Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Kế toán quản trị chi phí tại Tổng công ty Cổ phần y tế Danameco

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.84 KB, 93 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kế toán quản trị chi phí là một bộ phận của KTQT chuyên thực hiện việc xử lý
và cung cấp các thông tin về chi phí nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức
năng của nhà quản trị như hoạch định, tổ chức thực hiện, kiểm tra và ra quyết định.
Tại các nước phát triển KTQT chi phí được xem như là công cụ quản lý khoa học
và hiệu quả nhằm kịp thời xử lý và cung cấp thông tin về chi phí đáp ứng cho nhà
quản trị. Còn ở Việt Nam, trước những năm 1990 với nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung các doanh nghiệp không phải chịu sức ép cạnh tranh nên chưa thấy được nhu
cầu cần phải có hệ thống kế toán quản trị. Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát
triển, cùng với sự đổi mới nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường thì kế toán quản
trị và kế toán quản trị chi phí ngày càng được quan tâm hơn, tuy nhiên vẫn chưa
được ứng dụng một cách phổ biến. Ngày 12 tháng 6 năm 2006 Bộ Tài Chính đã ban
hành thông tư số 53/2006/TT-BTC về việc “Hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị
trong doanh nghiệp”, nhưng việc triển khai áp dụng cụ thể vào từng loại hình doanh
nghiệp thì còn nhiều vấn đề phải xem xét và nghiên cứu.
Ngành sản xuất thiết bị y tế là một trong những ngành có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế. Đứng trước xu thế hội nhập quốc tế, muốn tồn tại và phát triển
yêu cầu khắt khe đặt ra cho doanh nghiệp sản xuất thiết bị y tế là phải kiểm soát
được chi phí và đảm bảo chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn. Để thực hiện được
việc này, Tổng công ty cổ phần y tế Danameco cần tổ chức hệ thống thông tin nội
bộ hoàn chỉnh để cung cấp thông tin cho lãnh đạo nhằm nâng cao chất lượng quản
lý. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh,
công tác quản lý và công tác kế toán tại Tổng công ty cổ phần y tế Danameco, xuất
phát từ thực trạng về tổ chức thông tin kế toán tại công ty, tôi nhận thấy rằng việc tổ
chức ứng dụng kế toán quản trị tại công ty là hoàn toàn phù hợp vì nhìn chung kế
toán quản trị tại công ty chưa được tổ chức một cách có hệ thống và chặt chẽ, thông
tin cung cấp cho nhà quản trị không được tổ chức linh hoạt, nhanh chóng trong việc
ra quyết định tại công ty. Thực tế tại công ty việc áp dụng kế toán quản trị chi phí




2

vào hoạt động quản lý chưa được quan tâm một cách đúng mức. Trong điều kiện
cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay thì đây là một hạn chế lớn, nhất là một
công ty có quy mô lớn và thị trường rộng như Tổng công ty cổ phần y tế Danameco.
Xuất phát từ yêu cầu trên, tác giả đã chọn đề tài: “Kế toán quản trị chi phí tại
Tổng công ty Cổ phần y tế Danameco” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm tạo ra bức tranh cụ thể về công tác quản trị chi phí ở Tổng công ty cổ
phần y tế Danameco, giúp doanh nghiệp có thêm những thông tin để xây dựng, cải
thiện và thiết kế hệ thống kế toán quản trị chi phí nhằm mục đích cung cấp thông tin
kế toán hữu ích, kịp thời.
Mục tiêu cụ thể của luận văn như sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về kế toán quản trị chi phí trong
doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng kế toán quản trị chi phí tại Tổng công ty cổ
phần y tế Danameco, từ đó rút ra ưu nhược điểm trong công tác kế toán quản trị chi
phí.
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán quản trị chi
phí tại Tổng công ty cổ phần y tế Danameco.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là kế toán quản trị chi phí tại Tổng công ty
cổ phần y tế Danameco.
Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề cơ bản liên quan đến kế toán quản trị chi phí tại Tổng công ty cổ
phần y tế Danameco.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng
hợp, phỏng vấn, so sánh… Tác giả đã trực tiếp tiến hành nghiên cứu tại Tổng công
ty cổ phần y tế Danameco theo phương pháp phỏng vấn và đối tượng phỏng vấn là


3

kế toán tính giá thành sản phẩm, kế toán trưởng và giám đốc tại Công ty. Dữ liệu sử
dụng chủ yếu trong luận văn là dữ liệu sơ cấp tại đơn vị kết hợp với các quy định,
hệ thống văn bản hướng dẫn của công ty về tài chính-kế toán.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản của kế toán quản
trị chi phí trong doanh nghiệp sản xuất.
- Về mặt thực tiễn:
+ Phân tích, đánh giá thực trạng kế toán quản trị chi phí tại Tổng công ty cổ
phần y tế Danameco.
+ Xác định và phân tích các nguyên nhân tồn tại trong việc tổ chức vận dụng
kế toán quản trị chi phí tại Tổng công ty cổ phần y tế Danameco.
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện kế toán quản trị chi phí tại Tổng công ty
cổ phần y tế Danameco.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cở sở lý luận về kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng kế toán quản trị chi phí tại Tổng công ty cổ phần y tế
Danameco.
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán quản trị chi phí tại Tổng
công ty cổ phần y tế Danameco.


4


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về kế toán quản trị
Kế toán quản trị là một ngành khoa học quản lý tương đối mới, đặc biệt khi so
sánh với lịch sử phát triển lâu dài của KTTC. Kế toán chi phí là biểu hiện đầu tiên
của hệ thống KTQT hiện hành. Kế toán chi phí đã được phát triển để đáp ứng nhu
cầu chung trong quá trình báo cáo tài chính. Các chi phí đã phải được xác định để
các phí tổn có liên quan đến sản phẩm có thể được phân chia rõ ràng giữa giá phí
hàng tiêu thụ và hàng tồn kho. Chủ yếu là xác định đầy đủ tất cả các chi phí một
cách khách quan và rõ ràng.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, trước yêu cầu thông tin nhiều hơn,
phong phú hơn của nhà quản trị, ngoài những thông tin về chi phí để có thể phục vụ
công tác quản trị doanh nghiệp được tốt hơn, kế toán chi phí được bổ sung và phát
triển thành kế toán quản trị. KTQT được phát triển mạnh tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ
20, và hiện nay được vận dụng ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường với tên
gọi là KTQT.
Hiện nay giữa các nước, hai lĩnh vực KTTC và KTQT có những cách gọi khác
nhau, phổ biến nhất là theo cách gọi của tiếng Anh. Kế toán tài chính: “Financial
Accounting” và KTQT: “Management Accounting”. Trong khi đó nhiều nước châu
Âu như Pháp, Bồ Đào Nha thì kế toán tài chính gọi là kế toán tổng quát
“Comptabilité” và KTQT là kế toán phân tích “Comptabilité” hoặc kế toán quản lý
“Comptabilité des Gestion”. Qua đây để khẳng định kế toán tài chính không phải là
kế toán tổng hợp và kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết như nhiều người
đã quan niệm.
Trong nền kinh tế thị trường, kế toán được phân thành 2 bộ phận đó là kế toán
tài chính và kế toán quản trị, thông tin kế toán cũng được phân thành hai loại, đó là:
- Thông tin phục vụ chủ yếu cho nội bộ, cho các nhà quản lý của doanh nghiệp
được cung cấp bởi KTQT.



5

- Thông tin phục vụ cho cả nội bộ và bên ngoài doanh nghiệp được cung cấp bởi
kế toán tài chính.
Khái niệm về kế toán quản trị được Hiệp hội kế toán Mỹ định nghĩa: “KTQT là
quá trình định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích, lập báo biểu, giải thích và thông
đạt các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban quản trị để lập kế hoạch, theo dõi
việc thực hiện kế hoạch trong phạm vi nội bộ một doanh nghiệp, đảm bảo việc sử
dụng có hiệu quả các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản này”.
Theo định nghĩa trong Luật Kế Toán Việt Nam: “KTQT là việc thu thập, xử lý,
phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết
định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”.
Như vậy, KTQT là một bộ phận quan trọng của hệ thống thông tin quản lý
doanh nghiệp và có quan hệ chặt chẽ với KTTC, KTQT được hình thành và thích
ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, có nhiệm vụ cung cấp thông tin kế toán
cho các nhà quản trị doanh nghiệp. KTQT về cơ bản dựa trên những nội dung cơ
bản của kế toán, ngoài ra còn đi sâu, nghiên cứu mối quan hệ giữa chi phí, sản
lượng và lợi nhuận để phục vụ tốt cho hoạt động điều hành SXKD của nhà quản trị.
Vai trò của KTQT ngày càng được khẳng định và nó được xem như là một trong
những công cụ phục vụ hữu hiệu nhất cho quản lý nội bộ doanh nghiệp. [3, tr. 7-9]
1.1.2. Bản chất và vai trò của kế toán quản trị chi phí
1.1.2.1. Bản chất của kế toán quản trị chi phí
Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí thường xuyên phát sinh
trong nội bộ DN và chịu sự chi phối của nhà quản trị, mọi quyết định trong DN đều
liên quan đến việc sử dụng tài nguyên, đến chi phí của DN trong việc hình thành giá
trị. Quá trình này thường gắn liền với lợi ích mong muốn của DN. Ở đây chi phí
được hiểu là giá trị của mọi khoản khấu hao về nhân tài, vật lực nhằm thu được các
loạt hàng hóa hoặc dịch vụ.

Chi phí có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau để có thể cung cấp những
thông tin phù hợp với nhu cầu của nhà quản trị, trong đó việc xem xét chi phí trong
mối quan hệ với khối lượng, hay mức độ hoạt động và với lợi nhuận có thể được


6

xem là đối tượng chủ yếu của KTQT. Như vậy các loại chi phí đặt trong mối quan
hệ khác nhau và quan hệ với lợi ích mang lại cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai
là đối tượng cụ thể của KTQT chi phí. Không những thế vì KTQT chi phí quan tâm
đến khía cạnh của quản trị là chủ yếu, do đó quá trình kiểm soát, kiểm tra điều
chỉnh trong quản trị cần thiết phải có cả thông tin về tài chính cũng như phi tài
chính nên đây cũng là một đối tượng cụ thể của KTQT chi phí.
Khởi điểm của KTQT chi phí là kế toán chi phí. Kế toán chi phí là giai đoạn đầu
của sự phát triển của KTQT chi phí. Kế toán chi phí bao gồm việc tập hợp, phân
loại, tính giá theo yêu cầu nhất định của KTTC và KTQT nhằm cung cấp thông tin
kế toán mà chủ yếu là thông tin về chi phí cho nhà quản trị. Mặc dù đều nhằm mục
đích thông tin cho nhà quản trị nhưng có sự khác nhau về mục đích và phạm vi giữa
hai loại kế toán này. Với KTTC, kế toán chi phí là cơ sở xác định chi phí và thu
nhập thể hiện trên báo cáo lãi lỗ kinh doanh trong kỳ kế toán. Với kế toán quản trị,
kế toán chi phí được sử dụng để tính giá thành, lập dự toán chi phí…, làm cơ sở để
phân tích chi phí và ra quyết định.
KTQT chi phí nhấn mạnh đến tính dự báo của thông tin và trách nhiệm của nhà
quản lý thuộc các cấp quản lý (Trong đó tập trung vào cấp quản trị thấp nhất như tổ,
đội, phân xưởng sản xuất hay bộ phận quản lý và phục vụ - là nơi trực tiếp phát sinh
các chi phí) nhằm gắn trách nhiệm của nhà quản trị với chi phí phát sinh thông qua
hình thức thông tin chi phí được cung cấp theo trung tâm chi phí (Nguồn gây ra chi
phí). KTQT chi phí trả lời câu hỏi chi phí sẽ là bao nhiêu, thay đổi như thế nào khi
có sự thay đổi về mặt sản lượng sản xuất, ai phải chịu trách nhiệm giải thích về
những bất lợi của chi phí và giải pháp cần đưa ra để điều chỉnh. Điều này cho thấy

KTQT chi phí mang nặng tính bản chất của KTQT nhiều hơn là kế toán chi phí
thuần túy.
Như vậy, KTQT chi phí không nhận thức theo quan điểm của KTTC mà theo
nhiều phương diện khác nhau để đáp ứng nhu cầu thông tin trong hoạch định, tổ
chức thực hiện, kiểm soát và ra quyết định. Từ đó có thể rút ra bản chất của KTQT
chi phí như sau:


7

- KTQT chi phí không chỉ thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về các nghiệp
vụ kinh tế, tài chính phát sinh đã thực sự hoàn thành, đã ghi chép, hệ thống hóa
trong sổ kế toán mà cón xử lý và cung cấp các thông tin phục vụ cho việc lập các dự
toán, quyết định các phương án kinh doanh.
- KTQT chi phí cung cấp các thông tin về hoạt động kinh tế, tài chính trong
phạm vi yêu cầu quản lý nội bộ của DN. Những thông tin đó có ý nghĩa với những
bộ phận, những người điều hành, nhà quản lý DN.
- KTQT chi phí là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một bộ
phận không thể thiếu được để kế toán thực sự trở thành công cụ quản lý. [3, tr. 9-11]
1.1.2.2. Vai trò của kế toán quản trị chi phí
- KTQT chi phí cung cấp cho nhà quản trị doanh nghiệp trong việc thực hiện
chức năng quản lý.
- KTQT chi phí cung cấp các thông tin để nhà quản lý kiểm soát quá trình thực
hiện kế hoạch sản xuất thông qua các báo cáo đánh giá, đặc biệt là giúp cho nhà
quản lý trong việc kiểm soát chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD.
- KTQT chi phí cung cấp các thông tin thích hợp cho nhà quản lý nhằm xây
dựng các chiến lược cạnh tranh bằng cách thiết lập báo cáo định kỳ và báo cáo đặc
biệt.
- KTQT chi phí cung cấp các thông tin để phân bổ các nguồn lực doanh nghiệp
cũng như quyết định cơ cấu sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, hay quyết định ngừng

sản xuất hợp lý. [3, tr. 12]
1.2. Phân loại chi phí trong doanh nghiệp sản xuất
1.2.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
1.2.1.1. Chi phí sản xuất
Giai đoạn sản xuất là giai đoạn chế biến nguyên liệu thành thành phẩm bằng sức
lao động của công nhân kết hợp việc sử dụng máy móc thiết bị.
Chi phí sản xuất có thể hiểu là sự tiêu hao của các yếu tố sản xuất như lao động,
máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và các chi phí khác để tạo ra giá thành của sản
phẩm hay dịch vụ trong kỳ, bao gồm:


8

- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm các loại nguyên liệu và vật liệu xuất
dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Trong đó nguyên vật liệu chính dùng để
cấu tạo nên thực thể chính của sản phẩm và các loại vật liệu phụ khác có tác dụng
kết hợp với nguyên vật liệu chính để hoàn chỉnh sản phẩm về mặt chất lượng và
hình dáng. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể xác định cho từng đơn vị sản
phẩm nên được tính thẳng vào từng đơn vị sản phẩm.
- Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí tiền lương và các khoản trích
theo lương phải trả cho bộ phận công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm. Chi phí
nhân công trực tiếp cũng giống như chi phí NVL trực tiếp, có thể xác định rõ ràng,
cụ thể và tách biệt cho từng đơn vị sản phẩm nên được tính thẳng vào từng đơn vị
sản phẩm.
- Chi phí sản xuất chung: Bao gồm các chi phí phát sinh trong phạm vi các phân
xưởng để phục vụ hoặc quản lý quá trình sản xuất sản phẩm. Trong thực tế quá trình
sản xuất, chi phí sản xuất chung thường bao gồm: tiền lương và các khoản trích theo
lương của nhân viên quản lý phân xưởng, chi phí vật liệu phục vụ cho phân xưởng
và đội sản xuất, chi phí công cụ, dụng cụ cho phân xưởng và đội sản xuất, chi phí
khấu hao tài sản cố định phục vụ cho quá trình sản xuất, chi phí dich vụ mua ngoài,

chi phí khác gồm các khoản như tiếp khách phân xưởng, thiệt hại trong quá trình
sản xuất… [2, tr. 40-41]
1.2.1.2. Chi phí ngoài sản xuất
Các chi phí ngoài quá trình sản xuất sản phẩm liên quan đến quá trình tiêu thụ
sản phẩm hoặc phục vụ công tác quản lý chung của toàn DN gồm:
- Chi phí bán hàng: Bao gồm các chi phí phát sinh phục vụ cho khâu tiêu thụ sản
phẩm như: chi phí tiếp thị, chi phí khuyến mãi, chi phí quảng cáo, chi phí đóng gói
sản phẩm tiêu thụ, chi phí vận chuyển bốc dỡ, tiền lương nhân viên bán hàng, hoa
hồng bán hàng…
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm tất cả các chi phí phục vụ cho công tác
tổ chức và quản lý quá trình sản xuất kinh doanh nói chung trên giác độ toàn DN


9

như: chi phí văn phòng, lương cán bộ quản lý và nhân viên văn phòng, khấu hao
TSCĐ của DN… [2, tr. 41-42]
1.2.2. Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí và đối tượng tập hợp chi
phí
- Chi phí trực tiếp: Là chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất sản phẩm
hoặc thực hiện các đơn đặt hàng. Chi phí trực tiếp thường tập hợp trực tiếp vào các
đối tượng chịu phí.
- Chi phí gián tiếp: Là những chi phí liên quan đến nhiều đối tượng chịu phí (sản
phẩm, đơn đặt hàng…) với mục đích phục vụ và quản trị chung. Chi phí gián tiếp
thường được tập hợp chung, cuối kỳ phân bổ cho các đối tượng theo những tiêu
thức thích hợp. Trong DN chi phí gián tiếp là chi phí sản xuất chung, chi phí bán
hàng, chi phí quản lý DN. [3, tr. 41]
1.2.3. Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí của DN bao gồm: Biến phí, định phí, chi phí
hỗn hợp.

- Biến phí: là chi phí xét về lý thuyết, tổng số có sự thay đổi tỷ lệ thuận với mức
độ hoạt động. Trong phạm vi phù hợp, tổng biến phí tăng (giảm) theo sự tăng
(giảm) của mức độ hoạt động nhưng biến phí tính cho một đơn vị của mức độ hoạt
động thì không thay đổi. Như vậy, biến phí chỉ phát sinh khi có hoạt động. Ví dụ:
chi phí NVLTT, chi phí NCTT, hoa hồng bán hàng, giá vốn hàng bán…
- Định phí: là chi phí xét về lý thuyết, tổng số không có sự thay đổi với mức độ
hoạt động. Trong phạm vi phù hợp, tổng định phí không tăng (giảm) theo sự tăng
(giảm) của mức độ hoạt động nhưng định phí tính cho một đơn vị của mức độ hoạt
động thì thay đổi tỷ lệ nghịch với mức độ hoạt động. Ví dụ: chi phí khấu hao TSCĐ,
chi phí tiền lương nhân viên quản trị, chi phí quảng cáo…
- Chi phí hỗn hợp: là những chi phí mà cấu thành nên nó bao gồm định phí và
biến phí. Phần định phí trong chi phí hỗn hợp để duy trì mức độ hoạt động ở mức
tối thiểu, phần biến phí thay đổi theo sự thay đổi của mức độ hoạt động. Ví dụ chi


10

phí hỗn hợp là chi phí điện thoại thì tiền thuê bao hàng thàng chính là định phí, tiền
cước là biến phí…
Nếu gọi:
a: Biến phí trong một đơn vị hoạt động
b: Tổng định phí trong chi phí hỗn hợp
x: Mức độ hoạt động
y: Chi phí hỗn hợp
Phương trình biểu diễn chi phí hỗn hợp : y = ax + b
Để lập kế hoạch kiểm soát hoạt động kinh doanh và chủ động trong quản lý chi
phí vấn đề đặt ra với các nhà quản trị là xác định được thành phần của chi phí hỗn
hợp, đồng thời phân tích chúng nhằm lượng hóa, tách riêng yếu tố định phí, biến
phí. Việc phân tích chi phí này được thực hiện bằng một trong các phương pháp
sau : phương pháp cực đại - cực tiểu; phương pháp bình phương bé nhất; phương

pháp đồ thị phân tán; ngoài ra với các phần mềm phân tích thống kê như SPSS,
STATA hoặc phần mềm xử lý bảng tính Excell, nhà quản trị có thể phân tích hồi quy
rất thuận lợi để xác định phí, biến phí trong chi phí hỗn hợp. [1, tr. 18-27]
1.2.4. Phân loại chi phí sử dụng trong kiểm tra và ra quyết định
- Chi phí kiểm soát được: Là chi phí mà cấp quản lý dự đoán được sự phát sinh
và thuộc quyền quyết định của cấp quản lý đó.
- Chi phí không kiểm soát được: Là chi phí mà cấp quản lý không dự đoán được
sự phát sinh của nó, đồng thời không thuộc thẩm quyền quyết định của cấp quản lý
đó.
- Chi phí trực tiếp: Chi phí trực tiếp của một đối tượng tập hợp chi phí là những
khoản chi phí mà có thể tính thẳng và tính toàn bộ cho đối tượng chịu chi phí. Chi
phí trực tiếp gắn liền với đối tượng tập hợp chi phí, phát sinh, tồn tại, phát triển và
mất đi cùng với sự phát sinh, tồn tại, phát triển và mất đi của đối tượng tập hợp chi
phí.
- Chi phí gián tiếp: Chi phí gián tiếp của một đối tượng tập hợp chi phí là những
khoản chi phí mà không thể tính thẳng toàn bộ cho đối tượng đó mà phải thực hiện


11

phân bổ. Chi phí gián tiếp là những khoản chi phí gắn liền với các hoạt động phục
vụ, hỗ trợ cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của nhiều đối tượng tập hợp chi phí,
do đó không thể tính toàn bộ cho bất kỳ đối tượng tập hợp chi phí cá biệt nào.
- Chi phí chênh lệch: Để có thể ra được các quyết định nhà quản lý thường phải
so sánh giữa các phương án với nhau. Trong từng phương án đều có những chi phí
của nó. Những chi phí hiện diện trong phương án này nhưng chỉ hiện diện một phần
hoặc hoàn toàn không có mặt trong phương án khác được gọi là các chi phí chênh
lệch.
- Chi phí cơ hội: Là lợi nhuận tiềm tàng bị mất đi hoặc hi sinh khi lựa chọn một
phương án này để thay thế cho một phương án khác.

- Chi phí lặn: Là những chi phí phát sinh trong quá khứ mà DN phải chịu và vẫn
còn phải chịu trong tương lai bất kể DN lựa chọn phương án kinh doanh nào. [3, tr.
62-64]
1.3. Nội dung kế toán quản trị chi phí trong doanh nghiệp
1.3.1. Lập dự toán chi phí trong doanh nghiệp sản xuất
1.3.1.1. Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phản ánh tất cả chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp cần thiết để đáp ứng yêu cầu sản xuất đã được thể hiện trên dự toán khối
lượng sản phẩm sản xuất. Để lập dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cần xác
định:
- Định mức tiêu hao nguyên vật liệu để sản xuất một sản phẩm.
- Đơn giá xuất nguyên vật liệu.
- Mức độ dự trữ nguyên vật liệu trực tiếp vào cuối kỳ dự toán được tính toán
trên cơ sở lý thuyết quản trị tồn kho. [2, tr.172]
1.3.1.2. Dự toán chi phí nhân công trực tiếp
Dự toán chi phí nhân công trực tiếp được xây dựng từ dự toán khối lượng sản
xuất. Dự toán này cung cấp những thông tin quan trọng liên quan đến quy mô của
lực lượng lao động cần thiết cho kỳ dự toán. Mục tiêu cơ bản của dự toán này là duy
trì lực lượng lao động vừa đủ để đáp ứng yêu cầu sản xuất, tránh tình trạng lãng phí


12

hoặc bị động trong sử dụng lao động. Dự toán lao động còn là cơ sở đê doanh
nghiệp lập dự toán về đào tạo, tuyển dụng trong quá trình hoạt động sản xuất.
Để lập dự toán chi phí này, doanh nghiệp phải tính toán dựa vào số lượng nhân
công, quỹ lương, cách phân phối lương và nhiệm của doanh nghiệp. Để lập dự toán
chi phí này cần xấy dựng:
- Định mức lao động để sản xuất sản phẩm.
- Tiền công cho từng giờ lao động hoặc từng sản phẩm nếu doanh nghiệp trả

lương theo sản phẩm. [2, tr.176]
1.3.1.3. Dự toán chi phí sản xuất chung
Gồm dự toán biến phí SXC và dự toán định phí SXC.
+ Dự toán biến phí sản xuất chung:
Trường hợp biến phí SXC được xây dựng theo từng yếu tố chi phí (chi phí vật
liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp…) theo mỗi đơn vị hoạt động thì quá
trình lập dự toán biến phí SXC được thực hiện tương tự như dự toán chi phí
NVLTT, dự toán chi phí nhân công trực tiếp.
Trường hợp biến phí SXC được xác định bằng một tỷ lệ trên biến phí trực tiếp
thì dựa vào dự toán biến phí trực tiếp, tỷ lệ biến phí sản xuất để lập dự toán biến phí
SXC.
+ Dự toán định phí sản xuất chung:
Đối với các yếu tố định phí SXC bắt buộc, căn cứ vào định phí SXC hàng năm
chia đều cho bốn quý để xác định định phí SXC hàng quý.
Đối với các yếu tố định phí SXC tùy ý, căn cứ vào hành động nhà quản trị xác
định, ta xác định được:
Dự toán chi phí SXC = Dự toán biến phí SXC + Dự toán định phí SXC [2,
tr.178]

Trong đó,
Dự toán biến phí

=

Dự toán biến phí

x

Sản lượng sản xuất



13

SXC
Dự toán định phí
SXC

=

Đơn vị SXC
Định phí SXC
thực tế kỳ trước

x

theo dự toán
Tỷ lệ tăng (giảm) định phí
SXC theo dự kiến

1.3.1.4. Dự toán chi phí bán hàng

Dự toán chi phí

=

Dự toán biến phí

+

Dự toán định phí


bán hàng
bán hàng
bán hàng
Trong đó, dự toán định phí bán hàng được lập tương tự như dự toán định phí
SXC. Điều này có nghĩa là dự toán định phí bán hàng chính là tổng hợp dự toán
định phí bắt buộc và định phí quản trị cần thiết cho kỳ bán hàng. [2, tr.182]
1.3.1.5. Dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp
Dự toán chi phí

=

Dự toán biến phí

+

Dự toán định phí

quản lý DN
quản lý DN
quản lý DN
Tương tự dự toán chi phí bán hàng, dự toán biến phí quản lý DN thường sử dụng
phương pháp thống kê kinh nghiệm. Trên cơ sở tỷ lệ biến phí quản lý DN trên biến
phí thực tế trong và ngoài khâu sản xuất ở các kỳ kế toán trước để xác định tỷ lệ
biến phí quản lý bình quân giữa các kỳ.
Đối với định phí quản lý DN thường không thay đổi theo mức độ hoạt động, dự
toán định phí quản lý DN căn cứ vào dự báo các nội dung cụ thể của từng yếu tố chi
phí. [2, tr.183]
1.3.2. Dự toán linh hoạt
Dự toán linh hoạt được xây dựng dựa trên mô hình ứng xử của chi phí.Trình tự

lập dự toán linh hoạt có thể khái quát qua các bước sau:
Bước 1: Xác định phạm vi phù hợp cho đối tượng được lập dự toán.
Bước 2: Xác định cách ứng xử chi phí, tức phân loại chi phí thành biến phí, định
phí. Đối với chi phí hỗn hợp, cần phân chia thành biến phí và định phí dựa trên các
phương pháp ước lượng chi phí.
Bước 3: Xác định biến phí đơn vị dự toán.
Tổng biến phí dự toán
Biến phí đơn vị dự toán

=

Tổng mức hoạt động dự toán
Bước 4: Xây dựng dự toán linh hoạt, cụ thể:
- Đối với biến phí:


14

Tổng biến phí đã

=

Mức hoạt

x

Biến phí đơn vị

điều chỉnh
động thực tế

dự toán
- Đối với định phí: Định phí không thay đổi vì doanh nghiệp vẫn nằm trong
phạm vi hoạt động liên quan. [2, tr. 200-201]
1.3.3. Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm
1.3.3.1. Đối tượng tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm
- Đối tượng tập hợp chi phí SXKD: Việc xác định đúng đắn đối tượng tập hợp
chi phí SXKD là công việc hàng đầu rất quan trọng trong toàn bộ công tác tổ chức
KTQT chi phí.
Để xác định được đối tượng tập hợp chi phí SXKD ở từng doanh nghiệp có thể
căn cứ vào các yếu tố sau:
+ Căn cứ vào địa điểm phát sinh chi phí: Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất
theo phân xưởng (hoặc tổ sản xuất) thì chi phí sản xuất được tập hợp theo phân
xưởng (hoặc tổ sản xuất).
+ Căn cứ vào tính chất sản xuất và đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản
phẩm: Nếu doanh nghiệp có quy trình sản xuất đơn giản thì đối tượng hay giới hạn
tập hợp chi phí là toàn bộ quy trình sản xuất. Ngược lại, doanh nghiệp có quy trình
công nghệ phức tạp kiểu chế biến liên tục thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có
thể là từng giai đoạn công nghệ hoặc sản phẩm cuối cùng. Nếu doanh nghiệp có quy
trình công nghệ kiểu chế biến song song sẽ chọn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
là thành phẩm hoặc từng bộ phận, chi tiết sản phẩm. Nếu chi tiết cấu thành sản
phẩm nhiều thì có thể hạch toán chi phí theo từng nhóm chi tiết cùng loại.
+ Căn cứ vào loại hình sản xuất: Các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất
đơn chiếc thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng sản phẩm. Các doanh
nghiệp thuộc loại hình sản xuất hàng loạt thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là
đơn đặt hàng hoặc từng loại sản phẩm.
+ Căn cứ vào yêu cầu quản lý, khả năng quản lý và trình độ của nhân viên kế
toán: Nếu khả năng quản lý và trình độ nhân viên càng cao thì đối tượng tập hợp chi
phí càng cụ thể và ngược lại.
- Phương pháp tập hợp chi phí:



15

Doanh nghiệp cần xác định phương pháp tập hợp chi phí phù hợp với từng loại
chi phí:
+ Phương pháp trực tiếp: Áp dụng cho trường hợp chi phí phát sinh chỉ liên
quan đến một đối tượng chịu chi phí. Theo phương pháp này thì chi phí của đối
tượng nào được tập hợp trực tiếp cho đối tượng đó.
+ Phương pháp phân bổ: Áp dụng cho trường hợp chi phí phát sinh liên quan
đến nhiều đối tượng chịu chi phí. Khi thực hiện phương pháp phân bổ chi phí doanh
nghiệp có thể lựa chọn một trong các căn cứ phân bổ sau: Giờ công, ngày công, giờ
máy hoạt động, diện tích sử dụng… và phương pháp phân bổ là trực tiếp hoặc theo
cấp bậc.
- Phương pháp xác định chi phí:
Phương pháp xác định chi phí là phương pháp tổng hợp các chi phí có liên
quan đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mục đích của việc tổng hợp chi phí
nhằm cung cấp thông tin về chi phí đơn vị cần thiết cho nhà quản trị để điều hành
hoạt động SXKD và là cơ sở để nhà quản trị lập các dự toán chi phí ở các mức độ
khác nhau, đồng thời là căn cứ để kiểm tra, đánh giá các chi phí phát sinh trong kỳ
kinh doanh.
- Đối tượng tính giá thành: Là kết quả của quá trình sản xuất hoặc quá trình cung
cấp dịch vụ cần được tính giá thành để phục vụ các yêu cầu quản lý. Trong doanh
nghiệp sản xuất đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm, bán thành phẩm, công
việc hoàn thành qua quá trình sản xuất. Trong doanh nghiệp dịch vụ đối tượng tính
giá thành có thể là một chương trình, một hoạt động kinh doanh nào đó. [5]
1.3.3.2. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
* Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp
truyền thống
- Hạch toán chi phí sản xuất theo phương pháp truyền thống
Theo phương pháp này, CPSX được tính vào giá thành sản phẩm hoàn thành

gồm 3 khoản mục:


16

+ Chi phí NVLTT: Là giá trị NVL chính, vật liệu phụ, nhiên liệu… được xuất
dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm.
+ Chi phí NCTT: Là khoản thù lao trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản
phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ gồm cả tiền lương và các khoản trích
theo lương.
+ Chi phí SXC: Là những khoản chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng,
phục vụ chung cho quá trình sản xuất sản phẩm ở phân xưởng như: chi phí nhân
viên PX, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí vật liệu, CCDC phục vụ tại PX, chi phí
dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác.
Chi phí SXC thường liên quan đến nhiều sản phẩm, lao vụ, dịch vụ nên cuối kỳ
thường tiến hành phân bổ cho các sản phẩm, lao vụ, dịch vụ theo một tiêu thức nhất
định.
Trên phương diện kế toán quản trị, phương pháp này có thể xem là một cách tính
đủ các yếu tố chi phí sản xuất để làm cơ sở xác định giá bán, đánh giá hiệu quả nội
bộ, kiểm soát chi phí và ra quyết định.
- Tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành theo phương pháp truyền thống
+ Tổng hợp chi phí sản xuất: Trên cơ sở hạch toán CPSX phát sinh trong kỳ, đến
cuối kỳ kế toán tổng hợp các CPSX để chuẩn bị cho việc tính giá thành sản phẩm.
Các CPSX được tập hợp và phân bổ cho từng đối tượng tính giá thành.
+ Tính giá thành sản phẩm: Giá thành sản phẩm theo phương pháp truyền thống
được tính:
Tổng giá

=


Chi phí sản xuất

+

Chi phí sản xuất

-

Chi phí sản xuất

thành SP
DDĐK
phát sinh trong kỳ
DDCK
Trong đó, chi phí sản xuất DDĐK và cuối kỳ có được là nhờ quá trình kiểm kê
và tính giá sản phẩm dở dang. CPSX phát sinh trong kỳ là kế quả của quá trình hạch
toán, phân bổ và tổng hợp CPSX trong kỳ theo đối tượng. [3, tr.130-143]
Tổng giá thành sản phẩm
Giá thành đơn vị sản phẩm

=

Sản lượng sản phẩm sản xuất
* Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp
ABC


17

Phương pháp ABC xác định đối tượng tập hợp chi phí là các hoạt động. Mỗi

hoạt động theo phương pháp này được hiểu như là nơi có yếu tố cơ bản làm phát
sinh chi phí trong DN. Do vậy, nhà quản trị có thể tìm hiểu nguyên nhân của những
biến động chi phí và có biện pháp cắt giảm phù hợp.
Nội dung của phương pháp ABC gồm 5 bước:
- Bước 1: Nhận diện các chi phí trực tiếp
Chi phí trực tiếp trong các DN sản xuất thường bao gồm: chi phí NVLTT và chi
phí NCTT. Trong mỗi hoạt động, các chi phí này có thể nhận diện ngay khi phát
sinh chi phí và được tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng tính giá thành.
- Bước 2: Nhận diện các hoạt động
Nhận diện các hoạt động là yếu tố cốt lõi của phương pháp ABC, theo đó kế
toán quản trị phải phát hiện các hoạt động có yếu tố cơ bản làm phát sinh chi phí.
Yêu tố cơ bản đó thường gọi là nguồn sinh phí. Tùy thuộc vào đặc điểm tổ chức sản
xuất và quy trình công nghệ mà mỗi DN có các hoạt động khác nhau. Có các hoạt
động thường gặp như: hoạt động khởi động máy ở PX, hoạt động kiểm tra chất
lượng sản phẩm, hoạt động đơn hàng, hoạt động vận chuyển thành phẩm… Chi phí
phát sinh ở các hoạt động thực chất là chi phí chung, không thể tập hợp trực tiếp
cho từng đối tượng tính giá thành. Các chi phí này liên quan đến nhiều đối tượng
tính giá thành cho nên cần tập hợp theo từng hoạt động, sau đó mới tiến hành phân
bổ.
- Bước 3: Chọn tiêu thức phân bổ
Sau khi các chi phí gián tiếp theo từng nhóm hoạt động thì sẽ tiến hành lựa chọn
tiêu thức phân bổ chi phí của từng nhóm hoạt động cho các đối tượng tính giá. Đây
là một bước quan trọng, trực tiếp tác động đến giá thành sản phẩm sản xuất của DN,
vì nếu tiêu thức phân bổ không phù hợp dẫn đến chi phí gián tiếp phân bổ cho các
sản phẩm sẽ bị sai lệch.
- Bước 4: Tính toán mức phân bổ
Dựa trên cơ sở các nhóm hoạt động, chi phí gián tiếp được tập hợp cho từng
nhóm sản phẩm và kế toán tiến hành tính toán tỷ lệ phân bổ. Nếu hoạt động liên



18

quan đến sản xuất một sản phẩm hoặc dịch vụ thì toàn bộ chi phí được kết chuyển
cho sản phẩm hoặc dịch vụ đó. Nếu một hoạt động được sử dụng cho sản xuất nhiều
loại sản phẩm hoặc dịch vụ thì chi phí được phân bổ cho mỗi loại sản phẩm hoặc
dịch vụ. Dựa trên mức độ tiêu dùng hoạt động của từng loại sản phẩm (dịch vụ)
- Bước 5: Tổng hợp tất cả các chi phí để tính giá thành sản phẩm. [2, tr.130-132]
1.3.4. Thiết lập hệ thống báo cáo kế toán quản trị
Hệ thống báo cáo KTQT là phương tiện để truyền đạt thông tin đến các nhà
quản lý, hệ thống báo cáo KTQT phải đảm bảo yêu cầu cung cấp thông tin thích
hợp, kịp thời và phù hợp theo từng đối tượng sử dụng thông tin. Như vậy, hệ thống
báo cáo KTQT sẽ bao gồm các loại báo cáo sau:
- Báo cáo tình hình thực hiện:
+ Báo cáo doanh thu, chi phí và lợi nhuận của từng loại sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ;
+ Báo cáo bộ phận lập cho trung tâm trách nhiệm.
- Báo cáo phân tích:
+ Phân tích mối quan hệ giữa chi phí, khối lượng, lợi nhuận;
+ Phân tích tình hình tài chính của DN;
+ Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất và
tài chính;
Ngoài ra, căn cứ yêu cầu quản lý, điều hành của từng giai đoạn cụ thể, DN có
thể lập báo cáo kế toán quản trị khác.
1.3.5. Phân tích thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc ra quyết định
1.3.5.1. Phân tích chi phí theo các trung tâm chi phí
Sự xuất hiện của trung tâm chi phí gắn liền với sự phân cấp về quản lý, mà ở đó
người quản lý có quyền và chịu trách nhiệm đối với kết quả hoạt động thuộc phạm
vi mình quản lý. Trong các doanh nghiệp, trung tâm chi phí thường tổ chức gắn liền
với các bộ phận, đơn vị thực hiện chức năng SXKD và có thể chia thành các trung
tâm: trung tâm cung ứng, trung tâm sản xuất, trung tâm quản lý và điều hành, trung

tâm đầu tư.


19

Quá trình phân tích chi phí theo trung tâm chi phí dựa trên báo cáo kết quả. Đây
là báo cáo phản ánh các chỉ tiêu tài chính chủ yếu đạt được ở từng trung tâm trách
nhiệm trong một khoảng thời gian nhất định, là báo cáo so sánh các chỉ tiêu thực tế
với dự toán phù hợp với quyền hạn và phạm vi trách nhiệm của các trung tâm trách
nhiệm có liên quan. Do đó, các trung tâm trách nhiệm phải lập báo cáo kết quả của
các bộ phận thuộc phạm vi trách nhiệm của trung tâm trách nhiệm có liên quan.
- Đối với trung tâm cung ứng: Báo cáo về tình hình cung ứng các yếu tố đầu vào
(như NVL chính, vật liệu phụ, nhiên liệu…), giá thực tế mua vào, chi phí vận
chuyển, bốc dỡ… cũng như chất lượng của từng loại vật tư. Trong báo cáo phản ánh
số liệu dự toán và số liệu thực tế, phân tích sự biến động của đơn giá mua nhằm
đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch, nỗ lực trong việc tiết kiệm các yếu tố đầu
vào. Qua đó dự đoán được xu hướng biến động giá, tình hình cung ứng vật tư giúp
DN chủ động trong sản xuất, tiết kiệm chi phí.
- Đối với trung tâm sản xuất: Báo cáo chi phí sản xuất bao gồm chi phí NVLTT,
chi phí NCTT và chi phí SXC theo số liệu thực tế và dự toán để làm cơ sở đánh giá
trách nhiệm. Tuy nhiên báo cáo kết quả của trung tâm sản xuất phải được lập chi tiết
cho từng sản phẩm, dịch vụ để kiểm soát chi phí gắn liền với trách nhiệm quản lý
của từng bộ phận.
- Đối với trung tâm quản lý và điều hành: Bao gồm bộ phận quản lý và bộ phận
điều hành.
+ Bộ phận quản lý lập báo cáo chi phí quản lý và đặt chúng trong mối quan hệ
so sánh giữa chi phí thực tế với các định mức chi phí tiêu chuẩn được chi tiết theo
từng yếu tố nhằm đánh giá mức độ thực hiện và tiết kiệm chi phí của các phòng ban
chức năng thuộc bộ phận quản lý DN.
+ Bộ phận điều hành cần đánh giá tình hình thực hiện chi phí điều hành cho từng

hoạt động (kinh doanh vận tải, xếp dỡ…). Cơ sở để đánh giá là so sánh giữa chi phí
thực tế với kế hoạch song phải đặt trong mối quan hệ với sản lượng và mức tăng
doanh thu của từng hoạt động.


20

- Đối với trung tâm đầu tư: Ngoài việc báo cáo về tình hình chi phí, doanh thu,
lợi nhuận mà còn chịu trách nhiệm báo cáo về các khoản vốn đầu tư, khả năng huy
động và sử dụng các nguồn tài trợ. Số liệu đánh giá dựa trên thực tế so với dự toán.
Các báo cáo bộ phận được lập nhằm kiểm soát chi phí của từng bộ phận cụ thể
gắn liền với trách nhiệm của từng cấp quản lý. Song kết quả tổng hợp của các bộ
phận trong việc nỗ lực kiểm soát và tiết kiệm chi phí lại được thể hiện ở chỉ tiêu
cuối cùng là chi phí tính đơn vị sản phẩm (hay chỉ tiêu giá thành sản phẩm). Để
đánh giá mức độ tiết kiệm chi phí ở phạm vi chung toàn DN, xác định kết quả kinh
doanh cũng như việc xây dựng các chính sách giá, hoàn thiện các định mức chi phí
và lập kế hoạch chi phí cho kỳ sau yêu cầu kế toán phải sử dụng các phương pháp
để xác định chi phí đơn vị sản phẩm.
Khi phân tích trung tâm chi phí nếu thấy dấu hiệu bất lợi thì cần xác định những
tác động bất lợi của các bộ phận tương ứng như tình hình cung ứng vật tư, lao động,
tình hình sản xuất, tình hình biến động giá cả, tình hình điều hành của nhà quản
lý… Như vậy đánh giá trách nhiệm của trung tâm là giải thích những nguyên nhân
nhằm tìm ra những khó khăn để tập trung khắc phục đảm bảo hoàn thành trách
nhiệm và mục tiêu chung của DN. [3, tr. 304-307]
1.3.5.2. Phân tích thông tin chi phí thích hợp cho việc ra quyết định kinh doanh
Phương pháp phân tích thông tin chi phí thích hợp sẽ hỗ trợ cho nhà quản trị
trong việc lựa chọn các thông tin thích hợp cho việc ra quyết định kinh doanh. Quá
trình ra quyết định là việc lựa chọn từ nhiều phương án khác nhau, mỗi phương án
bao gồm rất nhiều thông tin kế toán. Trong đó, thông tin về chi phí luôn là yếu tố
quan trọng mà các DN cần xem xét để lựa chọn khi ra các quyết định thích hợp.

Quá trình phân tích thông tin chi phí thích hợp bao gồm các bước:
- Tập hợp chi phí liên quan đến mỗi phương án kinh doanh, chi phí này bao gồm
chi phí thực tế ước tính, chi phí tiềm ẩn và chi phí cơ hội.
- Loại bỏ các chi phí chìm, là những chi phí phát sinh luôn tồn tại ở tất cả các
phương án kinh doanh.


21

- Loại bỏ các chi phí phát sinh như nhau trong tương lai ở các phương án kinh
doanh.
- Các chi phí còn lại là thông tin chi phí thích hợp cho việc chọn các phương án.
Thông tin chi phí thích hợp sẽ khác nhau khi so sánh lựa chọn các phương án
kinh doanh. Tuy nhiên, tùy theo từng mục đích mà kế toán sử dụng thông tin thích
hợp cho việc ra quyết định. Các nhà kế toán quản trị chi phí phải phân loại và nhận
diện chi phí một cách đúng đắn nhằm đáp ứng yêu cầu quản trị chi phí. Mô hình
phân tích thông tin chi phí thích hợp giúp nhà quản trị có được những thông tin
nhanh hơn nhưng vẫn đảm tính khoa học và chính xác. [3, tr. 215-219]
1.3.6. Phân tích biến động chi phí sản xuất phục vụ kiểm soát chi phí
1.3.6.1. Kiểm soát chi phí NVLTT
Chi phí NVLTT bao gồm các chi phí nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ
hao phí cho từng quá trình sản xuất. Biến động chi phí NVLTT có thể được kiểm
soát gắn liền với các nhân tố giá và lượng có liên quan.
- Phân tích biến động
+ Biến động giá: là chênh lệch giữa giá NVLTT thực tế với giá NVLTT theo dự
toán để sản xuất ra lượng sản phẩm nhất định. Nếu tính trên một đơn vị sản phẩm
thì nó phản ánh giá cả của một đơn vị NVL để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm đã
thay đổi như thế nào so với dự toán.

Ảnh


Đơn giá

Đơn giá

hưởng về

nguyên

nguyên

giá đến
biến động

=

vật liệu
trực tiếp

-

vật liệu
trực tiếp

Lượng
x

NVLTT
thực tế sử


dụng
NVLTT
thực tế
dự toán
+ Biến động về lượng: Là chênh lệch giữa lượng NVLTT thực tế với lượng

NVLTT dự toán để sản xuất ra lượng sản phẩm nhất định. Biến động về lượng phản


22

ánh tiêu hao vật chất thay đổi như thế nào và ảnh hưởng đến tổng chi phí NVLTT ra
sao. Biến động về lượng được xác định:
Ảnh

Nguyên

Nguyên

hưởng về

vật liệu

vật liệu

lượng đến

=

biến động


trực tiếp

-

thực tế

trực tiếp

Đơn giá
x

dự toán

NVLTT
sử dụng
1.3.6.2. Kiểm soát chi phí nhân công trực tiếp

NVLTT
dự toán

sử dụng

Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm chi phí lương và các khoản trích theo lương
tính vào chi phí, như kinh phí công đoàn, BHXH, BHYT của công nhân trực tiếp
vận hành từng quá trình sản xuất. Biến động của chi phí nhân công trực tiếp gắn
liền với các nhân tố giá và lượng liên quan.
- Phân tích nhân tố ảnh hưởng
+ Nhân tố giá: là chênh lệch giữa giá giờ công lao động trực tiếp với dự toán để
sản xuất ra lượng sản phẩm nhất định. Nhân tố này phản ánh sự thay đổi về giá của

giờ công lao động để sản xuất sản phẩm ảnh hưởng đến chi phí nhân công trực tiếp.
Ảnh hưởng
của giá đến
biến động chi

Đơn giá
=

nhân công

Đơn giá
-

trực tiếp

phí NCTT

nhân công

Thời gian
x

trực tiếp

lao động
thực tế

thực tế
dự toán
+ Nhân tố lượng: là chênh lệch giữa số giờ lao động trực tiếp thực tế với dự toán


để sản xuất ra lượng sản phẩm nhất định. Nhân tố này ảnh hưởng sự thay đổi về số
giờ công để sản xuất sản phẩm ảnh hưởng đến chi phí nhân công trực tiếp hay gọi
nhân tố năng suất. Ảnh hưởng của nhân tố lượng thể hiện như sau:
Ảnh hưởng

Đơn giá

của thời gian
lao động đến
biến động chi
phí NCTT

=

Thời gian
lao động
thực tế

Thời gian
-

lao động

nhân
x

công trực

theo


tiếp dự

dự toán

toán


23

1.3.6.3. Kiểm soát chi phí sản xuất chung
Chi phí SXC biến động là do sự biến động biến phí sản xuất chung và biến động
của định phí SXC.
Biến động chi phí

=

Biến động định phí

sản xuất chung
sản xuất chung
- Kiểm soát biến động biến phí sản xuất chung:

+

Biến động biến phí
sản xuất chung

Biến phí SXC gồm những chi phí gián tiếp liên quan đến phục vụ và quản lý
hoạt động sản xuất. Chi phí nay thường thay đổi theo sự biến thiên của mức độ hoạt

động sản xuất của DN như: chi phí vật tư gián tiếp, tiền lương bộ phận quản lý trả
theo sản phẩm gián tiếp…
Biến động của biến phí SXC do nhiều nguyên nhân, nhưng về phương pháp
phân tích trong kiểm tra, nó cũng được phân tích thành ảnh hưởng của nhân tố giá
và nhân tố lượng như đối với chi phí NVLTT và chi phí NCTT.
Ảnh hưởng của nhân tố giá đến biến phí SXC thường do sự thay đổi của các
mức chi phí được xem là biến phí SXC. Các mức này thay đổi thường do nhiều
nguyên nhân như: đơn giá mua vật liệu gián tiếp cũng như chi phí thu mua thay đổi,
sự biến động giá cả chung của thị trường,… Nếu biến phí SXC được xây dựng
chung cho nhiều yếu tố chi phí theo mức hoạt động thì ảnh hưởng của nhân tố giá
được xác định:
Ảnh
hưởng của
giá đến

Đơn giá
=

biến phí

biến phí

Đơn giá
-

SXC

biến phí

Mức độ

x

SXC

hoạt động
thực tế

SXC
thực tế
dự toán
Ảnh hưởng của lượng (mức độ hoạt động) đến biến động của biến phí SXC
được xác định:
Ảnh hưởng

=

-

x

Đơn giá

của lượng

Mức độ

Mức độ

biến phí


đến biến phí

hoạt động

hoạt động

SXC dự


24

SXC
thực tế
dự toán
toán
Ảnh hưởng của nhân tố lượng có thể do nhiều nguyên nhân, như tình hình thay đổi
sản xuất theo nhu cầu kinh doanh của DN, điều kiện trang thiết bị không phù hợp
phải giảm sản lượng sản xuất hoặc dẫn đến năng suất máy móc thiết bị giảm…
- Kiểm soát định phí SXC
Định phí SXC là các khoản chi phí phục vụ và quản lý sản xuất, thường không
thay đổi theo sự biến thiên của mức độ hoạt động trong phạm vi phù hợp. Chẳng
hạn: tiền lương bộ phận quản lý phân xưởng trả theo thời gian, chi phí bảo hiểm,
tiền thuê mặt bằng… là những chi phí không thay đổi theo quy mô sản xuất trong
phạm vi hoạt động. Biến động định phí SXC thường liên quan đến việc thay đổi cấu
trúc sản xuất của DN hoặc do hiệu quả sử dụng năng lực sản xuất của DN…
Kiểm soát định phí SXC nhằm đánh giá việc sử dụng năng lực TSCĐ.
Biến động định phí

=


Định phí sản xuất

-

Định phí sản xuất

sản xuất chung
chung thực tế
chung theo dự toán
Khi phân tích định phí SXC, người ta cần xem xét định phí tùy ý, định phí bắt
buộc cũng như định phí kiểm soát được với định phí không kiểm soát được để xác
định nguyên nhân, trách nhiệm cụ thể của các bộ phận. [2, tr. 232-243]

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Kế toán quản trị là công cụ không thể thiếu để thực hiện quản trị doanh nghiệp
một cách khoa học và hiệu quả, trong đó KTQT chi phí là một bộ phận của KTQT,
thực hiện chức năng xử lý và cung cấp các thông tin về chi phí nhằm thực hiện tốt
chức năng quản trị. Trong chương này tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận về
KTQT chi phí. Trước hết trình bày khái quát KTQT chi phí, bản chất và vai trò của
KTQT chi phí, phân loại chi phí trong doanh nghiệp sản xuất. Sau đó, xác định nội
dung của KTQT chi phí bao gồm lập dự toán chi phí, kế toán tập hợp chi phí và tính
giá thành sản phẩm, phân tích thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc ra quyết


25

định, thiết lập hệ thống báo cáo KTQT và cuối cùng là tổ chức mô hình kế toán
phục vụ KTQT chi phí. Đây là cơ sở lý luận làm tiền đề cho việc phân tích thực
trạng KTQT chi phí tại Tổng công ty Cổ phần Y tế Danameco, từ đó đưa ra những
giải pháp hoàn thiện KTQT chi phí tại Công ty.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ TẠI TỔNG
CÔNG TY CỔ PHẦN Y TẾ DANAMECO
2.1. Tổng quan về Tổng công ty cổ phần y tế Danameco
2.1.1. Đặc điểm hình thành, phát triển của công ty, chức năng, nhiệm vụ của
công ty
2.1.1.1. Đặc điểm hình thành, phát triển của công ty
- Năm 1976 Trạm vật tư y tế Quảng Nam Đà Nẵng được Sở y tế Quảng Nam Đà
Nẵng thành lập, nhằm thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận hàng viện trợ y tế để khắc phục
hậu quả sau chiến tranh.


×