Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí tại Công ty Cổ Phần May Trường Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.98 KB, 102 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả trong Luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách
nhiệm hoàn toàn về những điều đã trình bày trong Luận văn.
Tác giả

Đinh Thị Liên


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA

2.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất theo công dụng kinh
tế...................................................................................50


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHTN

: Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế

CCDC



: Công cụ dụng cụ

CP

: Cổ phần

KPCĐ

: Kinh phí công đoàn

KTQT

: Kế toán quản trị

NVLTT

: Nguyên vật liệu trực tiếp

NCTT

: Nhân công trực tiếp

NVL

: Nguyên vật liệu

QLDN

: Quản lý doanh nghiệp


SXC

: Sản xuất chung

TSCĐ

: Tài sản cố định


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1
2.2

Tên bảng

Trang

Bảng tổng hợp chi phí theo yếu tố tháng 10 năm 2011
Bảng tổng hợp chi phí theo công dụng kinh tế tháng 10 năm

50

2.3
2.4

2011
Kế hoạch sản xuất năm 2011

Bảng định mức tiêu hao nguyên vật liệu trực tiếp cho mặt hàng

51
52
53

2.5

JQTNA
Bảng dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp mặt hàng

2.6
2.7
2.8
2.9
2.10

JQTNA năm 2011
Bảng định mức chi phí lao động trực tiếp cho các mặt hàng
Dự toán chi phí CNTT sản xuất năm 2011
Bảng dự toán chi phí nhân viên phân xưởng năm 2011
Bảng dự toán chi phí sản xuất chung năm 2011
Dự toán chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp năm

54
56
57
58
58


2.11
3.1
3.2

2011
Bảng tính giá thành sản phẩm quý IV năm 2011
Bảng phân loại chi phí theo cách ứng xử chi phí
Bảng phân loại chi phí thành biến phí, định phí quý IV năm

59
61
70

3.3
3.4

2011
Bảng tính giá thành quý IV năm 2011
Bảng tính giá thành sản phẩm theo phương pháp trực tiếp

72
74

3.5
3.6
3.7
3.8
3.9

quý IV năm 2011

Bảng so sánh 2 phương pháp tính giá thành sản phẩm
Bảng phân loại chi phí dự toán Vest nam
Bảng dự toán biến phí sản xuất cho từng sản phẩm
Bảng dự toán chi phí linh hoạt
Bảng phân tích biến động chi phí nguyên vật liệu trực tiếp quý

74
75
76
77
79
82

3.10

IV năm 2011
Báo cáo tình hình thực hiện chi phí nhân công trực tiếp quý

3.11

IV/2011
Bảng phân tích biến động chi phí sản xuất chung

84
85


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu


Tên sơ đồ

Trang

sơ đồ
1.1

Trình tự tính giá thành theo phương phápphân bước có tính giá
31

1.2

thành nửa thành phẩm
Trình tự tính giá thành theo phương pháp phân bước không

2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6

tính giá thành nửa thành phẩm
Quy trình sản xuất
Sơ đồ tổ chức sản xuất
Sơ đồ kết cấu sản xuất
Tổ chức bộ máy Công ty
Tổ chức bộ máy kế toán tại công ty
Sơ đồ hạch toán của hình thức chứng từ ghi sổ


32
39
41
42
43
46
48


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới
WTO. Ngành dệt may là một trong những ngành được coi là mũi nhọn và chịu
nhiều tác động sau sự kiện này. Áp lực cạnh tranh khi hội nhập dẫn đến việc thiếu
chuẩn bị, thiếu phương án đối phó, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dệt may
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như giá cả, chất lượng, mẫu mã..... Chính vì vậy
thông tin về chi phí trong các doanh nghiệp dệt may nói chung đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong việc giúp các nhà quản trị kiểm soát chi phí để vừa có thể đưa ra
các sản phẩm với giá rẻ, đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm sản xuất, lựa chọn các biện
pháp marketing, từ đó tạo ra nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đặc biệt ngày
1.1.2009, Việt Nam mở cửa thị trường bán lẻ cho các doanh nghiệp nước ngoài thì
sức ép cạnh tranh càng lớn hơn. May xuất khẩu phần nhiều vẫn theo phương thức
gia công, thiết kế mẫu mốt chưa phát triển, nhiều doanh nghiệp chưa xây dựng được
thương hiệu, hiệu quả sản xuất thấp.
Với những khó khăn và những trách nhiệm vô cùng nặng nề như vậy, các
doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cần xây dựng một hệ thống quản lý doanh
nghiệp đáp ứng được yêu cầu của chiến lược phát triển ngành như đã đề cập. Để
đáp ứng được yêu cầu này của các nhà quản lý đòi hỏi kế toán cung cấp thông tin

một cách thường xuyên, liên tục và hữu ích phục vụ kịp thời ra quyết định của nhà
nhà quản trị ở nhiều cấp độ khác nhau. Chính những yêu cầu về tính tốc độ, linh
hoạt, hữu ích của thông tin mà kế toán tài chính không thể đảm trách được, kế toán
quản trị ra đời như là một tất yếu khách quan của cơ chế thị trường. Kế toán quản trị
ở các nước phát triển được ứng dụng một cách rộng rãi trong công tác quản lý và
điều hành nội bộ của doanh nghiệp.
Ngành Dệt may nói chung và Công ty Cổ Phần May Trường Giang nói riêng đã
và đang chịu những áp lực cạnh tranh rất lớn. Do đó để tồn tại và phát triển chỉ có
những sản phẩm có sức cạnh tranh cao, giá cả phù hợp mới có cơ may chiếm lĩnh
được thị trường.


2

Vấn đề trước mắt cần đặt ra cho Công ty Cổ Phần May Trường Giang là phải
tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên trên thực tế, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan mà tại Công ty Cổ Phần May Trường Giang, kế toán quản trị, đặc biệt là kế
toán quản trị chi phí vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức. Kế toán quản trị chi
phí vẫn chưa được tổ chức khoa học, quy cũ, vẫn còn mang nặng nội dung của kế
toán tài chính hay nói cách khác là nó chưa được vận dụng và tổ chức thực hiện tại
công ty với tư cách là một công cụ quản lý kinh tế và cung cấp thông tin kinh tế tài
chính. Các nội dung của kế toán quản trị chi phí được thực hiện đan xen giữa nhiều
bộ phân và chưa có bộ phận chuyên trách.
Vì vậy xuất phát từ nhu cầu khách quan về mặt lý luận và thực tiễn trong quá
trình nghiên cứu, tác giả đã chọn đề tài: "Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí tại
Công ty Cổ Phần May Trường Giang” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài góp phần hệ thống hoá và làm rõ những cơ sở lý luận cơ bản về kế toán
quản trị chi phí trong các doanh nghiệp sản xuất.
Trên cơ sở khảo sát thực trạng về kế toán quản trị chi phí tại Công ty Cổ Phần

May Trường Giang, đề xuất những phương hướng, giải pháp để xây dựng, hoàn
thiện kế toán quản trị chi phí tại doanh nghiệp này.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài là kế toán quản trị chi
phí tại Công ty Cổ Phần May Trường Giang.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn bao gồm phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát tình hình thực tế tại các doanh nghiệp từ đó đánh
giá thực trạng, những vấn đề còn tồn tại để đưa ra phương hướng hoàn thiện kế toán
quản trị chi phí tại Công ty Cổ Phần May Trường Giang.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về kế toán quản trị chi phí trong các doanh
nghiệp sản xuất


3

Qua kết quả nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác kế toán quản trị chi phí
và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán quản trị chi phí tại Công ty Cổ
Phần May Trường Giang.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về kế toán quản trị chi phí trong các doanh
nghiệp sản xuất
Chương 2: Thực trạng công tác kế toán quản trị chi phí tại Công ty Cổ Phần
May Trường Giang.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kế toán quản trị chi phí tại
Công ty Cổ Phần May Trường Giang.



4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1.1. Bản chất của kế toán quản trị và kế toán quản trị chi phí
1.1.1.1. Bản chất của kế toán quản trị
Kế toán cũng như các ngành khoa học khác đều được hình thành và phát triển
gắn liền với sự phát triển của xã hội. Khi nền sản xuất phát triển kế toán cũng phát
triển tương ứng để đáp ứng nhu cầu thông tin cho quản lý.
Trong "Từ điển thuật ngữ kế toán" đã nêu: "Kế toán là quá trình ghi chép,
đánh giá, chuyển đổi và thông tin về các số liệu tài chính".Trong cuốn "Chú giải
thuật ngữ kế toán Mỹ" kế toán được định nghĩa: Là một hệ thống được hoạch định
để thu thập thông tin nhằm đo lường, giám sát và thông tin các hoạt động kinh tế, tài
chính về một đơn vị kinh tế độc lập. Nó cho phép con người sử dụng hệ thống để
nhập số liệu chính xác theo các phương pháp nhằm phân tích và tổng hợp thông tin
và đáp ứng việc thảo ra các quyết định.
Kế toán chủ yếu tập trung vào ghi chép, tổng hợp nhằm lập báo cáo tài chính
của một tổ chức, các báo cáo này nhằm để truyền đạt thông tin tài chính của một tổ
chức. Khi nền sản xuất xã hội phát triển cao, cạnh tranh ngày càng gay gắt buộc các
nhà quản trị phải quan tâm đến thông tin cho quá trình ra quyết định mà thông tin
hàng đầu là thông tin về chi phí của hoạt động kinh doanh. Từ đó hình thành nên bộ
phận kế toán chi phí. Bộ phận này chủ yếu cung cấp thông tin về kế toán chi phí cho
các nhà quản trị để sử dụng trong nội bộ.Trong môi trường kinh doanh hiện nay,
nhu cầu về thông tin trong công tác quản lý đã có sự gia tăng rất lớn và đa dạng do
áp lực của những thay đổi nhanh chóng về sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự cạnh
tranh ngày càng khốc liệt giữa các công ty trong nước, giữa các công ty ở những
quốc gia khác nhau, cũng như sự ra đời ngày càng nhiều các công cụ quản lý, các

chuyên ngành khoa học hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý, kế toán. Chính điều
này kết hợp với sự tiến bộ của trình độ chuyên môn kế toán đã làm cho kế toán phát


5

triển sâu rộng hơn về tính chất và đặc điểm thông tin cần phải cung cấp. Kế toán
không chỉ dừng lại ở việc cung cấp thông tin mang tính nguyên tắc mà đòi hỏi phải
linh hoạt, kịp thời, hữu ích cũng như phải đảm bảo tính đơn giản, nhanh chóng
nhằm hỗ trợ đắc lực cho nhà quản trị trong môi trường kinh doanh mới. Các nhà
quản trị không chỉ đòi hỏi kế toán cung cấp những thông tin kinh tế tài chính tổng
hợp, phản ánh những sự kiện kinh tế đã xảy ra... mà còn đòi hỏi kế toán phải cung
cấp những thông tin kinh tế tài chính một cách cụ thể, chi tiết theo từng hoạt động,
lĩnh vực, từng vấn đề... để phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động và ra các quyết định quản lý. Điều đó đã thúc đẩy kế toán phát triển và
cho ra đời các loại kế toán cụ thể khác nhau, một hệ thống kế toán cung cấp thông
tin cho các đối tác bên ngoài doanh nghiệp gọi là kế toán tài chính và một hệ thống
kế toán cung cấp thông tin nội bộ cho các nhà quản trị để ra quyết định kinh doanh
là kế toán quản trị.
Kế toán quản trị được Hiệp hội kế toán Mỹ định nghĩa: “là quá trình định
dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, lập báo biểu, giải trình và thông đạt các số liệu
tài chính và phi tài chính cho ban quản trị để lập kế hoạch, theo dõi việc thực hiện
kế hoạch trong phạm vi nội bộ một doanh nghiệp, đảm bảo việc sử dụng có hiệu
quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này”.
Ngay trong Luật kế toán Việt Nam cũng nêu rõ: "Kế toán quản trị là việc thu
thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính theo yêu cầu quản trị
và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán" (Luật kế toán, khoản 3,
điều 4).
Như vậy, kế toán quản trị là một khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông
tin về hoạt động sản xuất - kinh doanh một cách chi tiết, phục vụ cho các nhà quản

trị trong việc lập kế hoạch, điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch và quản lý hoạt
động knh trong nội bộ doanh nghiệp.
Từ những trình bày trên ta có thể thấy bản chất của KTQT như sau:
- Kế toán quản trị không chỉ thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về các
nghiệp vụ kinh tế thực sự phát sinh và đã thực sự hoàn thành, mà còn xử lý và cung


6

cấp thông tin phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý. Để có được các thông tin
này, kế toán quản trị phải sử dụng các phương pháp khoa học để phân tích, xử lý
chúng một cách linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thông tin của nhà quản trị. Hệ thống
hoá thông tin theo một trình tự dễ hiểu và giải trình phân tích theo các chỉ tiêu cụ
thể, phục vụ cho công tác quản trị doanh nghiệp.
- Kế toán quản trị chỉ cung cấp những thông tin về hoạt động kinh tế, tài chính
trong phạm vi yêu cầu quản lý nội bộ của một doanh nghiệp. Những thông tin đó
chỉ có ý nghĩa đối với những người điều hành, quản trị doanh nghiệp, không có ý
nghĩa đối với các đối tượng bên ngoài. Vì vậy, người ta nói KTQT là loại kế toán
dành cho những người làm công tác quản lý, trong khi đó kế toán tài chính không
phục vụ trực tiếp cho mục đích này.
- Kế toán quản trị là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một
chức năng quan trọng không thể thiếu được đối với hệ thống quản trị doanh nghiệp.
1.1.1.2. Bản chất của kế toán quản trị chi phí
KTQT chi phí là một bộ phận của KTQT chuyên thực hiện việc xử lý và cung
cấp các thông tin về chi phí nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà
quản trị như: hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm tra và ra quyết định.
Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí thường xuyên phát sinh
trong nội bộ doanh nghiệp và chịu sự chi phối của nhà quản trị, mọi quyết định
trong DN đều liên quan đến việc sử dụng tài nguyên, đến chi phí của doanh nghiệp
trong việc hình thành giá trị. Quá trình này thường gắn liền với lợi ích mong muốn

của DN. Ở đây chi phí được hiểu là giá trị của mọi khoản khấu hao về nhân tài, vật
lực nhằm thu được các loại hàng hóa hoặc dịch vụ.
Chi phí có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau để có thể cung cấp những
thông tin phù hợp với nhu cầu của nhà quản trị, trong đó việc xem xét chi phí trong
mối quan hệ với khối lượng, hay mức độ hoạt động và với lợi nhuận có thể được
xem là đối tượng chủ yếu của KTQT. Như vậy, các loại chi phí đặt trong mối quan
hệ khác nhau và quan hệ với lợi ích mang lại cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai
là đối tượng cụ thể của KTQT chi phí. Không những thế vì KTQT chi phí quan tâm


7

đến khía cạnh của quản trị là chủ yếu, do đó quá trình kiểm soát, kiểm tra điều
chỉnh trong quản trị cần thiết phải có cả thông tin về tài chính cũng như phi tài
chính nên đây cũng là một đối tượng cụ thể của KTQT chi phí.
Đối tượng sử dụng thông tin kế toán chi phí bao gồm cả các cá nhân, tổ chức
bên ngoài và các nhà quản trị bên trong. Như vậy, kế toán chi phí cung cấp cả
thông tin kế toán tài chính và kế toán quản trị nhưng có sự khác nhau về mục đích
và phạm vi giữa hai loại kế toán này.
Từ những đặc điểm trên có thể rút ra bản chất của kế toán quản trị chi phí nhấn
mạnh ở những điểm sau:
- KTQT chi phí cung cấp các thông tin về hoạt động kinh tế tài chính trong
phạm vị yêu cầu quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Những thông tin đó có ý nghia
với những bộ phận, nhà quản trị doanh nghiệp.
- KTQT chi phí không chỉ thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về các
nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh đã thực sự hoàn thành, đã ghi chép, hệ
thống các thông tin phục vụ cho việc lập các dự toán, quyết định các phương án
kinh doanh.
- KTQT chi phí là một bộ phận trong công tác kế toán nói chung và là một bộ
phận không thể thiếu được để kế toán thực sự trở thành công cụ quản lý.

1.1.2. Vai trò của kế toán quản trị chi phí trong quản trị doanh nghiệp
Để thực hiện tốt các chức năng quản trị doanh nghiệp, nhà quản trị cần phải
đưa ra được các quyết định đúng đắn nhất cho hoạt động của doanh nghiệp và vai
trò của kế toán quản trị chi phí chính là nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho
các nhà quản lý trong quá trình ra quyết định. Vai trò của thông tin kế toán về chi
phí với nhà quản trị được biểu hiện qua sơ đồ sau:


8

Lập kế hoạch

Đánh giá

Ra quyết
định

Thực hiện

Kiểm tra
- Lập kế hoạch và dự toán: là xây dựng các mục tiêu chiến lược cho doanh
nghiệp và vạch ra các bước cụ thể để thực hiện các mục tiêu đó. Trong đó, dự toán
là một bộ phận của kế hoạch và kế toán quản trị chi phí sẽ tiến hành cụ thể hoá các
kế hoạch hoạt động của doanh nghiệp thành các dự toán sản xuất kinh doanh. Nếu
doanh nghiệp không lập kế hoạch đầy đủ và kỹ lưỡng mà vẫn đạt mục tiêu kế hoạch
thì đó chỉ là một điều ngẫu nhiên, không vững chắc.
Do đó, để chức năng lập kế hoạch và dự toán của quản lý được thực hiện tốt
để các kế hoạch cùng dự toán có tính hiệu lực và tính khả thi cao thì chúng phải dựa
trên những thông tin hợp lý và có cơ sở do bộ phận KTQT cung cấp. KTQT chi phí
cung cấp thông tin về chi phí ước tính cho các sản phẩm, dịch vụ hoặc các đối

tượng khác theo yêu cầu của nhà quản lý nhằm giúp họ ra các quyết định quan trọng
về đặc điểm của sản phẩm, cơ cấu sản phẩm sản xuất và phân bổ hợp lý các nguồn
lực có hạn cho các hoạt động của doanh nghiệp.
- Tổ chức thực hiện: Kế hoạch và dự toán là những định hướng cho quá trình
tổ chức thực hiện. Chức năng tổ chức thực hiện bao gồm thiết lập cơ cấu tổ chức và
truyền đạt thông tin của các kế hoạch đến những cá nhân có trách nhiệm trong tuyến
quản lý để thực hiện kế hoạch đó.
Với chức năng tổ chức thực hiện, nhà quản trị phải biết cách liên kết tốt nhất
giữa tổ chức, con người với các nguồn lực lại với nhau sao cho kế hoạch được thực
hiện có hiệu quả nhất. Để thực hiện tốt chức năng này, nhà quản trị cũng có nhu cầu
rất lớn đối với thông tin kế toán do nhiều bộ phận cung cấp, trong đó KTQT chi phí


9

sẽ cung cấp thông tin chủ yếu liên quan đến kinh tế, tài chính. Kế toán chi phí sẽ dự
toán nhiều tình huống khác nhau của các phương án khác nhau để đề ra quyết định
kinh doanh đúng đắn trong quá trình lãnh đạo hoạt động hàng ngày, phù hợp với
mục tiêu chung của doanh nghiệp.
- Kiểm tra và đánh giá: Nhà quản trị sau khi đã lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý,
tổ chức thực hiện kế hoạch, đòi hỏi phải kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nó. Trong
quá trình này, người ta sử dụng phương pháp chi tiết, phương pháp so sánh giữa kết
quả thực hiện với các số liệu kế hoạch, dự toán; qua đó xem xét sai lệch giữa kết
quả đạt được do kế toán cung cấp theo các báo cáo với dự toán đã lập nhằm đánh
giá tình hình thực hiện dự toán.
Kế toán quản trị chi phí cũng cung cấp các thông tin để nhà quản lý kiểm soát
quá trình thực hiện kế hoạch thông qua các báo cáo đánh giá, đặc biệt là giúp ích
cho các nhà quản lý trong việc kiểm soát chi phí và nâng cao hiệu quả và hiệu năng
của quá trình hoạt động. Việc cung cấp thông tin về chi phí của các hoạt động một
cách chi tiết và thường xuyên sẽ giúp ích cho các nhà quản lý rất nhiều trong kiểm

soát và hoàn thiện quá trình sản xuất sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ vì những
thông tin này giúp các nhà quản lý phát hiện các hoạt động tốn kém quá nhiều chi
phí để thiết kế lại quá trình sản xuất, loại bỏ hoạt động tốn kém chi phí đó hoặc có
những cải tiến làm cho hoạt động đó có hiệu quả hơn, tốn kém chi phí ít hơn.
- Ra quyết định: là việc thực hiện những lựa chọn hợp lý trong số các phương
án khác nhau. Ra quyết định không phải là một chức năng riêng biệt, nó là một chức
năng quan trọng, xuyên suốt các khâu trong qúa trình quản lý một tổ chức, từ khâu
lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến kiểm tra đánh giá. Chức năng ra quyết định
được vận dụng liên tục trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Tất cả các quyết định đều có nền tảng từ thông tin. Do vậy, một yêu cầu đặt ra
cho công tác kế toán, đặc biệt là KTQT là phải đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh
chóng và chính xác cho nhà quản lý nhằm hoàn thành tốt việc ra quyết định.
Để có thông tin thích hợp đáp ứng nhu cầu ra quyết định của các nhà quản trị,
kế toán quản trị chi phí sẽ chọn lọc những thông tin cần thiết thích hợp rồi tổng hợp


10

trình bày chúng theo một trình tự dễ hiểu giải trình cho các nhà quản trị. KTQT chi
phí giúp cho các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định không chỉ bằng cách
cung cấp thông tin thích hợp, mà còn bằng cách vận dụng các kỹ thuật phân tích vào
những tình huống khác nhau, để từ đó nhà quản trị lựa chọn, ra quyết định thích hợp
nhất.
1.2. NỘI DUNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT
1.2.1 Phân loại chi phí trong các doanh nghiệp sản xuất
Chi phí là một trong những yếu tố trung tâm của công tác quản lý hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận,
tài sản, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhận thức một cách đúng đắn,
khoa học về chi phí là tiền đề để nhà quản trị đưa ra các quyết định hợp lý. Mục

đích của kế toán quản trị chi phí là cung cấp thông tin chi phí hợp lý, hữu ích, kịp
thời cho việc ra quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp. Vì vậy, đối với
KTQT chi phí không chỉ đơn thuần nhận thức chi phí như KTTC, chi phí còn
được nhận thức theo phương thức nhận diện thông tin ra quyết định. KTQT cần
phải căn cứ vào mục đích sử dụng thông tin về chi phí trong công tác quản trị doanh
nghiệp, để tổ chức phân loại chi phí, nhận diện chi phí cho phù hợp. Cụ thể, chi phí
sẽ được phân loại theo các tiêu thức phân loại như sau:
1.2.1.1 Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Theo chức năng hoạt động thì chi phí được phân thành 2 loại: Chi phí sản xuất
và chi phí ngoài sản xuất.
* Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là toàn bộ những chi phí liên quan đến việc chế tạo sản phẩm
trong một kỳ nhất định. Chi phí sản xuất bao gồm 3 khoản mục sau: Chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
Khoản mục chi phí này bao gồm các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ
chủ yếu cấu thành thực thể của sản phẩm, có giá trị lớn và có thể xác định được một


11

cách tách biệt, rõ ràng và cụ thể cho từng sản phẩm.
Chi phí nhân công trực tiếp:
Khoản mục chi phí này bao gồm tiền lương phải trả cho bộ phận công nhân
trực tiếp sản xuất sản phẩm và những khoản trích theo lương của họ được tính vào
chi phí.
Chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung là các chi phí phát sinh trong phạm vi các phân xưởng
để phục vụ hoặc quản lý quá trình sản xuất sản phẩm.
* Chi phí ngoài sản xuất

Chi phí này gồm 2 khoản mục chi phí sau: chi phí bán hàng và chi phí QLDN.
Chi phí bán hàng
Chi phí bán hàng toàn bộ chi phí cần thiết để đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng
hóa và để đảm bảo việc đưa hàng hóa đến tận tay nguời tiêu dùng như: chi phí vận
chuyển, bốc dỡ, chi phí bao bì, chi phí lương nhân viên bán hàng, chi phí hoa hồng
bán hàng, …
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm tất cả các chi phí phục vụ cho công tác
tổ chức và quản lý quá trình sản xuất kinh doanh nói chung trên giác độ toàn doanh
nghiệp.
Việc phân loại chi phí theo như chức năng hoạt động này giúp xác định rõ vai
trò, chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
ở doanh nghiệp, đồng thời cung cấp thông tin có hệ thống cho việc lập báo cáo tài
chính.
1.2.1.2 Phân loại chi phí theo mối quan hệ với Báo cáo tài chính
Theo cách phân loại này thì toàn bộ chi phí được chia thành: chi phí sản
phẩm và chi phí thời kỳ.
* Chi phí sản phẩm
Chi phí sản phẩm đây là những chi phí liên quan trực tiếp đến các đơn vị sản
phẩm được sản xuất bởi một doanh nghiệp sản xuất hoặc được mua vào bởi một


12

doanh nghiệp thương mại. Chi phí sản phẩm bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, các chi phí này kết hợp tạo
nên giá trị của sản phẩm hình thành qua giai đoạn sản xuất (được gọi là giá thành
sản xuất hay giá thành công xưởng).
* Chi phí thời kỳ
Chi phí thời kỳ gồm các khoản mục chi phí còn lại ngoài các khoản

mục chi phí thuộc chi phí sản phẩm. Đó là chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp.
1.2.1.3. Phân loại theo cách ứng xử chi phí
Có rất nhiều cách phân loại chi phí trong các doanh nghiệp sản xuất, song
tiêu thức phân loại quan trọng nhất và có nhiều ứng dụng trong KTQT chi phí là
phân loại chi phí theo cách ứng xử. Cách phân loại này chỉ ra những chi phí
gắn liền với mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào. Việc xem xét chi
phí sẽ thay đổi ra sao khi mức độ hoạt động sản xuất kinh doanh thay đổi gọi là sự
ứng xử của chi phí. Mức độ hoạt động có thể hiểu là: số lượng sản phẩm được sản
xuất ra, được tiêu thụ, số giờ máy hoạt động,… Theo tiêu thức này, chi phí
trong các doanh nghiệp sản xuất bao gồm chi phí khả biến, chi phí bất biến và chi
phí hỗn hợp.
* Chi phí khả biến
Chi phí khả biến là những chi phí xét về mặt tổng số sẽ thay đổi tỷ lệ thuận
với sự thay đổi của mức độ hoạt động của doanh nghiệp, tức là mức độ hoạt động
tăng (hoặc giảm) thì chi phí khả biến cũng tăng (hoặc giảm) theo cùng một tỷ lệ.
Tuy nhiên, chi phí khả biến tính trên 1 đơn vị sản phẩm là không đổi.
Các chi phí thể hiện rõ nhất đặc trưng của chi phí khả biến là chi phí nguyên
liệu, vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Ngoài ra, chi phí khả biến còn
bao gồm các chi phí khác thuộc khoản mục chi phí sản xuất chung (ví dụ, các chi
phí vật liệu phụ, chi phí động lực, chi phí lao động gián tiếp trong chi phí sản xuất
chung có thể là chi phí khả biến) hoặc thuộc khoản mục chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp (như chi phí vật liệu, phí hoa hồng, phí vân chuyển. ...).


13

Nếu gọi a là giá trị biến phí tính theo một đơn vị mức độ hoạt động; x là biến
số thể hiện mức độ hoạt động đạt được thì tổng giá trị chi phí khả biến (y) sẽ là 1
hàm số có dạng: y = a.x . Đồ thị biểu diễn sự biến thiên của chi phí khả biến theo

mức độ hoạt động như sau:

y

y=a.
x
x
Mức độ hoạt động

Trong các doanh nghiệp sản xuất, các khoản chi phí NVL trực tiếp và chi
phí NCTT thể hiện rõ nhất đặc trưng của biến phí. Tùy vào mức độ thay đổi của
biến phí so với mức độ hoạt động mà chia biến phí thành: Biến phí tỷ lệ và biến
phí cấp bậc.
Biến phí tỷ lệ
Biến phí tỷ lệ là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận trực tiếp với biến
động của mức độ hoạt động căn cứ. Biến phí tỷ lệ bao gồm chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
Biến phí cấp bậc
Biến phí cấp bậc là những khoản chi phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động
thay đổi nhiều và rõ ràng. Biến phí này không thay đổi khi mức độ hoạt động căn cứ
ít. Nói cách khác cũng có quan hệ tỷ lệ nhưng không tuyến tính với mức độ hoạt
động. Biến phí cấp bậc gồm những khoản chi phí như chi phí lao động gián tiếp, chi
phí bảo trì..
* Chi phí bất biến
Chi phí bất biến là những chi phí mà xét về mặt tổng số được coi là không
thay đổi khi mức độ hoạt động của doanh nghiệp thay đổi, nhưng xét trên 1 đơn vị
sản phẩm thì định phí biến đổi tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động. Định phí chỉ
được xem là không thay đổi theo mức độ hoạt động khi mức độ hoạt động nằm



14

trong giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp mở rộng quy
mô sản xuất, tăng cường đấu tư mua sắm nhà cửa, máy móc thiết bị thì chi phí sẽ
tăng đến một phạm vi hoạt động mới. Các loại chi phí bất biến thường gặp trong các
doanh nghiệp sản xuất là chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí thuê nhà xưởng, lãi vay,
chi phí giao tế, chi phí tiền lương nhân viên quản lý, chi phí quảng cáo, v.v..
Điểm khác nhau cơ bản giữa biến phí cấp bậc và định phí là: Biến phí cấp
bậc có thể điều chỉnh rất nhanh khi các điều kiện thay đổi, còn định phí thì thường
bị ràng buộc ít nhất là đến hết kỳ kế hoạch mới được thay đổi.
Với xu hướng tăng dần tỷ trọng của định phí và giảm dần tỷ trọng của biến
phí trong các doanh nghiệp hiện nay, vì hầu như các doanh nghiệp đều sử dụng các
máy móc thiết bị trong quá trình sản xuất. Do vậy mà chi phí về lao động ngày càng
giảm để thay chỗ cho các chi phí khấu hao. Tỷ trọng này còn tùy thuộc vào loại
hình doanh nghiệp. Ở những doanh nghiệp sản xuất, do cần nhiều máy móc, thiết bị,
nhà xưởng,… nên tỷ trọng của định phí thường lớn hơn những doanh nghiệp thương
mại (chủ yếu là mua và bán hàng hóa nên thường có định phí thấp).
Nếu gọi b là tổng số định phí thì đường biểu diễn định phí là một đường
thẳng có dạng: y = b.

y
y=b
x
Mức độ hoạt động
Căn cứ vào mức độ cần thiết của định phí mà định phí được chia làm: Định
phí bắt buộc và định phí tùy ý.
Định phí bắt buộc
Đó là những chi phí không thể không có cho dù mức độ hoạt động của doanh
nghiệp xuống rất thấp, thậm chí không hoạt động. Ví dụ: khấu hao TSCĐ, lương
của bộ phận quản lý, chi phí thuê nhà xưởng, chi phí đào tạo cán bộ, nhân viên,…

Những chi phí này có 2 đặc điểm:


15

+ Có bản chất lâu dài và rất khó thay đổi
+ Không thể cắt giảm đến không cho dù mức độ hoạt động giảm xuống hoặc
khi sản xuất bị gián đoạn.
Định phí tùy ý
Đó là những chi phí có thể dễ dàng thay đổi tùy vào điều kiện thực tế của
mức độ hoạt động. Nhà quản lý có thể đưa ra các quyết định thay đổi trong từng kỳ
kế hoạch. Ví dụ như: Chi phí quảng cáo, chi phí đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu,…
Những chi phí loại này có 2 đặc điểm như sau:
+ Có bản chất ngắn hạn
+ Trong những trường hợp cần thiết người ta có thể cắt giảm chúng đi.
* Chi phí hỗn hợp
Chi phí hỗn hợp là những chi phí mà cấu thành nên nó bao gồm cả yếu tố chi
phí khả biến và chi phí bất biến. Ở một mức độ hoạt động cụ thể nào đó, chi phí
hỗn hợp mang đặc điểm của chi phí bất biến, khi mức độ hoạt động tăng
lên, chi phí hỗn hợp sẽ biến đổi như đặc điểm của chi phí khả biến. Trong các doanh
nghiệp sản xuất, chi phí hỗn hợp cũng chiếm một tỉ lệ khá cao trong các loại chi
phí, chẳng hạn như chi phí điện thoại, chi phí bảo trì MMTB, chi phí thuê xe...
Nếu gọi a là tỷ lệ biến đổi theo các mức độ hoạt động của bộ phận chi phí
biến đổi trong chi phí hỗn hợp; b là bộ phận chi phí bất biến trong chi phí hỗn hợp
thì phương trình biễu diễn sự biến thiên của chi phí hỗn hợp là một phương trình
bậc nhất có dạng: y = a.x + b . Đồ thị minh họa như sau:

y

y = a.x + b

y = a.x
y=b

x
Mức độ hoạt động


16

Chi phí hỗn hợp rất quan trọng vì nó rất phổ biến trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của DN. Vì vậy, để phục vụ cho công tác quản trị chi phí, nhằm mục
đích lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí hỗn hợp, các nhà quản trị
cần phải tách chi phí hỗn hợp thành chi phí khả biến và chi phí bất biến. Việc phân
tích này được thực hiện bằng một trong ba phương pháp sau: Phương pháp cực đạicực tiểu, phương pháp đồ thị phân tán và phương pháp bình phương bé nhất.
Việc phân loại chi phí theo mô hình ứng xử giúp nhà quản trị thấy được cách
thức ứng xử từng loại chi phí, giúp nhà quản trị có được cách nhìn và quyết định tốt
hơn khi có sự thay đổi về mức độ hoạt động. Ngoài ra, với cách phân loại này, giúp
nhà quản trị nhận biết thông tin về chi phí và tính toán kết quả nhanh chóng để lập
dự toán chi phí tốt hơn, phù hợp với thực tế và có tính khả thi hơn; giúp xây dựng
mô hình chi phí trong mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng, lợi nhuận, phân tích
điểm hòa vốn, phân tích chi phí và xác định sản lượng, doanh thu hòa vốn, xác định
được chi phí bỏ ra để đạt được lợi nhuận dự kiến. Qua đó, nhà quản trị xác định
phương hướng sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí, làm cơ sở ra quyết
định ngắn hạn.
1.2.1.4. Phân loại chi phí sử dụng trong kiểm tra và ra quyết định
* Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
- Chi phí trực tiếp trong doanh nghiệp sản xuất là những chi phí chỉ quan hệ
trực tiếp đến việc sản xuất sản phẩm, hoặc thực hiện các đơn đặt hàng và hoàn toàn
có thể hạch toán, quy nạp trực tiếp cho sản phẩm, đơn đặt hàng đó.
- Chi phí gián tiếp là các khoản chi phí có liên quan đến việc sản xuất và tiêu

thụ nhiều loại sản phẩm, nhiều đơn đặt hàng, phát sinh cho mục đích phục
vụ và quản lý chung cần tiến hành phân bổ cho các đối tượng sử dụng chi phí theo
các tiêu thức phân bổ.
Cách phân loại chi phí này có ý nghĩa thuần túy đối với kỹ thuật hạch toán.
Việc lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí hợp lý và khoa học giúp các nhà quản trị
doanh nghiệp có được thông tin chân thực về chi phí và kết quả lợi nhuận từng loại
sản phẩm.


17

* Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được
Một khoản chi phí được xem là chi phí có thể kiểm soát được hoặc là chi phí
không kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó là tuỳ thuộc vào khả năng cấp quản
lý này có thể ra các quyết định để chi phối, tác động đến khoản chi phí đó hay là
không. Như vậy, nói đến khía cạnh quản lý chi phí bao giờ cũng gắn liền với một
cấp quản lý nhất định: khoản chi phí mà ở một cấp quản lý nào đó có thẩm
quyền ra quyết định được gọi là chi phí kiểm soát được và ngược lại.
* Chi phí lặn
Chi phí lặn là khoản chi phí đã bỏ ra trong quá khứ và sẽ hiển hiện ở tất cả
mọi phương án với giá trị như nhau, là loại chi phí mà DN sẽ phải gánh chịu, bất kể
đã lựa chọn phương án hoặc hành động nào.
* Chi phí chênh lệch
Chi phí chênh lệch là những khoản chi phí có ở phương án này nhưng không
có hoặc chỉ có một phần ở phương án khác. Chi phí chênh lệch là một trong những
căn cứ quan trọng để lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh. Chi phí chênh lệch
là dạng thông tin thích hợp cho việc ra quyết định.
* Chi phí cơ hội
Chi phí cơ hội là những thu nhập tiềm tàng bị mất đi khi lựa chọn thực hiện
phương án này thay cho phương án khác. Chi phí cơ hội là một yếu tố đòi hỏi luôn

phải được tính đến trong mọi quyết định của quản lý.
Tuỳ thuộc vào yêu cầu và mục đích cụ thể của các nhà quản trị mà
thông tin chi tiết về chi phí, doanh thu và KQKD sẽ được tổ chức thu thập bằng hệ
thống các phương pháp kế toán phù hợp, được thiết kế dưới những dạng cụ thể có
thể so sánh được, hoặc dưới dạng phương trình, hoặc thành dạng đồ thị, cho cả
thông tin thực hiện (thông tin trong quá khứ) và cả những thông tin liên quan đến
tương lai bao gồm cả thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp, từ đó xác định những
thông tin thích hợp và thông tin không thích hợp cho việc ra các quyết định kinh
doanh ngắn hạn.


18

1.2.2 Tổ chức thu thập thông tin thực hiện liên quan đến chi phí
Để thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin thực hiện trong KTQT cần tổ chức
tốt các nội dung: Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán; tổ chức hệ thống tài khoản
phục vụ KTQT, tổ chức hệ thống sổ KTQT và tổ chức hệ thống báo cáo KTQT.
* Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán và hệ thống tài khoản phục vụ KTQTị.
Lập các chứng từ kế toán là khâu đầu tiên khi tổ chức thu thập thông tin thực
hiện. Trên cơ sở các chứng từ, tài khoản, sổ kế toán theo chế độ đã ban
hành, KTQT sẽ xây dựng hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ kế toán phù hợp theo yêu
cầu quản lý, đảm bảo vừa chi tiết cho từng bộ phận sản xuất, vừa chi tiết theo biến
phí và định phí.
- Đối với chi phí trực tiếp như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân
công trực tiếp thì lập chứng từ riêng cho từng loại sản phẩm (trong trường hợp này
thường xác định đối tượng tập hợp chi phí là từng loại sản phẩm).
- Trường hợp các khoản chi phí nguyên vật liệu, nhân công có liên quan đến
nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tách riêng thì áp dụng phương
pháp phân bổ gián tiếp cho từng đối tượng. Kế toán sử dụng TK 621 “ Chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp” và TK 622 “ Chi phí nhân công trực tiếp” để phản ánh

các chứng từ phát sinh. Các tài khoản này được mở chi tiết cho từng đối tượng tập
hợp chi phí tùy thuộc yêu cầu quản lý doanh nghiệp.
- Đối với chi phí phục vụ và quản lý sản xuất (chi phí sản xuất chung, chi
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp) thì tổ chức chứng từ theo từng
yếu tố chi phí để tập hợp được chi phí theo từng yếu tố, theo địa điểm phát sinh chi
phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất...), sau đó lựa chọn tiêu thức phân bổ
thích hợp để xác định chi phí này cho từng loại sản phẩm, từng đối tượng theo yêu
cầu của nhà quản trị. Để theo dõi chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng TK 627 “
Chi phí sản xuất chung”, để theo dõi chi phí bán hàng kế toán sử dụng TK 641 và
TK 642 để theo dõi chi phí quản lý doanh nghiệp. Các tài khoản này được mở chi
tiết theo các tài khoản cấp 2 tương ứng.


19

* Tổ chức hệ thống sổ kế toán để thu thập thông tin thực hiện về chi phí,
phục vụ yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
Để thu thập thông tin thực hiện về chi phí nhằm phục vụ cho yêu cầu của nhà
quản trị kế toán cần sử dụng hệ thống các sổ kế toán chi tiết về chi phí. Nội dung
của sổ kế toán chi tiết chi phí phải đảm bảo theo dõi được chi tiết từng khoản mục
chi phí, yếu tố chi phí kết hợp với việc nhận dạng chi phí biến đổi và chi phí cố
định. Phân tích được chi phí theo từng đối tượng tập hợp chi phí đã xác định sẽ phù
hợp với yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết về chi phí để vừa phục vụ yêu cầu quản
lý chi phí đáp ứng yêu cầu xác định kết quả từng hoạt động, từng mặt hàng... phù
hợp với việc hạch toán ban đầu và theo yêu cầu của nhà quản trị.
* Tổ chức hệ thống báo cáo
Để giúp các nhà quản trị thực hiện chức năng kiểm soát, các kế toán viên
KTQT sẽ soạn thảo các báo cáo. Trong đa số các báo cáo thực hiện, KTQT vừa
trình bày các thông tin thực hiện, vừa trình bày những thông tin về dự toán (kế
hoạch) tương ứng để đảm bảo so sánh những kết quả thực tế đạt được với dự toán,

liệt kê tất cả những sự khác biệt giữa thực hiện với dự toán để giúp cho các nhà
quản trị đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch (dự toán). Việc tổ chức các báo
cáo KTQT cần đảm bảo các yêu cầu:
- Các thông tin trên báo cáo phải được phân chia thành các chỉ tiêu phù hợp
với các tiêu chuẩn đánh giá thông tin trong mỗi tình huống quyết định khác
nhau và phải có mối quan hệ logic, chặt chẽ với nhau.
- Các số liệu thực tế, dự toán, định mức hoặc các mục tiêu định trước trong
báo cáo phải so sánh được với nhau để giúp các nhà quản trị sử dụng thông tin thực
hiện chức năng kiểm soát các hoạt động;
- Hình thức kết cấu các báo cáo cần đa dạng, linh hoạt tùy thuộc vào tiêu
chuẩn đánh giá thông tin trong mỗi báo cáo phục vụ cho từng tình huống cụ thể
- Các chỉ tiêu trong báo cáo thực hiện nên được phân bổ theo loại sản phẩm,
mặt hàng hoặc theo khu vực, thời gian, bộ phận.


20

- Thông tin về chi phí trong các báo cáo KTQT cần phải phân tích theo mô
hình ứng xử chi phí, tức là phân tích thành định phí và biến phí.
1.2.3 Lập dự toán trong các doanh nghiệp sản xuất
Một trong những đặc điểm của thông tin kế toán quản trị là cung cấp số liệu
không chỉ trong quá khứ mà còn cả ở hiện tại và tương lai. Do vậy, kế toán quản trị
chi phí ngoài việc tập hợp các chi phí phát sinh trong kỳ và tính giá thành theo đối
tượng cụ thể, còn phải có nhiệm vụ lập dự toán các chi phí cho kỳ kế hoạch.
Dự toán sản xuất kinh doanh là những dự kiến (kế hoạch) chi tiết chỉ rõ cách
thức huy động và sử dụng các nguồn lực cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp một cách toàn diện và phối hợp, được xác định bằng một hệ thống
các chỉ tiêu về số lượng và giá trị cho một khoảng thời gian xác định trong tương
lai, theo yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp. Dự toán là căn cứ để đánh giá
tình hình thực hiện các chỉ tiêu đã dự kiến, tìm ra những nguyên nhân, nhân tố ảnh

hưởng đến tình hình thực hiện các chỉ tiêu đó trên cơ sở đó có biện pháp hữu hiệu
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời kỳ tiếp theo. Dự toán sản
xuất kinh doanh là căn cứ để các nhà quản trị doanh nghiệp khai thác các khả năng
tiềm tàng nhằm phát huy nội lực và tăng sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thông thường dự toán sản xuất kinh doanh được lập cho kỳ một năm phù hợp với
năm tài chính của doanh nghiệp và được chia ra các quý các tháng trong năm. Để
việc lập dự toán được chính xác và có thể thực hiện được thì cuối tháng, cuối quý
trước khi lập dự toán cho tháng, quý tiếp theo cần đánh giá tình hình thực hiện dự
toán của tháng, quý đó tìm ra những nguyên nhân và nhân tố ảnh hưởng, xác định
những nhân tố kinh tế xã hội sẽ tác động đến trong tương lai mà xác định mục tiêu
cần vươn tới.
Dự toán chi phí có thể được xây dựng cho toàn doanh nghiệp và cho từng bộ
phận. Đối với các DN sản xuất, dự toán chi phí thường tập hợp theo sản phẩm,
nhóm sản phẩm và đơn đặt hàng. Việc lập dự toán chi phí sẽ giúp cho nhà quản lý
biết trước và chủ động trong công tác quản trị chi phí. Dự toán chi phí trong doanh


×