt Nam chưa được khai
thác, nay chuyển sang nền kinh tế mở, các chính sách thông thoáng mới tạo ra động
lực mạnh kích thích xuất khẩu. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu và mức xuất khẩu tính
bình quân đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước có nền kinh tế mở
cửa khác ở khu vực châu Á.

10

Tác giả PGS.TS. Võ Văn Đức, Phát huy lợi thế so sánh để đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam
trong điều kiện hiện nay – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 7.


18
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

Doanh số xuất khẩu của Việt Nam được tính trên giá FOB và trên thực tế tùy
vào từng ngành hàng xuất khẩu mà các doanh nghiệp Việt Nam từ 60% - 100% xuất
khẩu theo giá FOB. Việc lựa chọn xuất khẩu theo giá FOB làm giảm doanh thu
ngoại tệ của quốc gia, khả năng cân đối ngoại tệ của doanh nghiệp, là một trong
những nhân tố tác động đến tình trạng nhập siêu của Việt Nam. Nếu tất cả số kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1990 đến nay không thực hiện theo giá FOB
mà theo giá CIF, trong đó các doanh nghiệp Việt Nam luôn giành quyền thuê tàu và
mua bảo hiểm vận chuyển hàng hóa ngoại thương tại các đơn vị vận tải và bảo hiểm
trong nước để nguồn ngoại tệ thu được về cho Việt Nam từ hoạt động xuất khẩu
không chỉ dừng lại ở giá bán hàng hóa xuất khẩu và lãi gộp mà còn có cả ngoại tệ
thu được từ dịch vụ vận tải và bảo hiểm. Như vậy các doanh nghiệp Việt Nam đã để
thất thu một khoản ngoại tệ rất lớn, không đem về cho đất nước do không cố gắng
bán hàng theo giá CIF.
Nhìn chung, nhận thấy trong 10 năm trở lại đây, nếu xuất theo giá FOB, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam bị giảm khoảng 7.405,78 triệu USD. Trong đó, cứ
mỗi năm kim ngạch xuất khẩu tăng dẫn đến nguồn ngoại tệ mất đi từ việc không
giành quyền thuê tàu và mua bảo hiểm cũng tăng theo, khoảng 10% tổng kim ngạch.
Sắp tới, theo kế hoạch của Bộ Thương mại, nước ta phấn đấu tăng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước lên khoảng 20 tỷ USD, có thể thấy mỗi năm chúng ta thất thu
khoảng 2 tỷ USD nếu xuất khẩu theo giá FOB. Như vậy các doanh nghiệp cần
nghiêm túc nhìn nhận lại cách lựa chọn điều kiện thương mại khi buôn bán với nước
ngoài, nếu không đất nước đã nghèo lại còn nghèo thêm.

2.1.1.2 Mặt hàng xuất khẩu.
Bên cạnh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao và tương đối bền vững qua
các năm, chất lượng một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam cũng ngày càng nâng lên
đáng kể bước đầu tạo được sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế
giới, thể hiện kim ngạch một số mặt hàng luôn tăng như dầu thô, hàng dệt may, gạo,
cà phê, cao su... Tuy nhiên chủng loại hàng xuất khẩu của nước ta chủ yếu vẫn là
những sản phẩm sơ cấp ( thô hoặc sơ chế ) như dầu thô, gạo phẩm cấp thấp, những
thành phẩm có hàm lượng nguyên liệu và lao động cao như hàng dệt may gia công,
những mặt hàng truyền thống từ nhiều năm nay như nông, lâm, hải sản, hàng tiêu
dùng thuộc các ngành công nghiệp thực phẩm và công nghiệp nhẹ, hàng thủ công mỹ
nghệ. Việc xuất khẩu chủ yếu dựa vào nông, lâm, thủy, hải sản và nguyên liệu khai
thác từ tài nguyên thiên nhiên làm cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam tồn tại
những nhược điểm:
19
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

+ Giá cả xuất khẩu các mặt hàng bấp bênh, lúc tăng, lúc giảm, tác động mạnh
đến sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nước.
+ Khó đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu vì việc sản xuất và xuất khẩu phụ
thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, đất đai, thời tiết, khí hậu, nguồn nước, dịch sâu
bệnh...
+ Xuất khẩu nguyên liệu thô bán giá thấp, lại không sử dụng được lao động,
đây là nguồn vốn dồi dào của đất nước, đồng thời cũng không phát triển được các
ngành dịch vụ có liên quan.
+ Sản phẩm nông, lâm, thủy, hải sản xuất khẩu khó bảo quản và vận chuyển

so với hàng công nghiệp nên tỷ lệ hao hụt sản phẩm lớn, hiệu quả kinh doanh thấp.
Chính những nhược điểm đó làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
không giành được lợi thế trên bàn đàm phán ký kết hợp đồng, ngược lại phải chịu ép,
thậm chí phải nhượng bộ một số quyền lợi mới có thể bán được hàng.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua chưa thật sự
hiệu quả, tính ổn định còn hạn chế do nhiều nguyên nhân: hàng hóa của ta chất
lượng chưa cao, chưa đa dạng về chủng loại, lại bán qua thị trường trung gian là chủ
yếu, nên các doanh nghiệp của ta không có lợi thế khi đàm phán ký kết hợp đồng
cũng như không giành được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm cho hàng hóa, mà phải
chấp nhận các điều kiện thương mại chưa thật sự có lợi như phần lớn các thương vụ
xuất khẩu là theo giá FOB.
2.1.2 Tình hình nhập khẩu.
2.1.2.1 Kim ngạch và tốc độ gia tăng kim ngạch.
Nhằm đảm bảo kịp thời, đầy đủ nhu cầu về tư liệu sản xuất phục vụ tốt cho
sản xuất, thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, bổ sung nhu cầu sản xuất và
đời sống trong nước, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, từ năm 2000 đến năm
2008 kim ngạch nhập khẩu của nước ta luôn tăng đều đặn thể hiện qua bảng sau:
Cán cân xuất nhập khẩu qua các năm
Đơn vị: triệu USD
Năm

Kim ngạch
xuất khẩu

Kim ngạch
nhập khẩu

Nhập siêu

2000


14482,7

15636,5

-1153,8

2001

15029,2

16217,9

-1188,7

2002

16706,1

19745,6

-3039,5
20

SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam


2003

20149,3

25255,8

-5106,5

2004

26485

31968,8

-5483,8

2005

32447,1

36761,1

-4314

2006

39826,2

44891,1


-5064,9

2007

48380

60830

-12450

2008

67000

86000

-19000

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tuy nhiên sự gia tăng kim ngạch nhập khẩu kéo theo tình trạng gia tăng sự
thiệt thòi trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam vì hầu hết các
thương vụ nhập khẩu của ta đều thực hiện theo giá CIF hoặc giá CFR. Nếu ta ước
tính chi phí vận tải ở mức thấp nhất khoảng 1% giá CIF, là mức trung bình của cước
vận tải quốc tế, đồng thời mức bảo hiểm ước tính ở mức 0,4% giá CIF, là mức áp
dụng khi nhập khẩu máy móc, trang thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất
hàng xuất khẩu, từ đó ta có thể ước tính được khoản thất thu ngoại tệ khi nhập khẩu
hàng hóa không sử dụng phương tiện vận tải và dịch vụ bảo hiểm trong nước.
Hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam đã chi khoảng trên dưới cả tỷ USD để
thuê tàu và mua bảo hiểm vận chuyển hàng hóa nhập khẩu từ các công ty vận tải và

bảo hiểm nước ngoài, trong 11 năm trở lại đây đất nước ta đã mất hơn 9 tỷ USD cho
các dịch vụ này. Điều đáng nói, việc sử dụng dịch vụ vận tải và bảo hiểm nước ngoài
không những làm thiệt hại nguồn ngoại tệ hạn hẹp của đất nước mà còn gây ra tình
trạng gia tăng lực lượng lao động thất nghiệp trong các ngành này hoặc ít ra cũng
giảm thu nhập của lực lượng lao động trong các ngành này, đồng thời không tạo điều
kiện để phát triển các ngành dịch vụ này của đất nước, đặc biệt không phát triển
được hệ thống cảng biển và các ngành dịch vụ có liên quan đến xuất nhập khẩu.
2.1.2.2 Mặt hàng nhập khẩu.
Cơ cấu ngành hàng nhập khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây chủ
yếu vẫn là máy móc, trang thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất
trong nước. Mỗi năm, mặt hàng nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu mỗi gia tăng. Điều
đó vừa đáng mừng vì cho thấy sản xuất của ta có phát triển về số lượng và quy mô
nên cần có nhiều nguyên liệu cung ứng nhưng lại đáng lo là trong nước vẫn chưa tự
đáp ứng được đủ nguyên liệu mà phải nhập ngoại dẫn đến tình trạng sản xuất trong
nước phụ thuộc vào nguồn cung ứng nguyên liệu từ nước ngoài. Thực tế đã chứng
21
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


GVHD: Ths. Diệp Ngọc Dũng

Việc sử dụng Incoterms 2000 ở Việt Nam

minh: các doanh nghiệp sản xuất trong nước đôi khi phải chịu ép, chấp nhận các điều
khoản hợp đồng không có lợi, các điều kiện thương mại, phải nhường quyền thuê tàu
và mua bảo hiểm cho phía nước ngoài để giữ lấy khách hàng và nguồn cung ứng
nguyên liệu đều đặn nhằm duy trì sản xuất được liên tục.
Tóm lại, tình hình nhập khẩu của ta không khả quan, các doanh nghiệp Việt
Nam không giành được ưu thế trên bàn đàm phán ký kết hợp đồng cũng như lựa
chọn điều kiện thương mại trong buôn bán hàng hóa ngoại thương, cụ thể là hầu hết

các thương vụ nhập khẩu của Việt Nam đều thực hiện theo giá CIF, trong thời gian
gần đây có chuyển hướng thực hiện theo giá CFR nhưng vẫn không đáng kể. Điều
đó làm cho đất nước không những lãng phí nguồn ngoại tệ vốn đã ít mà còn làm cho
nhiều ngành dịch vụ liên quan xuất nhập khẩu cũng không có điều kiện phát triển.11
2.2 Việt Nam sử dụng chủ yếu 2 điều kiện FOB và CIF trong hoạt
động xuất nhập khẩu.
Ở Việt Nam, các nhà xuất khẩu khi buôn bán với nước ngoài thường áp dụng
điều kiện FOB và nhập khẩu theo điều kiện CIF do những nguyên nhân sau:
- Do thói quen buôn bán.
- Do năng lực kinh doanh yếu: không biết cách thuê tàu, mua bảo hiểm cho
hàng hóa, nhiều nhà kinh doanh không am hiểu về nghiệp vụ ngoại thương cho rằng
nếu xuất khẩu theo giá FOB, hàng lên tàu rồi là người xuất khẩu hết nghĩa vụ và có
thể thanh toán được tiền hàng ngay. Đây là quan điểm sai lầm, free on board nghĩa là
người bán phải chịu trách nhiệm trả cước phí để vận chuyển hàng đặt lên boong tàu,
còn trách nhiệm với hàng vẫn kéo dài cho đến khi hàng qua lan can tàu tại cảng giao
hàng. Họ cũng hiểu lầm rằng nếu xuất khẩu theo điều kiện CIF thì phải giao hàng tận
cảng đích cho nhà nhập khẩu mới được thanh toán. Còn nhập khẩu theo điều kiện
CIF thì được nhận hàng an toàn tại cảng Việt Nam, giảm bớt rủi ro trong quá trình
chuyên chở hàng hóa.12
Các doanh nghiệp hiểu điều đó nhưng vẫn xuất giá FOB và nhập giá CIF: do
doanh thu của doanh nghiệp Việt Nam không ổn định, kim ngạch xuất khẩu thấp nên
các hãng tàu thường chiết khấu cho doanh nghiệp Việt Nam ít, nếu bán giá CIF hay

11

Tác giả PGS.TS Võ Thanh Thu, PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
Incoterms 2000 tại Việt Nam – Nhà xuất bản Thống kê 2002, trang 75, 76, 77, 78, 79, 80, 81
12
Tác giả PGS.TS Võ Thanh Thu, PGS.TS Đoàn Thị Hồng Vân, Incoterms 2000 và hỏi đáp về Incoterms –
Nhà xuất bản Thống kê 2002, trang 79.


22
SVTH: Nguyễn Thu Nguyệt Ánh


×